----------
Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa
Thursday 3 April 2014
Home »
Bình luận
» Tưởng niệm biến cố 30-4-1975, nhìn lại lịch sử: : VÌ SAO CÓ CUỘC CHIẾN Ý THỨC HỆ QUỐC – CỘNG TẠI VIỆT NAM?
Tưởng niệm biến cố 30-4-1975, nhìn lại lịch sử: : VÌ SAO CÓ CUỘC CHIẾN Ý THỨC HỆ QUỐC – CỘNG TẠI VIỆT NAM?
Thursday, April 03, 2014
No comments
Theo
nhận định của chúng tôi có hai nguyên nhân Chủ yếu
đã đưa đến cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng
tại Việt Nam: Nguyên nhân lịch sử và nguyên nhân mâu
thuẫn đối kháng giữa ý thức hệ quốc gia và ý thức
hệ cộng sản trên bình diện lý luận và thực tiễn.
I/- NGUYÊN NHÂN LỊCH SỬ.
Chính
bối cảnh đất nước bị ngoại xâm và nhu cầu kháng
chiến giành độc lập của nhân dân Việt Nam đã đưa
đến cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt
Nam.
Thật vậy, trước
hết một cách tổng quát: Việt Nam dưới ách thống trị
của thực dân Pháp và cuộc kháng chiến trường kỳ của
các thế hệ quốc dân Việt Nam yêu nước nhằm đánh đổ
chế độ thuộc địa, giành độc lập, tự chủ cho dân
tộc đã là bối cảnh du nhập và phát triển ý thức hệ
cộng sản tại Việt Nam.
1.- Từ
ý thức hệ quốc gia chủ đạo kháng chiến chống thực
dân Pháp.
Thật vậy, vào giữa
thế kỷ 18, Châu Âu kỹ nghệ hóa cần nhiều nguyên liệu,
thị trường tiêu thụ hàng hóa phục vụ cho nhu cầu phát
triển chính quốc, các đế quốc đã thi nhau tiến hành
các cuộc chiến tranh xâm lược mở rộng thuộc địa. Đế
quốc Anh sau khi củng cố quyền thống trị trên Ấn Độ,
đã thôn tính Úc châu, Tân Tây Lan, chuẩn bị thực hiện
ý đồ xâm lược Trung quốc qua cuộc Chiến Tranh Nha
Phiến. Trong khi đó, thực dân Pháp đã chiếm Algerie và
đang đi tìm căn cứ trên bờ biển Trung quốc, làm bàn
đạp thôn tính các nước trong vùng.
Ngày 31-8-1858, Chiến
Hạm Pháp đã bắn phá cửa biển Đà Năng, mở đầu cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam, để sau đó từng bước
thiết lập chế độ thuộc địa tại Việt Nam, bành
trướng qua Lào và Kampuchia. Tất nhiên, không phải là dễ
dàng khi thực hiện quá trình xâm lược này (1958-1884).
Trên thực tế, thực dân Pháp đã phải đương đầu với
các cuộc kháng chiến liên tục và đều khắp đất nước
của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam.
Trong những ngày đầu,
lịch sử Việt Nam ghi nhận có các cuộc nổi dậy của
nhân dân Nam Bộ dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Trung
Trực, Thủ Khoa Huân và nhiều sĩ phu yêu nước Miền Nam.
Tiếp đến là các phong trào đấu tranh chống thực dân
Pháp giành độp dưới ngọn cờ “Cần
Vương, Văn Thân”,
nối tiếp nhau trong nhiều thập niên cuối thế kỷ XIX.
Hầu hết các nhà lãnh đạo các phong trào này đều xuất
thân trong hàng ngũ quan lại chế độ quân chủ chuyên chế
Việt Nam như Tôn Thất Thuyết,Phan Đình Phùng,Hoàng Hoa
Thám, Cao Thắng, Nguyễn Thiện Thuật…Vì thế ý thức hệ
quốc gia chủ đạo kháng chiến giai đọan này là ý
thức hệ thần quyền Thiên Mệnh của
Khổng giáo.Theo đó từ nhà lãnh đạo đến quần chúng
tham gia kháng chiến có chung ý tưởng hy sinh đánh đuổi
thực dân Pháp giành lại ngai vàng cho Vua, cho hoàng tộc
để tái lập quyền cai trị độc lập tự chủ của
người Việt Nam. Bởi vì hệ tư tưởng quân chủ chuyên
chế Khổng Mạnh, du nhập từ Trung quốc, dựa trên thuyết
thần quyền thiên mệnh: Vua là Thiên tử,được Trời
trao ban quyền cai trị muôn dân, là chủ đất nước, là
biểu tượng quốc gia. Đạo quân thần đã đưa đến hệ
quả là lòng
“Trung quân, ái quốc”, là
trung thành, hy sinh sống chết bảo vệ ngai vàng cho Vua tức
là yêu nước vậy…
Bước qua đầu thế
kỷ XX,trào
lưu tư tưởng dân chủ Phương Tây đã
thẩm nhập vào Việt Nam và trở thành ý thức hệ thứ
hai chủ đạo kháng chiến chống Pháp giành độc lập dân
tộc. Những tác phẩm nổi tiếng như “L’Esprit Des
Lois”, “Contrat Social” của Montesquieu và J.J Rousseau cũng
như những tư tưởng tự do, công bình, bác ái, nhân
quyền, và các quyền dân chủ, dân sinh khởi đi từ cuộc
Cách Mạng Pháp 1789 đã ảnh hưởng đến chiều hướng
đấu tranh của các nhà ái quốc Việt Nam.Thêm vào đó là
trào lưu tư tưởng của các nhà dân chủ Trung Hoa như
Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, cùng với một nước Nhật
canh tân tiến đến tự cường và trở thành một cường
quốc Á Châu cũng đã là những tấm gương sáng có sức
thu hút mạnh mẽ giới sĩ phu yêu nước ViệtNam.
Thực vậy, từ đầu
thế kỷ XX, lịch sử Việt Nam bắt đầu ghi nhận` tư
tưởng chủ đạo kháng chiến chống Pháp đi từ trung
dung “Nửa
quân chủ, nửa
dân chủ”
đến
“dân chủ hoàn toàn”.
Phong trào Đông Du
(1906-1908) của cụ Phạn Bội Châu, Đông Kinh Nghĩa Thục
(1907) của cụ Phan Chu Trinh và Việt Nam Quang Phục Hội
của Cụ Phan Bội Châu…là những phong trào kháng chiến
theo chiều hướng trung dung.Theo chiều hướng này, cuộc
kháng chiến giành độc lập diễn ra dưới nhiều hình
thức, đặt nặng vấn đề giáo dục quần chúng, nâng
cao dân trí, cổ vũ lòng yêu nước, chuẩn bị về lâu về
dài cho các cuộc khởi nghĩa vũ trang sau này khi đủ thế
lực và thời cơ thuận lợi.
Chủ trương của trào
lưu kháng chiến này là, sau khi đánh đuổi được thực
dân Pháp, sẽ thiết lập một chế độ quân
chủ lập
hiến kiểu
Nhật Bổn và một số quốc gia khác trong vùng như Thái
Lan, Mã Lai…Ước mơ của các nhà lãnh đạo kháng chiến
lúc này là giành được độc lập rồi, vẫn giữ lại
ngai vàng cho Vua để trọn đạo
“Quân
Thần”,
đồng thời
cũng muốn bảo vệ quyền
dân chủ cho
nhân dân bằng một bản hiến pháp thành văn. Đây là một
chủ trương nhằm dung hòa quyền lợi giữa giai cấp thống
trị và nhân dân bị trị, giúp cho các nhà lãnh đạo
xuất thân từ “Cửa
Khổng, sân Trình”
cảm thấy an tâm trọn đạo thánh hiền. Nhưng rồi ước
mơ này cũng đã không thực hiện được. Các phong trào
đấu tranh theo hệ tư tưởng trung dung cũng đã lần lượt
bị thất bại, nhường chỗ cho một khuynh hướng tích
cực hơn xuất hiện trong hàng ngũ các nhà lãnh đạo theo
Tây học.
Điển hình cho
khuynh hướng này có Nguyễn Thái Học và các đồng chí
của Ông, đã hình
thành một chính đảng kiểu Tây Phương đầu tiên: “Việt
Nam Quốc Dân Đảng”(1923-1924).Do
chịu ảnh hưởng trực tiếp về tư tưởng và tổ chức
của Quốc Dân Đảng Trung Hoa. Việt Nam Quốc Dân Đảng
chủ trương đấu tranh bằng bạo lực quân sự kết hợp
với sức mạnh nổi dậy của quần chúng để giành độc
lập dân tộc.Sau đó thiết lập chế độ dân chủ theo
mô hình “Tam
dân chủ nghĩa”
của Tôn Văn và vận dụng nguyên tắc phân quyền của hệ
dân chủ Phương Tây, để
dân chủ, dân quyền được tôn trọng, dân sinh được ấm
no, hạnh phúc.
Với lòng yêu nước
nồng nàn, bầu nhiệt huyết tuổi trẻ, năm 1930 lãnh tụ
Nguyễn Thái học và Việt Nam Quốc Dân Đảng đã lãnh
đạo cuộc khởi nghĩa võ trang cướp chính quyền ở Yên
Báy. Cuộc khởi nghĩa này đã không thành công, Nguyễn
Thái Học và 12 đồng chí của Ông đã hiên ngang bước
lên đoạn đầu đài nhận lãnh cái chết anh hùng cho “Tổ
Quốc quyết sinh”.
Mục tiêu và ước mơ tối hậu của các nhà ái quốcViệt
Nam tuy chưa thành công, nhưng “đã
thành nhân”
như lời khẳng định trước đó của lãnh tụ Nguyễn
Thái Học.
2.- Đến
ý thức hệ cộng sản chủ đạo kháng chiến chống Pháp.
Sau cuộc khởi nghĩa
Yên Báy của Việt Nam Quốc Dân Đảng thất bại, thực
dân Pháp đã thực hiện các cuộc ruồng bắt và đàn áp
dã man các nhà ái quốc việt Nam. Từ đây khuynh hướng
đấu tranh giành độc lập theo hệ
tư tưởng quân chủ Đông phương và
hệ tư tưởng dân chủ Tây Phương như
tạm thời lắng dịu.Một khuynh hướng đấu tranh chống
thực dân Pháp theo hệ
tư tưởng Marxism-Leninnism,
tức ý
thức hệ cộng sản
xuất hiện. Khuynh hướng này có mục tiêu tối hậu khác
với mục tiêu tối hậu của khuynh hướng chống thực
dân Pháp trước đó, gọi chung là ý thức hệ quốc gia.
(Quân
chủ
và dân
chủ).
Nghĩa
là, nếu
khuynh hướng theo ý thức hệ quốc gia có mục tiêu tối
hậu của cuộc kháng chiến chống pháp là giành độc lập
dân tộc, để sau đó thiết lập một chế độ quân chủ
hay quân chủ lập hiến hoặc một chế độc dân chủ đại
nghị,
thì
khuynh hướng theo ý
thức hệ cộng sản chỉ coi “Giành độc lập” là mục
tiêu giai đoạn.
Mục
tiêu tối hậu của khuynh hướng ý thức hệ cộng sản
là đưa đất nước và dân tộc Việt Nam vào hệ thống
cộng sản quốc tế để thực hiện chủ nghĩa cộng sản,
tiến tới một “Thế giới đại đồng”, không còn
biên giới quốc gia, vì sự nghiệp của cộng sản quốc
tế(cộng
sản hóa toàn cầu).
Thật
vậy,lãnh
tụ của cuộc kháng chiến chống Pháp theo hệ tư tưởng
cộng sản là Nguyễn Tất Thành, tức Nguyễn Ái Quốc hay
Hồ Chí Minh.
Theo
tài liệu tuyên truyền của Việt cộng, thì ông Hồ Chí
Minh khởi đầu là người theo chủ nghĩa yêu nước mang ý
thức hệ quốc gia trước khi trở thành môn đồ của chủ
nghĩa cộng sản.Xuất thân từ một nền giáo dục nửa
Nho học, nửa Tây học, biết đọc biết viết, không học
vị. Năm 1911 Ông Hồ đã ra khỏi nước, bôn ba nhiều năm
ở hải ngoại, nơi các nước đế quốc tư bản cũng như
thuộc địa để tìm đường cứu nước…Sau cùng Ông Hồ
đã “tìm
ra được con đường cứu nước”; rằng
“Muốn
cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào
khác ngoài con đường Cách mạng Vô sản”(1).
Ông Hồ vui mừng và thốt lên câu nói này có lẽ là vì
Ông tin tưởng vào thế đối cực hình thành sau cuộc
Cách Mạng Tháng 10 Nga năm 1917, có thể dựa vào Liên Xô
như một thế đối trọng sẽ đưa cuộc kháng chiến
chống Pháp đến Thành Công. Thực tế sau này quả Ông Hồ
đã thành cộng sau cuộc kháng chiến chín năm dưới sự
chủ đạo của đảng CSVN nhờ thế dựa vào cộng sản
quốc tế.Thế nhưng nếu cái gọi là cuộc chiến thắng
Điện Biên kết thúc chín năm kháng chiến, đã chấm dứt
được chế độ thực dân Pháp thì Ông Hồ và đảng
CSVN đã đưa đất vào vòng nô lệ mới trong gọng kìm
của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng
sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, với hai cực cường
Liên Xô – Hoa Kỳ, đã xô đẩy nhân dân và đất nước
vào một thảm trạng mới, đã gây hậu quả nghiêm trọng,
toàn diện, di hại lâu dài cho dân cho nước sau này.Chính
vị hệ quả này chúng tôi cũng như nhiều người khác
cho rằng cuộc kháng chiến 9 năm do Ông Hồ và đảng CSVN
phát động chủ đạo tiến hành là sự phí phạm xương
máu nhân dân, tài nguyên đất nước không cần thiết, vì
Việt Nam vẫn có thể được độc lập bằng phương cách
hòa bình vào thời điểm chủ nghĩa thực dân cũ đã bước
vào thời kỳ cáo chung, nhiều thuộc địa khác không cần
đổ máu cũng đã được trao trả độc lập cùng thời
hay sớm hơn, tiêu biểu như đế quốc Anh trao trả độc
lập cho Ấn Độ ngày 15-8-1947, cho Pakistan ngày 14-8-1947,
cho Afghanistan ngày 14-9-1949; đế quốc Hòa Lan trao trả độc
lập cho Indonesia ngày 14-8-1949…
Trong
khi trước đó, cuộc kháng chiến chống pháp dưới sự
lãnh đạo của các nhà ái quốc theo ý thức hệ quốc
gia sở dĩ chưa thành công vì những điều kiện khách
quan không thuận lợi nên không tìm được thế dựa trong
bối cảnh độc cực, với các cường quốc đế quốc có
chung chủng loại thực dân chia nhau xâm chiếm các quốc
gia nghèo yếu làm thuộc địa khai thác lợi nhuận. Ngay
cả nỗ lực của một số nhà ái quốc Việt Nam như Phan
Bội Châu qua phong tráo Đông Du, muốn tìm thế dựa Nhật
Bổn một cường quốc mới trong vùng Châu Á, mới manh
nha đã thất bại.Vì vậy Ông Hồ đã vui mừng đến
phát khóc và hét to một mình như thế trong nhà trọ ở
Paris Pháp quốc, sau khi đọc được tác phẩm kinh điển
nổi tiếng của Vladimir Lenine “Luận
Cương Chính Trị Tháng Tư”
(2). Nội dung tác phẩm này viết về vấn đề thuộc địa
và các dân tộc bị áp bức. Ông Hồ như được giác ngộ
bởi lý tưởng cộng sản và đã gia nhập đảng Cộng
Sản Pháp (1920), qua Liên Xô, được giáo dục, đào tạo
để trở thành môn đồ trung thành của chủ nghĩa Cộng
sản.Từ đó Ông Hồ liên lạc , tuyên truyền, huấn
luyện, tuyển chọn,móc nối được một số đồng chí,
tiến tới thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam
tại Hongkong (3-2-1930).
Theo
chính cương và sách lược đấu tranh của Cộng đảng
Việt Nam được thông qua trong Đại Hội thành lập đảng
thì có hai mục tiêu đấu tranh trường kỳ:
Đánh đuổi thực dân Pháp để giải quyết mâu thuẫn
dân tộc(với
thực dân Pháp)
và cộng
sản hóa Việt Nam để giải quyết mâu thuẫn giai cấp (
giữa giai cấp công nhân với tư bản, nông dân với địa
chủ, giai cấp thống trị với bị trị…).Để
đánh đuổi thực dân Pháp,Cộng đảng Việt Nam đã tiến
hành cuộc “Cách
mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân”.
Để
cộng sản hóa Việt Nam, Cộng đảng Việt Nam đã tiến
hành “cách
mạng Xã hội Chủ Nghĩa”.
Lực
lượng chủ yếu để tiến hành các cuộc cách mạng
trước sau này, theo lý luận là giai cấp công nhân liên
minh với giai cấp nông dân và nhân dân lao động nghèo,
dưới sự lãnh đạo độc tôn của Cộng đảng Việt
Nam.Phương thức đấu tranh chủ yếu là “bạo
lực cách mạng”
(bao
gồm bạo lực quân sự kết hợp với bạo lực chính
trị),
được thực hiện dưới nhiều hình thức: bí mật, công
khai, hợp pháp, bán hợp pháp và bất hợp pháp, bằng mọi
thủ đoạn cần thiết để thành đạt mục tiêu theo
phương châm “Cứu
cánh biện minh cho hành động”.
Trên
thực tế, từ ngày thành lập Cộng Đảng Việt Nam, dù
có lúc thay tên đổi họ (Đảng
Cộng Sản Đông Dương, Đảng Lao Động Việt Nam),
thậm chí có lúc do tình hình thực tế đòi hỏi phải
tuyên bố tự giải tán, nhưng qua cuộc kháng chiến chống
Pháp (1930-1954),cuộc chiến tranh Quốc-Cộng (1954-1975) và
qua 55 năm kể từ ngày thành lập đảng CSVN đến khi thực
hiện chính sách “Đổi Mới” (1930-1985) sau khi nắm
quyền thống trị cả nước, Việt cộng đã thực hiện
khá sát chính cương và sách lược trên đây của họ.
(Thực hiện như thế nào, chúng tôi sẽ trình bầy chi
tiết trong tài liệu nghiên cứu lý luận “Cuộc
Nội Chiến Ý Thức Hệ Quốc – Cộng Tại Việt Nam”).
II/- NGUYÊN NHÂN MÂU THUẪN
ĐỐI KHÁNG GIỮA Ý THỨC HỆ QUỐC GIA VÀ Ý THỨC HỆ
CỘNG SẢN
Mâu thuẫn đối
kháng (một mất
một còn) giữa ý
thức hệ quốc gia và ý thức hệ cộng sản đã là
nguyên nhân chủ yếu thứ hai đưa đến cuộc nội chiến
ý thức hệ Quốc- Cộng tại Việt Nam, giữa người Việt
theo ý thức hệ quốc gia (Việt
quốc) và
người Việt theo ý thức hệ cộng sản (Việt
cộng). Mâu
thuẫn đối kháng này được thể hiện trên hai bình diện
lý luận và thực tiễn.
1.- Trên bình diện lý
luận, chủ nghĩa
cộng sản dù có là một lý tưởng cao đẹp có tính mê
hoặc lòng người, nhất là những người trẻ tuổi vốn
say mê lý tưởng vào đời, nhưng không tưởng theo nghĩa
một lý tưởng không thể thực hiện được. Vì vậy,
những cá nhân (đảng
viên cộng sản)
hay tập đoàn (đảng
cộng sản)
ở bất cứ quốc gia nào, khi vận dụng chủ nghĩa cộng
sản vào thực tiễn đã chỉ là tai họa thảm khốc, phá
hủy mọi nền tảng đạo đức, văn hóa dân tộc, mất
độc lập tự chủ, đưa nhân dân dân vào cảnh mất tự
do, đói khổ, lầm than, di hại nghiêm trọng, toàn diện
và lâu dài cho nhiều thế hệ nhân dân,phân hóa dân tộc
của quốc gia ấy.
Rốt cuộc, cái gọi
là “cuộc
cách mạng vô sản”
để xây dựng
“một xã hội không người bóc lột người”
(Từ xã hội: xã
hội chủ nghĩa,còn giai cấp, đến xã hội cộng sản chủ
nghĩa, không còn giai cấp, không còn nhà nước…)
chỉ là chiêu bài lừa mị của một tập đoàn thống trị
độc quyền, độc tôn, độc tài (đảng
cộng sản)
để xây dựng “một
xã hội người
(với
thiểu số
cán bộ đảng viên CS)
độc quyền áp bức bóc lột người (tuyệt
đại đa số nhân dân)”
chưa từng có
trong lịch sử hình thành các xã hội loài người có
giai cấp (xã hội
cộng sản nguyên thủy, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã
hội phong kiến, xã hội tư bản…theo duy vật sử quan
Marxism)
2.-Trên bình diện thực
tiễn, những người
cộng sản Việt Nam (Việt
cộng)
nói riêng, cộng sản quốc tế nói chung, đã tin theo và
vận dụng chủ nghĩa cộng sản vào thực tế nước ta,
(cũng như một số
nước khác trên thế giới),đã
gây tác hại nghiêm trọng, tòan diện, lâu dài trên con
người, dân tộc và đất nước Việt Nam trong nhiều thập
niên qua và di hại lâu dài cho Dân tộc và Đất nước
Việt Nam qua nhiều thế hệ sau này.
Vì tin và hành
động theo “ý
thức hệ cộng sản”
Việt cộng đã đánh mất bản sắc dân tộc, tách rời
khỏi lịch sử chính thống quốc gia Việt Nam và dùng
“Tính
giai cấp”
và lăng kính “đấu
tranh giai cấp” để
phê phán chủ quan, không trung thực về các triều đại
và các anh hùng hào kiệt của lịch sử Việt Nam, xuyên
tạc lịch sử và chối bỏ Tổ Quốc Việt Nam, để chọn
và tôn thờ cái gọi là “Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa”
là tổ quốc của mình. Và vì vậy cộng sản Việt Nam
sẵn sàng hy sinh quyền lợi của Tổ Quốc và dân tộc
việt nam cho quyền lợi của đảng Cộng sản Việt Nam và
quốc tế cộng sản.
Vì chủ trương
hận thù và đấu tranh giai cấp
Việt cộng đã phá đổ mọi quan hệ xã hội giữa người
với người, đã không ngần ngại thủ tiêu, bắn giết
và làm mọi điều tàn ác với với những người anh em
cùng mầu da sắc máu, chung nguồn gốc Việt tộc với
họ,theo phương châm “cứu
cánh biện minh cho hành động”.(như
đã làm trong giai đoạn Chiến Tranh Quốc Cộng 1954-1975
điển hình là đã tàn sát, chôn sống hàng ngàn quân dân,
cán chính Việt Nam Cộng Hòa trong biến cố Tết Mậu Thân
1968 ở Huế và các nơi khác trong suốt cuộc chiến tranh
Quốc- Cộng)
Vì chủ trương vô
thần, chết là
hết, nên Việt cộng không sợ hậu quả, đã thẳng tay
đàn áp những người dân hữu thần, dùng mọi thủ đoạn,
phương cách dù bất nhân, tàn bạo nhằm tiêu diệt mọi
tín ngưỡng, mọi tôn giáo, vốn là nhu cầu quan yếu
trong đời sống tâm linh của con người, và là một thực
thể xã hội góp phần vào nền đạo đức xã hội nhân
bản qua mọi thời đại.
Thực tế là, sau khi
nắm được quyền thống trị toàn đất nước 39 năm qua
và trước đó trên một nửa nước Miền Bắc, đảng
Cộng sản Việt Nam đã áp đặt một chế độ độc tài
toàn trị, với một đảng duy nhất nắm quyền thống trị
(đảng
CSVN) với
một nhà nước “Chuyên
chính vô sản”
(tức độc tài
cộng sản) bác
đọat quyền tự do, dân chủ và các nhân quyền cơ bản
của nhân dân, thông qua “
một chính quyền của đảng, do đảng và vì đảng cộng
sản Việt Nam”, một
công cụ trấn áp nhân dân, duy trì và bảo vệ quyền cai
trị độc tài, độc tôn, độc quyền với những ưu
quyền đặc lợi của một giai cấp thống trị mới, giai
cấp cán bộ đảng viên cộng sản,chia
nhau nắm quyền chia lợi ở các cấp, các ngành trong bộ
máy đảng và bộ máy nhà nước. Nghĩa là một giai cấp
thiểu số (khoảng
3 triệu đảng viên CS)
thống trị trên tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam
(trên 90 triệu
dân)từ thượng
tầng quốc gia đến hạ tầng cơ sở.
Đó là những lý do
khái quát, căn bản trên bình diện lý luận và thực
tiễn, khiến những người Việt Nam theo ý thức hệ quốc
gia (Việt
quốc), hay là
những người Việt Nam không cộng sản từ quá khứ đến
hiện tại, từ trong nước ra hải ngoại, đã và vẫn
đang tiếp tục con đường chống cộng cho đến khi thành
đạt mục tiêu lý tưởng theo ý thức hệ quốc gia của
mình.
III/- KẾT LUẬN:
Cuộc nội chiến ý
thức hệ Quốc – Cộng tại Việt Nam phát sinh từ hai
nguyên nhân: Bối cảnh lịch sử và mâu thuẫn đối kháng
giữa ý thức hệ Quốc gia và ý thức hệ Cộng sản.
Nguyên nhân lịch sử
bắt nguồn từ sự thất bại của các cuộc kháng chiến
chống Pháp giành độc lập dưới sự lãnh đạo của các
nhà ái quốc theo ý thức hệ quốc gia, do tự mình không
đủ sức, lại không tìm được hậu thuẫn quốc tế tạo
thế đối trọng khả dĩ thay đổi cán cân lực lượng
giữa kháng chiến và nhà cầm quyền thực dân Pháp, khi
mà hầu hết các cường quốc đế quốc lúc bấy giờ có
chung chủng loại thực dân phân chia nhau xâm chiếm các
thuộc địa. Nỗ lực của một số nhà ái quốc theo ý
thức hệ quốc gia như nhà ái quốc Phan Bội Châu muốn
dựa vào cường quốc Nhật Bổn trong vùng Châu Á qua
Phong Trào Đông Du,vì lầm tưởng thuyết “Đại Đông Á”
của người Nhật(Người
Châu Á giúp người Châu Á)
nên thực tế đã thất bại
Chính sự bế tắc này
đã dẫn Ông Hồ Chí Minh từ một người theo chủ nghĩa
ái quốc đến với chủ nghĩa cộng sản khi tưởng rằng
đã tìm được thế dựa quốc tế cho công cuộc kháng
chiến giải phóng dân tộc từ Liên Xô và cộng sản quốc
tế. Chính vì vậy
Ông Hồ đã vui mừng đến phát khóc và hét to một mình
trong nhà trọ ở Paris Pháp quốc
rằng
“Muốn
cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào
khác ngoài con đường Cách mạng Vô sản”.
Thế
nhưng chính sự lựa chọn lầm lẫn này Ông Hồ đã đưa
đất nước vào một cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc
– Cộng tại Việt Nam kéo dài trong nhiều thập niên qua
đến nay vẫn chưa chấm dứt. Trên thực tế nó đã trở
thành tai họa cho nhân dân và đất nước, đã thể hiện
ý nghĩa trái ngược với ý nghĩa câu nói trên, rằng
“Muốn
phá nước và xích hóa dân tộc, không có con đường nào
khác hơn, ngoài con đường cách mạng vô sản
”./.
Thiện Ý
----------
----------
Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!
.
.
0 comments:
Post a Comment