Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa

Wednesday, 13 November 2013

Vào Hội đồng Nhân quyền, liệu CS Việt Nam cởi mở hơn ?


Thụy My
Ba Đình vào Hội đồng Nhân quyềnHôm qua 12/11/2013 Việt Nam đã được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc (HRC) cùng với Trung Quốc, Nga, Cuba, Ả Rập Xê Út, cho dù nhiều tổ chức phi chính phủ phản đối. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã bầu thêm 14 ghế trong số 47 ghế của Hội đồng Nhân quyền. Các thành viên của Hội đồng có nhiệm kỳ ba năm, và không thể được bầu lại ngay sau hai nhiệm kỳ liên tiếp.

Lần này Việt Nam đã được bầu với 184/192 phiếu cùng với Trung Quốc, Cuba, Nga, Ả Rập Xê Út, Pháp, Anh, Nam Phi, Algérie, Maroc, Namibia, Maldives, Macedonia và Mehico.
Hội đồng Nhân quyền sẽ hoạt động từ ngày 1 tháng Giêng năm tới, sẽ là một trong những Hội đồng chia rẽ nhất kể từ khi tổ chức này được thành lập vào tháng 3/2006. Mục đích của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc là « đề cập đến tình hình vi phạm nhân quyền và đưa ra những khuyến cáo ».
Bà Peggy Hicks thuộc tổ chức Human Rights Watch nhấn mạnh : « Với sự trở lại của Trung Quốc, Nga, Ả Rập Xê Út và Cuba, những người bảo vệ nhân quyền tại Hội đồng năm tới sẽ có nhiều việc phải làm. Những nước thực sự quan tâm đến việc thúc đẩy nhân quyền sẽ phải tăng gấp đôi nỗ lực ».
Richard Gown, giám đốc Trung tâm hợp tác quốc tế của New York University nhận định : « Từ khi thành lập, Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã tiếp nhận khá nhiều chế độ trấn áp. Cách đây vài năm, không ai quan tâm đến các cuộc bầu cử này. Nhưng Hội đồng Nhân quyền đã tỏ ra tích cực một cách bất thường trong phong trào Mùa xuân Ả Rập, và đã thông qua một loạt các nghị quyết lên án chế độ Syria, trong khi Hội đồng Bảo an bị Nga và Trung Quốc trói tay ».
Matxcơva và Bắc Kinh đã ba lần sử dụng quyền phủ quyết trước các nghị quyết của Hội đồng Bảo an về Syria.
Ông nhấn mạnh, Nga ,Trung Quốc cùng với Cuba và Việt Nam có thể sử dụng chiếc ghế ở Hội đồng Nhân quyền để phản đối lại các nghị quyết mới chỉ trích Bachar Al Assad. Ngược lại, Ả Rập Xê Út « muốn đả kích Syria gay gắt hơn ».
Không có quốc gia nào có quyền phủ quyết tại Hội đồng Nhân quyền, một đa số « có thể đạt đến những kết quả cụ thể » ở Genève – bà Peggy Hicks nhấn mạnh. Còn đại sứ Pháp tại Liên Hiệp Quốc Gérard Araud cho biết : « Chúng tôi sẽ tiếp tục hành động để Hội đồng Nhân quyền quan tâm đến những cuộc khủng hoảng hiện nay, nhất là ở Syria, Trung Phi, để xúc tiến và bảo vệ nhân quyền ».
Đối với Việt Nam, việc trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc sẽ có tác động như thế nào ? RFI Việt ngữ đã đặt câu hỏi với nhà bình luận Phạm Chí Dũng ở Thành phố Saigon.
RFI : Thưa anh, việc Việt Nam vào được Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, theo anh là một tín hiệu lạc quan hay bi quan ?
Nhà bình luận Phạm Chí Dũng : Tất nhiên là lạc quan đối với Nhà nước Việt Nam rồi. Tôi nghĩ là Nhà nước không mấy hy vọng được lọt vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, với tỉ lệ rất cao như vậy : 184/192 quốc gia đồng ý. Một tỉ lệ chỉ có thể so sánh với việc bầu bán trong Quốc hội hoặc Chính phủ Việt Nam mà thôi.
Chắc chắn là Nhà nước Việt Nam sẽ coi đây là một thắng lợi chính trị, thắng lợi ngoại giao trên trường quốc tế, điều mà Việt Nam chưa từng đạt được từ năm 2006 khi thành lập Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc.
Còn bi quan là chắc chắn, đối với những tổ chức quốc tế hoạt động về nhân quyền. Chẳng hạn như tổ chức Nhân quyền Quốc tế HRW, tổ chức Ân xá Quốc tế và một số tổ chức khác, kể cả Văn bút Quốc tế mà báo Nhân Dân vừa phê phán trong bài nhận định hôm qua và hôm nay.
Đó là những tổ chức đã đưa ra hàng loạt dẫn chứng về tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam, nhưng cuối cùng thì họ thất vọng. Lãnh đạo một tổ chức nhân quyền quốc tế cũng đánh giá đây là một cú giáng nặng đối với vấn đề nhân quyền.
RFI : Còn đối với những người đấu tranh đòi dân chủ trong nước thì tình hình sẽ như thế nào theo anh ?
Theo cảm nhận của tôi thì đây là một điểm mốc liên quan tới vấn đề dân chủ và nhân quyền của Việt Nam. Một điểm mốc với một độ mở chính trị, độ mở dân chủ, được tác động bởi quốc tế chứ không phải do chính các lực lượng dân chủ trong nước quyết định. Đây là một tín hiệu hé mở sự lạc quan, và độ mở ở đây tôi nghĩ là sẽ thêm được khoảng mười phần trăm nữa, cho một lộ trình dân chủ nào đó.
Độ mở đầu tiên vào lúc cuộc gặp của  Trương Tấn Sang, Chủ tịch nước CS Việt Nam với Tổng thống Barack Obama vào tháng 7/2013. Sau đó như mọi người đều biết, đã diễn ra hai sự kiện nho nhỏ : thả hai blogger Phương Uyên và Đinh Nhật Uy – cả hai đều nhận án treo. Nhưng điều đó cũng chưa nói lên được điều gì lớn.
Vấn đề lớn nhất là chỉ năm ngày trước khi đưa lên bàn bỏ phiếu của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, Nhà nước Việt Nam đã lần đầu tiên chính thức đặt bút ký tên vào Công ước quốc tế về chống tra tấn. Đó là một Công ước mà Nhà nước Việt Nam đã nhiều năm không thấy mình có liên quan, và mặc dù được sự thúc giục, nhắc nhở của nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế cũng như Liên Hiệp Quốc nhưng Việt Nam vẫn lần lữa trong việc ký tên.
Kỳ này Việt Nam đã chính thức ký. Điều đó cho thấy dù sao, trong chừng mực nào đó Nhà nước Việt Nam vẫn thấy mình có trách nhiệm tuân thủ những Công ước quốc tế, sau khi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ký từ năm 1982 thực tế chưa có nhiều nội dung được tuân thủ.
Thậm chí tôi còn nghĩ nếu sớm là năm 2014 và chậm nhất là đến năm 2015 sẽ có những nhân vật đấu tranh dân chủ người Việt ở hải ngoại có thể trở về nước một cách bình yên. Kể cả những nhân vật bị Nhà nước Việt Nam coi là « chống Cộng » vẫn có thể trở về Việt Nam để sinh hoạt với những người thân của mình.
RFI : Như vậy anh cho là Nhà nước CS Việt Nam sẽ nới tay hơn với những người đối lập ?
Tôi cho là sẽ ít hoặc không có sự bắt bớ. Rất hạn chế bắt giam những nhân vật đối lập mới, nếu có chăng nữa thì sẽ chỉ diễn ra như vào tháng 10 và tháng 11 năm nay thôi. Tức là câu lưu một số nhân vật mà Nhà nước cho là quá khích, nhưng chỉ trong vòng 24 tới 36 tiếng đồng hồ rồi sau đó thả ra, chứ không phải bắt giam rồi đưa vào quá trình tố tụng hình sự rồi xét xử như đã liên tục xảy ra đối với các nhân vật đối lập trong năm 2011 và 2012.
Theo tôi đó là một tín hiệu có sự tác động của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là của Hoa Kỳ, của phương Tây, tất nhiên là cũng kèm theo những điều kiện của nó. Khi tham gia vào Hội đồng Nhân quyền rồi thì cánh cửa cũng đang mở ra rất lớn đối với Việt Nam trong Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương, vấn đề là có tận dụng được hay không.
RFI : Phản ứng trong nước ra sao, đặc biệt giới nhân sĩ trí thức đón nhận cái tin này như thế nào ?
Vẫn tương đối im ắng. Tôi chưa nhận ra một phản ứng tích cực đặc biệt nào, cũng chưa thấy những sắc thái hồ hởi trên khuôn mặt của những người vẫn lo nghĩ về vận mệnh, tương lai của đất nước và với tiến trình dân chủ. Có lẽ họ vẫn còn hoài nghi.
Họ cho là nếu như từ năm 1982 Việt Nam đã ký Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và gần như không làm gì cả, thì việc ký kết Công ước quốc tế chống tra tấn gần đây và tham gia vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc cũng chẳng qua là hoạt động mang tính chất hình thức mà thôi. Ký là một chuyện, còn làm là một chuyện khác.
Nhiều người nghi ngờ rằng tình hình sắp tới vẫn chưa có gì thay đổi cả. Nhưng riêng cá nhân tôi thì vẫn cảm nhận là có một sự thay đổi thầm kín trong đó, và dù sao cũng có một độ mở nhất định, ít nhất là sẽ ít có hoặc là không có bắt bớ. Và những người hoạt động dân chủ vẫn có thể làm được một cái gì đó mà không đến mức chịu rủi ro cao như những năm trước.
RFI : Xin cảm ơn nhà bình luận Phạm Chí Dũng.
WWF : Nhìn thấy Sao La ở Việt Nam
Sao La chụp được tại Việt Nam, hồi tháng Chín 2013
Sao La chụp được tại Việt Nam, hồi tháng Chín 2013
REUTERS

Thanh Phương
Theo hãng tin AFP, lần đầu tiên từ một thập niên qua, Sao La, một loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng, đã được nhìn thấy, tại vuờn quốc gia Vũ Quang, miền trung Việt Nam. Điều này làm sống lại hy vọng phục hồi được con thú bí ẩn này. Đó là thông báo của các nhà bảo tồn thiên nhiên hôm nay, 13/11/2013.


Còn được gọi là « Kỳ Lân Châu Á » vì rất hiếm khi được nhìn thấy, con Sao La này đã được chụp ảnh vào tháng 9 vừa qua từ một bẫy ảnh do tổ chức Quỹ Động vật hoang dã thế giới WWF lắp đặt.
Sao La, được phát hiện vào năm 1992, là một loài trên đầu có hai sừng song song nhọn dần về phía cuối. Chiều dài hai sừng này có thể lên tới 50 cm. Lần cuối cùng một cá thể Sao La được nhìn thấy trong tự nhiên là ở Lào năm 2010, nhưng con Sao La này đã chết vài ngày sau khi bị dân làng bắt.
Còn ở Việt Nam, lần cuối cùng một cá thể Sao La được nhìn thấy trong tự nhiên là vào năm 1998, theo lời ông Đặng Đình Nguyên, Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm, kiêm Giám đốc Khu Bảo tồn Sao La Quảng Nam. Đối với ông Nguyên, việc nhìn thấy Sao La là một « thời điểm lịch sử » và cho thấy là những nỗ lực bảo tồn sinh cảnh của Sao La đã có hiệu quả.
AFP trích lời tiến sĩ Văn Ngọc Thịnh, Giám đốc WWF-Việt Nam nói : “Khi lần đầu tiên nhìn vào các bức ảnh, chúng tôi không thể tin vào mắt mình. Sao La được những nhà bảo tồn Đông Nam Á coi là một “báu vật”, nên chúng tôi rất phấn khích về sự kiện này ». Theo lời ông Thịnh, phát hiện này làm sống lại hy vọng về sự phục hồi quần thể của loài này.
Các nhà bảo tồn ước tính rằng có thể chỉ còn khoảng một chục Sao La sống hoang dã. Con số thẩm định cao nhất được đưa ra cho đến nay là khoảng vài trăm con.
Tại khu vực Sao La được nhìn thấy, tổ chức WWF tiến hành một chương trình thực thi pháp luật, với việc tuyển dụng các đội tuần tra bảo vệ rừng từ cộng đồng địa phương để ngăn chận việc săn bắt trái phép.

0 comments:

Post a Comment

Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!

.

.