Lần
này Việt Nam đã được bầu với 184/192 phiếu cùng với Trung Quốc, Cuba,
Nga, Ả Rập Xê Út, Pháp, Anh, Nam Phi, Algérie, Maroc, Namibia, Maldives,
Macedonia và Mehico.
Hội
đồng Nhân quyền sẽ hoạt động từ ngày 1 tháng Giêng năm tới, sẽ là một
trong những Hội đồng chia rẽ nhất kể từ khi tổ chức này được thành lập
vào tháng 3/2006. Mục đích của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc là « đề cập đến tình hình vi phạm nhân quyền và đưa ra những khuyến cáo ».
Bà Peggy Hicks thuộc tổ chức Human Rights Watch nhấn mạnh : « Với
sự trở lại của Trung Quốc, Nga, Ả Rập Xê Út và Cuba, những người bảo vệ
nhân quyền tại Hội đồng năm tới sẽ có nhiều việc phải làm. Những nước
thực sự quan tâm đến việc thúc đẩy nhân quyền sẽ phải tăng gấp đôi nỗ
lực ».
Richard Gown, giám đốc Trung tâm hợp tác quốc tế của New York University nhận định : « Từ
khi thành lập, Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã tiếp nhận khá
nhiều chế độ trấn áp. Cách đây vài năm, không ai quan tâm đến các cuộc
bầu cử này. Nhưng Hội đồng Nhân quyền đã tỏ ra tích cực một cách bất
thường trong phong trào Mùa xuân Ả Rập, và đã thông qua một loạt các
nghị quyết lên án chế độ Syria, trong khi Hội đồng Bảo an bị Nga và
Trung Quốc trói tay ».
Matxcơva và Bắc Kinh đã ba lần sử dụng quyền phủ quyết trước các nghị quyết của Hội đồng Bảo an về Syria.
Ông
nhấn mạnh, Nga ,Trung Quốc cùng với Cuba và Việt Nam có thể sử dụng
chiếc ghế ở Hội đồng Nhân quyền để phản đối lại các nghị quyết mới chỉ
trích Bachar Al Assad. Ngược lại, Ả Rập Xê Út « muốn đả kích Syria gay gắt hơn ».
Không có quốc gia nào có quyền phủ quyết tại Hội đồng Nhân quyền, một đa số « có thể đạt đến những kết quả cụ thể » ở Genève – bà Peggy Hicks nhấn mạnh. Còn đại sứ Pháp tại Liên Hiệp Quốc Gérard Araud cho biết : « Chúng
tôi sẽ tiếp tục hành động để Hội đồng Nhân quyền quan tâm đến những
cuộc khủng hoảng hiện nay, nhất là ở Syria, Trung Phi, để xúc tiến và
bảo vệ nhân quyền ».
Đối
với Việt Nam, việc trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc sẽ
có tác động như thế nào ? RFI Việt ngữ đã đặt câu hỏi với nhà bình luận Phạm Chí Dũng ở Thành phố Saigon.
RFI : Thưa anh, việc Việt Nam vào được Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, theo anh là một tín hiệu lạc quan hay bi quan ?
Nhà bình luận Phạm Chí Dũng :
Tất nhiên là lạc quan đối với Nhà nước Việt Nam rồi. Tôi nghĩ là Nhà
nước không mấy hy vọng được lọt vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc,
với tỉ lệ rất cao như vậy : 184/192 quốc gia đồng ý. Một tỉ lệ chỉ có
thể so sánh với việc bầu bán trong Quốc hội hoặc Chính phủ Việt Nam mà
thôi.
Chắc
chắn là Nhà nước Việt Nam sẽ coi đây là một thắng lợi chính trị, thắng
lợi ngoại giao trên trường quốc tế, điều mà Việt Nam chưa từng đạt được
từ năm 2006 khi thành lập Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc.
Còn
bi quan là chắc chắn, đối với những tổ chức quốc tế hoạt động về nhân
quyền. Chẳng hạn như tổ chức Nhân quyền Quốc tế HRW, tổ chức Ân xá Quốc
tế và một số tổ chức khác, kể cả Văn bút Quốc tế mà báo Nhân Dân vừa phê
phán trong bài nhận định hôm qua và hôm nay.
Đó là những tổ chức đã đưa ra hàng loạt dẫn chứng về
tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam, nhưng cuối cùng thì họ thất
vọng. Lãnh đạo một tổ chức nhân quyền quốc tế cũng đánh giá đây là một
cú giáng nặng đối với vấn đề nhân quyền.
RFI : Còn đối với những người đấu tranh đòi dân chủ trong nước thì tình hình sẽ như thế nào theo anh ?
Theo
cảm nhận của tôi thì đây là một điểm mốc liên quan tới vấn đề dân chủ
và nhân quyền của Việt Nam. Một điểm mốc với một độ mở chính trị, độ mở
dân chủ, được tác động bởi quốc tế chứ không phải do chính các lực lượng
dân chủ trong nước quyết định. Đây là một tín hiệu hé mở sự lạc quan,
và độ mở ở đây tôi nghĩ là sẽ thêm được khoảng mười phần trăm nữa, cho
một lộ trình dân chủ nào đó.
Độ
mở đầu tiên vào lúc cuộc gặp của Trương Tấn Sang, Chủ tịch nước CS
Việt Nam với Tổng thống Barack Obama vào tháng 7/2013. Sau đó như mọi
người đều biết, đã diễn ra hai sự kiện nho nhỏ : thả hai blogger Phương
Uyên và Đinh Nhật Uy – cả hai đều nhận án treo. Nhưng điều đó cũng chưa
nói lên được điều gì lớn.
Vấn
đề lớn nhất là chỉ năm ngày trước khi đưa lên bàn bỏ phiếu của Hội đồng
Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, Nhà nước Việt Nam đã lần đầu tiên chính thức
đặt bút ký tên vào Công ước quốc tế về chống tra tấn. Đó là một Công
ước mà Nhà nước Việt Nam đã nhiều năm không thấy mình có liên quan, và
mặc dù được sự thúc giục, nhắc nhở của nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế
cũng như Liên Hiệp Quốc nhưng Việt Nam vẫn lần lữa trong việc ký tên.
Kỳ
này Việt Nam đã chính thức ký. Điều đó cho thấy dù sao, trong chừng mực
nào đó Nhà nước Việt Nam vẫn thấy mình có trách nhiệm tuân thủ những
Công ước quốc tế, sau khi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị ký từ năm 1982 thực tế chưa có nhiều nội dung được tuân thủ.
Thậm
chí tôi còn nghĩ nếu sớm là năm 2014 và chậm nhất là đến năm 2015 sẽ có
những nhân vật đấu tranh dân chủ người Việt ở hải ngoại có thể trở về
nước một cách bình yên. Kể cả những nhân vật bị Nhà nước Việt Nam coi là
« chống Cộng » vẫn có thể trở về Việt Nam để sinh hoạt với những người
thân của mình.
RFI : Như vậy anh cho là Nhà nước CS Việt Nam sẽ nới tay hơn với những người đối lập ?
Tôi
cho là sẽ ít hoặc không có sự bắt bớ. Rất hạn chế bắt giam những nhân
vật đối lập mới, nếu có chăng nữa thì sẽ chỉ diễn ra như vào tháng 10 và
tháng 11 năm nay thôi. Tức là câu lưu một số nhân vật mà Nhà nước cho
là quá khích, nhưng chỉ trong vòng 24 tới 36 tiếng đồng hồ rồi sau đó
thả ra, chứ không phải bắt giam rồi đưa vào quá trình tố tụng hình sự
rồi xét xử như đã liên tục xảy ra đối với các nhân vật đối lập trong năm
2011 và 2012.
Theo
tôi đó là một tín hiệu có sự tác động của cộng đồng quốc tế, đặc biệt
là của Hoa Kỳ, của phương Tây, tất nhiên là cũng kèm theo những điều
kiện của nó. Khi tham gia vào Hội đồng Nhân quyền rồi thì cánh cửa cũng
đang mở ra rất lớn đối với Việt Nam trong Hiệp định đối tác kinh tế
xuyên Thái Bình Dương, vấn đề là có tận dụng được hay không.
RFI : Phản ứng trong nước ra sao, đặc biệt giới nhân sĩ trí thức đón nhận cái tin này như thế nào ?
Vẫn
tương đối im ắng. Tôi chưa nhận ra một phản ứng tích cực đặc biệt nào,
cũng chưa thấy những sắc thái hồ hởi trên khuôn mặt của những người vẫn
lo nghĩ về vận mệnh, tương lai của đất nước và với tiến trình dân chủ.
Có lẽ họ vẫn còn hoài nghi.
Họ
cho là nếu như từ năm 1982 Việt Nam đã ký Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị và gần như không làm gì cả, thì việc ký kết Công
ước quốc tế chống tra tấn gần đây và tham gia vào Hội đồng Nhân quyền
Liên Hiệp Quốc cũng chẳng qua là hoạt động mang tính chất hình thức mà
thôi. Ký là một chuyện, còn làm là một chuyện khác.
Nhiều người nghi
ngờ rằng tình hình sắp tới vẫn chưa có gì thay đổi cả. Nhưng riêng cá
nhân tôi thì vẫn cảm nhận là có một sự thay đổi thầm kín trong đó, và dù
sao cũng có một độ mở nhất định, ít nhất là sẽ ít có hoặc là không có
bắt bớ. Và những người hoạt động dân chủ vẫn có thể làm được một cái gì
đó mà không đến mức chịu rủi ro cao như những năm trước.
RFI : Xin cảm ơn nhà bình luận Phạm Chí Dũng.
WWF : Nhìn thấy Sao La ở Việt Nam
Sao La chụp được tại Việt Nam, hồi tháng Chín 2013
REUTERS
Thanh Phương
Theo
hãng tin AFP, lần đầu tiên từ một thập niên qua, Sao La, một loài động
vật có nguy cơ tuyệt chủng, đã được nhìn thấy, tại vuờn quốc gia Vũ
Quang, miền trung Việt Nam. Điều này làm sống lại hy vọng phục hồi được
con thú bí ẩn này. Đó là thông báo của các nhà bảo tồn thiên nhiên hôm
nay, 13/11/2013.
Còn được gọi là « Kỳ Lân Châu Á
» vì rất hiếm khi được nhìn thấy, con Sao La này đã được chụp ảnh vào
tháng 9 vừa qua từ một bẫy ảnh do tổ chức Quỹ Động vật hoang dã thế giới
WWF lắp đặt.
Sao
La, được phát hiện vào năm 1992, là một loài trên đầu có hai sừng song
song nhọn dần về phía cuối. Chiều dài hai sừng này có thể lên tới 50 cm.
Lần cuối cùng một cá thể Sao La được nhìn thấy trong tự nhiên là ở Lào
năm 2010, nhưng con Sao La này đã chết vài ngày sau khi bị dân làng bắt.
Còn ở Việt Nam, lần cuối cùng một cá thể Sao La được
nhìn thấy trong tự nhiên là vào năm 1998, theo lời ông Đặng Đình Nguyên,
Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm, kiêm Giám đốc Khu Bảo tồn Sao La
Quảng Nam. Đối với ông Nguyên, việc nhìn thấy Sao La là một « thời điểm lịch sử » và cho thấy là những nỗ lực bảo tồn sinh cảnh của Sao La đã có hiệu quả.
AFP trích lời tiến sĩ Văn Ngọc Thịnh, Giám đốc WWF-Việt Nam nói : “Khi
lần đầu tiên nhìn vào các bức ảnh, chúng tôi không thể tin vào mắt
mình. Sao La được những nhà bảo tồn Đông Nam Á coi là một “báu vật”, nên
chúng tôi rất phấn khích về sự kiện này ». Theo lời ông Thịnh, phát hiện này làm sống lại hy vọng về sự phục hồi quần thể của loài này.
Các
nhà bảo tồn ước tính rằng có thể chỉ còn khoảng một chục Sao La sống
hoang dã. Con số thẩm định cao nhất được đưa ra cho đến nay là khoảng
vài trăm con.
Tại
khu vực Sao La được nhìn thấy, tổ chức WWF tiến hành một chương trình
thực thi pháp luật, với việc tuyển dụng các đội tuần tra bảo vệ rừng từ
cộng đồng địa phương để ngăn chận việc săn bắt trái phép.
0 comments:
Post a Comment