Những năm gần đây một cái công hàm lịch sử gây dư luận xôn xao đang để lại hậu quả của nó làm nhói đau lòng dân tộc Việt Nam vì đã được nước bạn Trung cộng ân cần nhắc lại nhưng chính quyền CHXHCNVN thì lờ đi như không biết và mãi đến ngày hôm nay mới tuyên bố vô hiệu hóa. Lịch sử của tổ tiên ta đã chứng minh chủ quyền của dân tộc mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ấy thế mà chính quyền VNDCCH đã lên tiếng ủng hộ bản công bố ngang ngược của chính quyền Bắc Kinh về chủ quyền trên hai quần đảo của Tổ Quốc ta và lãnh hải 12 hải lý vào ngày 4 tháng 9 năm 1958 xin trích:
Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa
Thursday 29 May 2014
Home »
Chính trị
» Chỉ có Việt Nam Cộng Hòa mới có đủ tư cách pháp nhân làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Chỉ có Việt Nam Cộng Hòa mới có đủ tư cách pháp nhân làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Thursday, May 29, 2014
No comments
Bán Hoàng Sa-Trường Sa không chỉ cái công hàm
Những năm gần đây một cái công hàm lịch sử gây dư luận xôn xao đang để lại hậu quả của nó làm nhói đau lòng dân tộc Việt Nam vì đã được nước bạn Trung cộng ân cần nhắc lại nhưng chính quyền CHXHCNVN thì lờ đi như không biết và mãi đến ngày hôm nay mới tuyên bố vô hiệu hóa. Lịch sử của tổ tiên ta đã chứng minh chủ quyền của dân tộc mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ấy thế mà chính quyền VNDCCH đã lên tiếng ủng hộ bản công bố ngang ngược của chính quyền Bắc Kinh về chủ quyền trên hai quần đảo của Tổ Quốc ta và lãnh hải 12 hải lý vào ngày 4 tháng 9 năm 1958 xin trích:
“Lãnh hải nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lý. Quy định này áp
dụng cho toàn lãnh thổ nước CHND Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục
cùng với duyên hải của các hải đảo, với Đài Loan cùng các hòn đảo xung
quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế, những hòn đảo của khu vực Bành
Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung
Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo
của Trung quốc.”
(X-cafevn online ngày 5-9-2009)
Mười ngày sau, tức là ngày 14 tháng 9 năm 1958 thủ tướng nước Việt Nam Dân
chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng gửi cho thủ tướng Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
là Chu Ân Lai một bức công hàm có nội dung:
“Chúng tôi trân trọng báo tin để đồng chí Tổng Lý rõ: Chính phủ nước Việt
Nam DCCH ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958, của
chính phủ nước CHND Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung quốc.
Chính phủ nước Việt Nam DCCH tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các
cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của
Trung quốc, trong mọi quan hệ với nước CHND Trung Hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.”
(Tuần ViệtNam online ngày 20-7-2011)
Nguyên bộ trưởng Ngoại giao CSVN Nguyễn Mạnh Cầm đã giải thích bức công
hàm này trong một cuộc họp báo tại Hà Nội ngày 2-12-1992 và được Thông tấn
Xã Việt Nam loan tin ngày 3-12-1992, xin trích như sau:
“Ông nói: ‘các nhà lãnh đạo của ta lúc trước xác nhận về Hoàng Sa vàTrường
Sa như vậy là do theo Hiệp định Genève năm 1954 về vấn đề Đông Dương thì
tất cả lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam là thuộc về chính quyền miền
Nam, kể cả hai quần đảo này.
Thêm vào đó, vào lúc ấy Việt Nam phải tập trung hết mọi lực lượng vào cuộc
chiến chống Mỹ nên cần bạn bè khắp nơi. Tình hữu nghị Việt- Trung đang
thắm thiết và hai nước hoàn toàn tin cậy lẫn nhau. Việt Nam xem Trung quốc
là một nguồn hỗ trợ to lớn và giá trị.
Trong tinh thần đấy thì do tính cấp bách, quan điểm lãnh của đạo ta (tức
ủng hộ Trung quốc công bố chủ quyền của họ trên các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa) là cần thiếtvì nó phục vụ cho cuộc chiến bảo vệ tổ quốc.
Đặc biệt việc này còn nhắm vào nhu cầu cấp thiết lúc đó là ngăn ngừa đế
quốc Mỹ không sử dụng các quần đảo đó để tấn công chúng ta. Việc lãnh đạo
ta tạmcông nhận như thế với Trung quốc không có can hệ gì đến chủ quyền
lịch sử và pháp lý của Việt Nam trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa
cả.”
(RFA online ngày 12-12-2007)
Qua sự giải thích và biện minh của ông Nguyễn Mạnh Cầm có câu: “trong
tình thế cấp bách, quan điểm của lãnh đạo ta (tức ủng hộ Trung quốc công
bố chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa)” cho thấy rằng
chính quyền VNDCCH, mà trong đó chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người phải
chịu trách nhiệm trong việc công nhận chủ quyền của Trung cộng trên hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa rồi còn gì mà chối nữa. Trong chuyến đi Bắc
Kinh của thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn ngày 25-6-2011 gặp ông Đới Bỉnh
Quốc, Ủy viên Quốc vụ viện Trung quốc đặc trách đối ngoại và ông ta đã cố
tình nhắc lại:
“Tối 28-6, Tân Hoa Xã đưa lên mạng bản tin Anh ngữ, theo đó Bắc Kinh hy
vọng Hà Nội sẽ thực hiện những gì hai bên đạt được trong chuyến công cán
tại Trung quốc của thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn, được hiểu là Trung
quốc kêu gọi Việt Nam thực hiện điều gọi làđồng thuận.
Ngoài ra Tân Hoa Xã còn nhắc lại tư liệu lịch sử, theo đó năm 1958 khi
Trung quốc tuyên bố chủ quyền các đảo ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông Việt
Nam) thủ tướng Việt Nam ông Phạm Văn Đồng đã gởi công hàm ngoại giao bày
tỏ sự đồng thuận với thủ tướng Trung quốc lúc đó là ông Chu Ân Lai.”
(RFA online ngày 1-7-2011)
Theo tài liệu mà Wikileaks vừa tiết lộ bức công điện ngày 13-3-2008 của
tòa đại sứ Mỹ tại Hà Nội thì chắc chắn rằng theo “đồng thuận” ngầm, Việt
Nam đã “bán” hẵn quần đảo Hoàng Sa cho Trung cộng. Có phải đây là sự “đồng
thuận” theo như lời của Zheng Zhehua, phó Giám độc Cơ quan Hoạch định
Chính sách thuộc Ban Quan hệ Á châu bộ Ngoại giao Trung quốc đã nói rõ về
số phận của quần đảo Hoàng Sa nên đảng CSVN không thể công bố?
“Zheng lưu ý rằng Trung quốc đã chính thức tuyên bố ranh giới khu vực chủ
quyền 12 hải lý xung quanh quần đảo Hoàng Sa, nơi họ tin rằng chủ quyền
củahọ là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, vẫn theo Zheng, Trung Quốc không
làm điều này với khu vực quần đảo Trường Sa, vì Bắc kinh thừa nhận rằng
những tuyên bố như vậy tại đây là phức tạp hơn.”
(Bí mật VN qua hồ sơ Wikileaks trang 184)
Nhà ngoại kỳ cựu, ông Lưu Văn Lợi đã lên tiếng giải thích về bức công hàm
này qua bài viết đăng trên tạp chí Xưa & Nay (Số 315, tháng 9-2008, trang
40) với tựa đề “Bức thư của thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi các nhà lãnh đạo
Trung quốc ngày 14-9-1958” được ông Bùi Văn Phú ghi lại như sau:
“Chính phủ Trung Quốc tuyên truyền đây là một ‘bằng chứng’ Việt Nam công
nhận quần đảo Hoàng Sa là của Trung quốc.
Xem nguyên văn bức thư của ông Phạm Văn Đồng người ta thấy bức thư chỉ có
một nội dung là ủng hộ Trung Quốc quy định hải phận rộng 12 hải lý và chỉ
thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm phải tôn trọng quy định 12 hải
lý. Nội dung đó không hề nói đến vấn đề lãnh thổ, càng không nói gì đến
vấn đề các quần đảo. Nội dung chỉ có thế, sao lại xuyên tạc là ‘sự công
nhận’ Hoàng Sa là của Trung quốc?”
(Talawas online ngày 9-14-2009)
Bộ Ngoại giao vẫn im lặng không nói gì đến bức công hàm mà chỉ để Mặt trận
Tổ quốc lên tiếng qua báo Đại Đoàn Kết và ở đó thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ
nghiên cứu Biển Đông) cũng giải thích một cách lấp liếm như ông Lưu Văn
Lợi trong khi ông Nguyễn Mạnh Cầm đã thừa nhận: “quan điểm của lãnh đạo
ta (tức ủng hộ Trung quốc công bố chủ quyền của họ trên các đảo Hoàng Sa
và Trường Sa) là cần thiết..”
Có một điều đáng nói là “lãnh đạo ta” đã né tránh và thiếu tinh thần trách
nhiệm khi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lúc bấy giờ không phải thưộc
quyền của mình mà họ đã trơ trẻn nhận vơ là của “đồng chí vĩ đại”. Cả hai
ông cớm ngoại giao đã tuyên bố rõ như thế mà còn giải thích quanh co chỉ
nhận có hải phận 12 hải lý? Chính vì công nhận 12 hải lý nầy mà Trung cộng
đã ngang ngược hoành hành trên vùng biển quanh Hoàng Sa và Trường Sa mấy
năm nay, vậy mà ông thạc sĩ Hoàng Việt viết:
“Công hàm 1958 của thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan
hệ đặc thù VNDCCH-Trung quốc lúc đó ‘vừa là đồng chí vừa là anh em’…
Trung quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm
khẳng định chủ quyền trên biển của Trung quốc trong tình thế đe dọa tại eo
biển Đài Loan. Tuy nhiên, Trung quốc vẫn không quên mục đích ‘sâu xa’ của
họ trên Biển Đông nên đã ‘lồng ghép’ thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố.
Công hàm 1958 của thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc
thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ
và giúp đỡ của các quốc gia trong khối XHCN bấy giờ là cử chỉ ngoại giao
tốt
đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải
12 hải lý của Trung quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển
Đài Loan…
Trong công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập
đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào
như Trung quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có
tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng công hàm
1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định đã thừa nhận chủ quyền
của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn
không có cơ sở pháp lý”….
Trong công hàm 1958, thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập
đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó không cần thiết, bởi
theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía
Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của chính phủ Việt Nam Cộng
Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì chính
phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần
đảo này theo luật pháp quốc tế”…
(Tuần ViệtNam online ngày 20-7-2011)
Luật gia Trần Đình Thu cũng lập luận cùng một giọng điệu với thạc sĩ Hoàng
Việt trong Đại Dân Tộc, ông còn cho rằng cái công hàm “nói nôm na giống
như một tiếng vỗ tay đồng thuận hay một lời la ó phản đối”, thưa ông
Thu, ở đây tôi nghĩ không phải vậy, mà nó còn để lại một hậu quả nghiêm
trọng không lường khi mà “nước bạn Trung Quốc” đã cố tình chiếm đảo của ta
thì chúng ta không thể coi nhẹ cái công hàm ấy được. Qua việc phân trần
của luật gia Thu cho chúng ta thấy được cái cảnh bị lệ thuộc thiên triều
của Việt Nam DCCH lúc bấy giờ bi thảm như thế nào. Đây ông Thu viết:
“Theo luật quốc tế, gía trị của công hàm chỉ là nêu quan điểm của chính
phủ một nước về một vấn đề quốc tế, nói nôm na như là tiếng vổ tay đồng
thuận hay một lời la ó phản đối. Chỉ khi nào Việt Nam ký hiệp định với
Trung quốc nói rõ những vùng biển đảo nào thuộc Trung quốc thì khi đó mới
có gía trị.
Vào năm 1958, trong bối cảnh Việt Nam DCCH đang quan hệ với Trung quốc,
việc ra công hàm ủng hộ Tuyên bố 1958 của nước bạn Trung quốc là không thể
không làm. Khổ nổi tuyên bố của nước bạn quá ngạo ngược về cái ‘ranh đất
không giống ai’ đó. Như vậy thì công hàm phải viết thế nào đây?…
Tuy nhiên, công hàm 1958 của thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khéo léo công
nhận chỉ 1 vấn đề là bề rộng lãnh hải 12 hải lý mà thôi…
Từ đó chúng tôi kết luận: Công hàm 1958 không thể là nguyên nhân dẫn đến
các rắc rối về sau liên quan đến chủ quyền biển đảo giữa Việt Nam và nước
bạn Trung Quốc. Việc nước bạn Trung Quốc có những tuyên bố thiếu phù hợp
gần đây là do sự chủ động của họ.”
(Đàn Chim Việt online ngày 12-12-2011)
Từ lâu rồi Trung cộng hoành hành trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và
trên Biển Đông, ông Thu có thấy được hậu quả tai hại của cái công hàm đó
như thế nào không? đối với người vô trách nhiệm thì cái công hàm đó như
“một tiếng vỗ tay”, nhưng với “nước bạn Trung Quốc” có chủ tâm chiếm đảo
của ta thì nó lại khác, nó là một bằng chứng có gía trị vô cùng. Để biện
minh cho việc làm ngang ngược của mình trên Biển Đông, Trung cộng đã nhắc
lại cái công hàm năm 1958 theo như bức công điện ngày 13-3-2008 của tòa
đại sứ Hoa kỳ tại Hà Nội gửi về bộ Ngoại giao Hoa kỳ mà Wikileaks vừa tiết
lộ được nhà báo Ngô Nhân Dụng viết nên bài “Một di sản của Phạm Văn
Đồng” lược trích:
“Việc ngăn cấm các công ty quốc tế tìm dầu trong thềm lục địa Việt Nam
buộc chính quyền Bắc kinh phải giải thích với nước có những hảng dầu bị
cấm. Và họ đã viện dẫn lá thư Phạm Văn Đồng làm bằng cứ. Một điện văn của
đại sứ Mỹ ở Hà nội (mới tiết lộ cuối tháng 8 năm 2011) kể lại mấy cuộc
tiếp xúc với quan chức Trung cộng để nghe họ biện minh việc cấm đoán các
hảng dầu Mỹ. Trong cuộc gặp gỡ ngày 7 tháng 3 năm 2008 với nhân viên Ngoại
giao Mỹ, ông Trịnh Chấn Hoa (Zheng Zhenhua Đ/N), phó chủ nhiệm phòng Kế
hoạch thuộc Vụ Á châu, bộ Ngoại giao Bắc Kinh, đã nêu lên lá thư do ông
Phạm Văn Đồng ký gửi thủ tướng Chu Ân Lai để chứng minh Việt Nam đã chính
thức công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa
từ năm 1958.” (Người Việt online ngày 13-9-2011)
Trung cộng đã tung hoành như cướp trên vùng biển đảo của ta với biết bao
vụ đâm chìm tàu và bắn giết ngư phủ và cái ngang ngược nhất là đã cắt cáp
tàu thăm dò dầu khí trong thềm lục địa của ta. Trung cộng đã điều biết bao
tàu lớn nhỏ uy hiếp, đe dọa nhân dân ta cũng như đưa giàn khoan thăm do
dầu khí lớn nhất của chúng vào Biển Đông có cả tàu và máy bay võ trang
ngang nhiên tung hoành trên vùng biển Hoàng Sa thách thức cả dư luận quốc
tế và những nước trong khối ASEAN đang có tranh chấp chủ quyền thì chuyện
giải quyết sẽ ra sao? Khi trả lời chất vấn trước Quốc hội, Thủ tướng CSVN
Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố:
“Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền
của Việt Nam. Chúng ta có đủ căn cứ và lịch sử pháp lý để khẳng định điều
này. Nhưng chúng ta chủ trương đàm phán giải quyết, đòi hỏi chủ quyền với
quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình.”
(VNExpress online ngày 25-11-2011)
Với tham vọng bành trướng với quân đông, tàu lớn, súng to của “nước bạn”
chúng ta sẽ “dùng biện pháp hòa bình” để lấy lại Hoàng Sa như thủ tướng
Dũng vừa tuyên bố, trong khi chúng chiếm của ta bằng máu thì liệu có tin
được không?
Đừng nghe những gì ông Dũng nói, ông ta chỉ hô hào suôn để lừa phỉnh và
trấn an dư luận, thương lượng bí mật song phương có tính cách “câu giờ”
thì chắc chắn rằng Hoàng Sa sau 50 năm Trung cộng chiếm cứ mà không có
thưa kiện ra Quốc tế theo như lời cảnh giác của luật sư Trần Lâm thì xem
như “cứt trâu để lâu hóa bùn”. Đứng trước hiểm họa vĩnh viễn mất
Hoàng Sa và cả Trường Sa nhân dân Việt Nam đã biểu tình phản đối và tiến
sĩ Hà Sĩ Phu đã long trọng tuyên bố:
“Được biết tình hình này, một số cựu chiến binh lão thành phẫn nộ: Họ dựa
vào công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 chứ gì, nếu cần dân Việt
Nam sẽ xé toạc công hàm đó, gạch chéo lên công hàm đó: quyết định về lãnh
thổmà không có chuẩn y của Quốc hội, không trưng cầu dân ý thì chẳng có
gía trị gì, dân xé lúc nào cũng được. Dân chúng tôi không bị ràng buộc bởi
công hàm đó!” (Đối Thoại online ngày 13-12-2007)
Thay mặt lưỡng Viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, hòa thượng
Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Tăng thống ra tuyên cáo về cái công hàm
ngày 14-9-1958 xin trích như sau:
“Công hàm ngày 14-9-1958 của ông Phạm Văn Đồng chỉ đại diện cho thiểu số
đảng viên cộng sản mà không đại biểu cho toàn dân miền Bắc Việt Nam, vì
nội dung bán nước của công hàm không được trưng cầu dân ý, cũng không được
thông qua trước Quốc hội VNDCCH, dù nhân dân không cộng sản chẳng có đại
biểu tại quốc hội này y hệt như quốc hội hiện nay…
Xem như thế công hàm ngày 14-9-1958 của ông Phạm Văn Đồng vô gía trị trên
mặt pháp lý quốc tế, pháp lý quốc gia và ý chí dân tộc. Công hàm chỉ là dự
tính chia chác phi pháp giữa hai đảng cộng sản Việt-Trung.” (Thời Luận
ngày 17-9-2008)
Để hóa giải ảnh hưởng của bức công hàm của ông Đồng, ông Thái Văn Cầu đề
nghị Việt Nam không nên giữ tên nước là VNDCCH vì như thế là chúng ta mặc
nhiên công nhận bức công hàm có con dấu “VNDCCH”. Theo ông Cầu thì cần
phải đổi “nhản hiệu”, không dùng lại con dấu cũ; đây là một ý kiến hay
nhưng chưa đủ vì “Cộng Hòa Việt Nam” theo ông Cầu ám chỉ là tên rút ngắn
của cái chính phủ ma CHMNVN không có chính danh mà phải đổi ngay thành
Việt Nam Cộng Hòa mới có đủ tính cách pháp nhân và danh chính ngôn thuận.
“Vì Trung Quốc tích cực sử dụng Công hàm 1958 và tuyên bố của quan chức
VNDCCH về Hoàng Sa-Trường Sa trong giai đoạn 1954-1975 để đánh lừa dư luận
quốc tế và và nhân dân Trung Quốc…
Một tên nước “Cộng Hòa Việt Nam” (CHVN), như trong CHMNVN,
chính quyền ở phía Nam vĩ tuyến 17 trong giai đoạn 1969-1976, từng trực
tiếp hay gián tiếp khẳng định chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa, tạo nhiều
thuận lợi hơn, so với tên nước VNDCCH hay CHDCVN, cho nỗ lực bảo vệ quyền
lợi đất nước.” (Bauxite Việt Nam online ngày 10-5-2013)
Ngoài bức công hàm của ông Phạm Văn Đồng ra còn nhiều sự kiện mà nước
CHXHCNVN ngày nay khi tranh chấp còn phải trả lời.
1)- Phóng viên Lê Dân của đài RFA có đưa một bản tin:
“Theo tư liệu của Bộ Ngoại giao Trung Quốc thì văn kiện mang tên ‘Chủ
quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa’
được tạp chí Beijing Review in lại trong số ấn hành này 18 tháng Hai năm
1980, thì Hà Nội đã thỏa hiệp được với Bắc Kinh trong quá khứ về việc này.
Chúng tôi xin trích thuật:
“Vào tháng Sáu năm 1956, hai năm sau khi chính phủ của ông Hồ Chí Minh đã
thành lập tại Hà Nội, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Ung Văn Khiêm đã nói
với ông Li Zhimin, Tham tán sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, rằng theo dữ
liệu của Việt Nam thì đảo Tây Sa (tức Paracels Hoàng Sa) và đảo Nansha
(tức Spratleys, Trường Sa) là một phần thuộc Trung quốc theo lịch sử.”
(RFA online ngày 12-12-2007)
2)- Theo giáo sư sử học Hà Văn Thịnh trả lời phóng viên Mặc Lâm kể khi ông
học năm thứ nhất trường Đại học Tổng hợp Hà Nội nghe ông Hoàng Tùng, Ủy
viên Trung ương đảng, TBT báo Nhân Dân nói chuyện về lịch sử nguyên văn
như thế này:
“Vì ta bận đánh Mỹ, không có thời gian và chưa đủ khả năng để giải phóng
Hoàng Sa nên nhờ bạn Trung Quốc giải phóng. Sau này mình thống nhất đất
nước rồi phía bạn sẽ trả cho mình.” (RFA 19-1-2013)
3)- Trong bài viết của Trần Quốc Việt với tựa đề “Thêm một bằng cứng bán
nước rõ ràng của đảng CSVN” ông Việt trích và dịch theo sách của Hà Nội
viết bằng chữ Anh mang tên “U.S Intervention and Aggression in Viet Nam
during the last twenty years.”
“Một cuốn sách của Bộ Ngoại giao VNDCCH ấn hành ở Hà Nội vào năm 1965
khẳng định rất rõ ràng quần đảo Hoàng Sa lệ thuộc Trung Quốc…
“…phần hải phận của nước CHND Trung Hoa xung quanh quần đảo Hoàng Sa là
‘khu vực chiến đấu’ của lực lượng vũ trang Mỹ.” (DanLamBao online ngày
24-1-2014)
4)- Phóng viên Trọng Nghĩa đưa tin “Báo Trung Quốc khai thác sơ hở trong
giáo dục của Việt Nam” như sau:
“…tờ Hoàn Cầu Thời báo đã khẳng định rằng chính Việt Nam đã công nhận là
vùng Biển Đông thuộc chủ quyền Trrung Quốc trước năm 1975, vì vào năm
1974, bản đồ và sách vở tại Việt Nam, trong phần giới thiệu về Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa, đều nói rằng các hòn đảo ở Biển Đông đã tạo thành một
bức tường lớn bảo vệ lục địa Trung Quốc…
…phần mềm tin học xác định chủ quyền của Trung Quốc bên trong đường lưỡi
bò ở Biển Đông lại được giảng dạy chính thức trong trường học, trong
chương trình tin học và địa lý của lớp 7, và từ năm 2007 đến nay.
Theo các nguồn tin báo chí trong nước, phần mềm đó mang tên Earth
Explorer, do Trung Quốc sản xuất và được Bộ giáo dục Việt Nam cho nhập và
đưa vào bắt buộc sử dụng trong nhà trường.” (RFI online ngày 29-12-2013)
Thạc sĩ Đinh Kim Phúc, chuyên gia nghiên cứu độc lập về Biển Đông trả lời
phỏng vấn của phóng viên Thanh Trúc đài RFA ông nói:
“Nếu không có hành động bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của đất nước thì cũng
đừng nên có hành động ‘cõng rắn cắn gà nhà’ như một số quan chức của Bộ
Giáo dục và Đào tạo trong vụ sách giáo khoa có in bản đồ đường lưỡi bò.”
(RFA online ngày 4-1-2014)
Qua những tài liệu trình bày ở trên và có thể còn nhiều hơn nữa cho thấy
rằng dù chúng ta có những tài liệu lịch sử chứng minh chủ quyền của Tổ
Quốc ta trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà đảng CSVN và chế độ
VNDCCH đã mặc nhiên công nhận chủ quyền của Trung cộng, ngày nay với lý lẽ
của kẻ mạnh chúng ta làm sao ăn nói đây? Bây giờ muốn hóa giải mọi mắc mứu
với Trung cộng về chủ quyền hai quần đảo này thì chỉ có việc duy nhất là
giải tán đảng CSVN và "Nhà nước CHXHCNVN" và thành lập chính phủ Việt Nam
Cộng Hòa đoàn kết dân tộc bình đẳng, bình quyền, không phân biệt chính
kiến, vì
chỉ có Việt Nam Cộng Hòa mới có đủ tư cách pháp nhân làm chủ hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa trên thực tế cũng như về mặt pháp lý và danh chính
ngôn thuận khi đưa ra tranh chấp Quốc tế, có như vậy Trung cộng mới không
còn một chứng cớ nào khả dỉ chứng minh được chủ quyền của chúng ngoài sự
ngang ngược đánh chiếm năm 1974.
Đại Nghĩa
Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!
.
.
0 comments:
Post a Comment