Tình Cha Vẫn Mãi Theo Con
Trong những tình cảm thiêng liêng của con người, có phải tình phụ tử
là mối tình cao quý nhất, mà người đời đã gọi là “nghĩa mẹ, tình cha”?
Cái tình cha mà thế hệ chúng tôi, thế hệ con em của những người lính
Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã không có trong tuổi thơ, vì bị chế độ Cộng
Sản (CS) vô thần cướp đoạt. Cái tình cha ấy đã luôn là nỗi khắc khoải
mong chờ trong những năm tháng tuổi thơ của anh em tôi khi không có cha
bên cạnh. Cái tình cha đã là món quà mà anh em tôi đã trân quý đón nhận
từ người cha sau những năm dài bị giam cầm trong ngục tù CS nơi rừng
thiêng nước độc ở Miền Bắc (MB) xa xôi. Và cái tình cha ấy sẽ mãi là
hành trang và là hoài niệm theo bước anh em tôi trong suốt cuộc đời này,
khi cha tôi đã mãi xa mẹ và anh em tôi gần 2 năm qua.
Tình cha thiêng liêng đã được ca ngợi trong tập tục văn hóa của Hoa
Kỳ khi chọn ngày Chủ Nhật thứ ba của tháng 6 làm ngày Lễ Cha. Trong suốt
những năm dài của kiếp tha hương nơi đất khách quê người, anh em tôi đã
có hạnh phúc nghĩ tới, chúc sức khỏe và gởi đến cha mình những món quà
vào những ngày Lễ Cha. Và những ngày gần đây, trước ngày lễ Hiền Phụ của
năm 2015, trong tôi có những nỗi niềm thương nhớ ba thật nhiều, cho dù
tôi đã nhớ về ông hầu như trong từng ngày tháng qua. Tôi vẫn không ngờ
ông đã ra đi thật xa và về ở một cõi vĩnh hằng nào đó. Có những lúc đăm
chiêu trong nỗi thương nhớ và hồi tưởng về ông, tôi đã không khéo dấu
những cảm xúc khi nghe hai cô con gái nhỏ hỏi: – Ba nhớ ông nội hả
ba? – Con muốn ông nội vẫn sống với ba và tụi con. Những câu nói ngây
thơ và chân tình của các bé đã đưa tôi về với thực tại và cho tôi thấy
được tình yêu của các cháu dành cho ba tôi, một ông nội hiền từ và luôn
vui đùa với chúng.
Đêm nay, trong giấc ngủ chập chờn, tôi chợt tỉnh giấc giữa đêm khuya
tĩnh lặng với những cảm xúc thương nhớ ba thật nhiều. Tôi nghĩ đến sáng
mai, ngày lễ Cha, mà những dòng lệ đã nhẹ nhàng lăn dài qua khóe mắt.
Lại thêm một năm nữa, anh em tôi đã không còn cơ hội để thương chúc sức
khỏe hay chung vui với ba mình. Trong đêm dài, tôi đang hồi nhớ lại
nhiều kỷ niệm với ông, hồi nhớ lại những lời dạy chỉ bảo của ông và
những câu chuyện về đời lính, hay năm tháng trong ngục tù CS. Và qua
những hồi nhớ này, tôi nhìn lại hết những tình cảm của ông dành cho quê
hương Việt Nam (VN), cho những chiến hữu của ông, cho gia đình người
thân, và cho những đứa con của ông. Tôi xin mượn những dòng chữ để ghi
lại những tình cảm của ông quyện vào cái tình cha mà ông đã vun bồi cho
anh em tôi.
Như các bạn trẻ đồng cảnh, anh em tôi sinh ra trong thời gian của
cuộc chiến Việt Nam. Anh em tôi đã chưa thật sự đủ lớn để cảm nhận được
sự phồn vinh và thanh bình của Miền Nam Việt Nam (MNVN) và chưa thật sự
đón nhận đầy đủ tình yêu thương dạy dỗ của cha mình, thì ngày đen tối
30-4-1975 của cả dân tộc VN ập tới, khi Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) xua
quân cưỡng chiếm MNVN. Từ ngày ấy, anh em tôi đã mãi không còn nhìn thấy
ba bên cạnh, vì ba tôi cũng như hàng trăm ngàn Quân – Dân – Cán – Chính
của miền Nam bị CSVN giam cầm trong các nhà tù, những địa ngục của trần
gian, từ Nam ra Bắc.
Tuổi thơ lớn lên trong nỗi nhục nhằn cơ cực bên cạnh tình yêu thương
và chăm sóc của mẹ, anh em tôi sớm nhận ra mình đang thiếu vắng tình
cha. Tôi đã luôn khao khát mong chờ ngày cha về đoàn tụ với gia đình, để
được cha yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ. Ngày vui đó đã bất ngờ đến với
mẹ và anh em tôi. Sau 10 năm tù CS, ba tôi được thả về xum họp với gia
đình. Và từ ngày đó, anh em tôi thật sự biết tình cha là như thế nào.
Ngoài phụ giúp mẹ tôi trong công việc buôn bán, ba đã dành hết thời gian
gần gũi và chỉ dạy anh em tôi. Tôi quá đỗi ngỡ ngàng nhận ra được nhiều
lời chỉ dạy mới lạ từ ba mà tôi không bao giờ được nghe nói đến trong
nhà trường XNCH. Ông cho anh em tôi các bài học vỡ lòng qua những khẩu
hiệu trong học đường của VNCH trước đây như: “Tiên học lễ, hậu học văn.”
Đó là tỏ lòng hiếu kính với ông bà, cha mẹ hay bậc trưởng thượng và lễ
phép trong cung cách ăn nói với người xung quanh.
Ba tôi còn cho chúng tôi thấy được nền giáo dục VNCH là nền giáo dục
nhân bản, đã giáo dục công dân MNVN những đức tính tốt mà gói gọn qua
cụm từ ngữ “nhân-lễ-nghĩa-trí-tín”. Ông đã giải thích từng chữ và dạy
cho anh em tôi. Ngoài ra, ông đã uốn nắn anh em tôi đi vào nề nếp qua
từng việc nhỏ như giữ gìn vệ sinh, ăn ngủ đúng giờ và đi thưa về trình.
Với kiến thức Anh ngữ có được từ học đường và từ nhiều năm giao tiếp với
các sĩ quan Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB) Hoa Kỳ, ba tôi đã lấy đó làm vốn
để dạy kèm môn học Anh ngữ cho anh em tôi. Ba tôi rất say mê đọc sách
Anh ngữ và nhất là ông thường nghe các câu chuyện Anh ngữ trên đài VOA.
Ngày hôm sau, ông tìm mua bản copy, đọc và dịch nghĩa để dạy Anh ngữ cho
chúng tôi.
Anh
em tôi như là những đứa trẻ đang khát sữa, mà những dòng sữa ấy là
những tình cha mà anh em tôi đã trông chờ trong suốt 10 năm dài qua. Và
khi những dòng sữa ấy, được ba tôi đem đến, anh em tôi vui mừng đón nhận
để nuôi dưỡng cho thân thể và tinh thần khỏe và lành mạnh hơn. Ba tôi
đã cho tôi cảm giác ông là người cha và cũng là người thầy dìu dắt anh
em tôi bước đi và đi đúng trong cuộc sống này. Ông luôn ân cần chỉ dạy
chúng tôi những điều mới lạ và trả lời các câu hỏi của anh em tôi. Ông
đã giúp cho tôi hiểu nhiều hơn về chính thể Quốc Gia, về quân binh chủng
VNCH và về binh chủng LLĐB và Biệt Động Quân (BĐQ) mà ông đã gắn liền
cả một đời binh nghiệp với gót giày sô đã in đậm trên khắp bốn vùng
chiến thuật. Tôi luôn say mê nghe ông kể về đời quân ngũ của ông qua các
trại LLĐB và các chiến trường. Ông đã cho tôi hiểu những cái đặc biệt
của binh chủng LLĐB, từ cách hành quân, xâm nhập và phá hoại trong lòng
địch. Ví dụ như những cách nghi binh đánh lừa địch, như bắn pháo binh
một hướng rồi hành quân theo hướng khác để tìm chạm địch hay cách thức
ngụy trang thả người nằm lại cho những điểm đã đi qua.
Năm tháng dần trôi, ba tôi đã quen dần với cuộc sống gia đình trong
cương vị là người chồng, người cha, nhưng ông luôn mãi là người xa lạ
trong cái xã hội CS nhiễu nhương với nhiều điều chướng tai, gai mắt. Cái
XHCN đã và đang băng hoại luân thường đạo lý của dân tộc VN. Cướp giựt,
đàng điếm và đâm chém diễn ra khắp nơi. Trong cái XHCN, những kẻ CS độc
tài theo chủ thuyết vô thần Mac-Lê đang cai trị, cướp bóc, đày ải và
giết hại chính dân tộc VN cùng dòng máu với họ. Nhìn về cái XHCN ấy và
nhìn về gia đình với tương lai mịt mù cho con cái, ông luôn mang tâm
trạng u buồn cho đất nước và dân tộc trên con đường bại vong.
Có những lúc buồn, ba tôi ngồi trầm ngâm khảy đàn guitar cổ nhạc, để
mượn cung đàn gởi gấm nỗi buồn vào trong đó. Ông thường đàn và ca những
bài cổ nhạc của MNVN trước đây như: Tình Anh Bán Chiếu, Ông Lão Chèo Đò,
hay Thằng Ngốc Bán Than. Với làn hơi ca mùi, vóc dáng cao ráo và niềm
đam mê, ba tôi đã có thể đi theo sở thích của mình để trở thành một nghệ
sĩ cổ nhạc. Nhưng ông đã không làm thế. Như các lớp trai thời chiến,
nhìn thấy đất nước điêu linh qua lửa khói chiến tranh mà CSBV đang gieo
rắc khắp nơi ở MNVN, ba tôi đã gạt qua những đam mê, tình nguyện gia
nhập trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức khóa 14. Ông đã đến với quân đội cùng
với các anh và các cháu của mình, cầm súng bảo vệ quê hương miền Nam
yêu dấu trước gót giày xâm lăng của CSBV.
Ba tôi thường đem những câu chuyện trong Sử Việt, với những anh hùng
dân tộc chống quân xâm lăng từ phương Bắc, kể cho chúng tôi nghe. Qua
các câu chuyện, ông muốn cho anh em tôi nhìn thấy những hình ảnh nói lên
tình cảm yêu thương dân tộc VN của các tiền nhân như Lý Thường Kiệt,
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ . v…v… và v…v…Trong các hình ảnh ấy,
tôi thấy được hình ảnh của thế hệ ba tôi, những người lính VNCH, cũng đã
cầm súng chống lại sự xâm lăng của CSBV, chư hầu của CS Quốc Tế. Ông
thường đọc cho chúng tôi nghe những câu nói của các vị anh hùng dân tộc,
như bài “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý thường Kiệt. Nhưng ông tâm đắc nhất là
câu nói của Nguyễn Công Trứ: “Làm trai đứng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông.”
Các câu thơ ấy nói lên cái chí khí của người trai sống có lý tưởng
cho đất nước và không thẹn với giang sơn gấm vóc, mà ông cha đã ngàn đời
gìn giữ. Cho dù ba tôi không nói ra, tôi đã nhìn thấy được cái lý tưởng
sống cho dân tộc, cho đất nước ở trong ông.
Sống gần bên ba, tôi thường được nghe ông kể nhiều về những câu
chuyện của đời lính kiêu hùng của ông, một người lính tác chiến qua các
binh chủng thiện chiến LLĐB rồi BĐQ của QLVNCH, quanh năm hành quân ở
biên thùy. Qua những câu chuyện đó, ông đã chỉ dạy cho anh em chúng tôi
những đức tính hy sinh, chịu đựng gian khổ, trau dồi kinh nghiệm của ông
và các chiến hữu trên các chiến trường lửa khói qua các địa
danh như Ashau, A Lưới, Bù Đốp, Tống Lê Chân, KaTum, Đức Huệ, An Lộc,
Bình Đê… v…v… và v…v. Lồng trong các câu chuyện ấy, ông đã cho anh em
tôi thấy cái tình lính, mà ông đã dành cho các chiến hữu của ông. Theo
lời ông kể, khi còn ở C1 LLĐB, nhìn thấy các bạn thuộc cấp và đồng cấp
của mình bị hà hiếp bởi viên sĩ quan ỷ thế cậy quyền, ông đã can đảm
đứng ra khiển trách vị sĩ quan này. Ông đã dạy chúng tôi rằng, “Mình
không nên ăn hiếp người yếu hoặc thấp nhỏ hơn mình. Ngược lại, nên bảo
vệ cho họ.”
Chính vì tính tình bộc trực và khí khái này, ông luôn là chỗ dựa an
toàn cho các chiến hữu và bạn hữu của ông từ trong quân ngũ, trong ngục
tù CS và ra tới hải ngoại này. Trong ngục tù CS, ông từng quát vào mặt
người tù làm ăng ten cho CS trong khi những bạn cùng phòng tìm cách
tránh né người ăng ten này. Trong sinh hoạt Cộng Đồng Người Việt Quốc
Gia (CĐNVQG), ông đã hai lần đứng lên bênh vực các chú bác trong hai lần
sinh hoạt của Cộng Đồng trước những quậy phá thiếu ý thức của một nhóm
người, chịu sự chi phối của đảng phái cho mưu đồ chính trị phe nhóm. Ba
tôi đã cho anh em tôi thấy được tấm gương của con người có cái dũng,
luôn bảo vệ người yếu thế trước những xấu xa của thói đời.
Nhưng đối với các chiến hữu, bạn hữu và những người thân, ba tôi luôn
thương mến họ. Ông luôn tỏ ra nhún nhường, ân cần và nhã nhặn trong lời
ăn tiếng nói, không hơn thua hay tranh giành thiệt hơn với ai. Chính vì
những đức tình này, nhiều người bạn và người thân gia đình thường nói
với tôi: “Ba con rất hiền và được nhiều anh em thương mến nhưng ba con
rất cương trực chống lại kẻ thù CS và tay sai CS.”
Qua những cử chỉ và lời nói, ba tôi đã dạy cho anh em cái tính hiền
từ và hòa nhã với mọi người thân quen. Ba tôi đã khéo đem cái tình lính
của ông lồng vào trong bài học của cái tình cha để dạy anh em tôi. Ông
đã dạy cho anh em tôi lòng vị tha và thương yêu các chiến hữu của mình.
Với cương vị trưởng trại qua các trại LLĐB của QLVNCH, ông đã trực tiếp
chỉ huy các người lính dân sự chiến đấu (CIDG) mà đa số là người dân tộc
thiểu số như người thượng, nhưng trong đó cũng có những người lính là
những thanh niên ngang tàng quậy phá của MN. Họ đến với lính, ngoài tình
yêu quê hương đất nước, họ còn có nhiều lý do khác nhau, mà trong đó là
cái hùng cái dũng của binh chủng này, lập nhiều chiến công nơi miền
chiến tuyến. Vì thế, ba tôi cho biết là không dễ chỉ huy những người
lính này, những người lính gan lì, đã xem nhẹ sự sống còn cho sự tự do
và dân chủ của MNVN. Ông đã dùng kỷ cương quân đội để chỉ huy bên cạnh
sự quan tâm và chăm lo cho binh lính và gia đình của họ. Ông sẵn sàng bỏ
qua hay làm lơ những lỗi lầm nhỏ của họ nếu lần đầu vi phạm. Ông tạo ra
cảm giác thương yêu nhau và bảo vệ cho nhau từ các sĩ quan, hạ sĩ quan,
cho tới binh sĩ các cấp trong trại. Và chính vì thế, những người lính
sẽ sống còn với ông với đơn vị, để cùng nhau lập nên chiến công, chận
đứng bước chân xâm lược của đoàn quân sinh Bắc tử Nam. Ông kể, có lần
một sĩ quan LLĐB trong trại của ông vì quá nhớ nhà, đã trốn đơn vị về
thăm vợ con. Ba tôi cho biết tội đào ngũ bỏ đơn vị nơi miền chiến tuyến
là rất nặng. Nhưng ba tôi đã hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh của người
sĩ quan này. Thay vì đưa sự việc ra tòa án binh, ba tôi chỉ khiển trách
và phạt nhẹ người sĩ quan đó để làm gương trước đơn vị.
Ba tôi cũng thường dạy anh em tôi phải sống rộng rãi và thương yêu với tha nhân. Ba tôi hay nói, “Ai cho ba ăn một lần, ba cho ăn lại mười lần”.
Câu nói nghe mộc mạc nhưng hàm chứa một nhân cách sống của ông đó là
cho nhiều hơn nhận. Theo lời ông kể, khi còn ở C1 LLĐB, có những năm
tháng hành quân không ngày về phép. Có lần, người bạn đồng cấp của ông
được về phép thăm mẹ bị bệnh. Người bạn ấy đã tâm sự với ông:
-Đường ơi, tao được phép về thăm mẹ tao, đang bị bệnh. Tao cần một số
tiền, giúp cho mẹ tao. Mày có thể cho tao mượn không? Nghe lời tâm sự
của bạn mình và hình dung ra niềm vui của người mẹ gặp lại con sau bao
tháng ngày dài thương nhớ, ba tôi liền nói:
-Tao còn độc thân như mày, không vợ không con, tao cũng không xài
được tiền lương ở vùng rừng núi hẻo lánh này. Thôi mày cầm 3 tháng lương
của tao về giúp cho mẹ mày. Từ từ rồi trả lại tao. Nhưng chiến tranh
ngày một khốc liệt ở khắp nơi, nên ông và người bạn đã đi qua nhiều
chiến trường lớn và mãi không hề gặp lại cho tới sau ngày rã ngũ đi tù
CS.
Với cương vị trưởng trại LLĐB, có những quyền lợi gì, ông đều chia sẻ
với các chiến hữu và thượng cấp của mình. Mỗi khi đơn vị lập chiến công
được khen thưởng với nhiều tặng phẩm, ba tôi luôn chia sẽ số tặng phẩm
này với chiến hữu các cấp. Ông cho tôi biết đời lính, sống nay chết mai,
anh em đều cực khổ như mình, nên chia sẻ được vui buồn với họ là việc
ông nên làm.
Ông yêu đời lính của ông, yêu các chiến hữu của mình, yêu chính nghĩa
của người lính VNCH, bảo quốc an dân. Ông đã tình nguyện đến với quân
đội, sống còn và trưởng thành với quân đội. Tình yêu lính và yêu quê
hương mãi theo ông trong suốt cuộc đời, nó đi vào trong tận tiềm thức
của ông. Tôi thường nghe ông kể về những giấc mơ của ông. Trong mơ, ông
nhìn thấy mình đang chỉ huy đơn vị chạm súng nặng với quân thù hay nhìn
thấy cùng đơn vị hành quân trên vùng rừng núi ngoại biên, tiến quân
trong làn sương mù giăng kín khắp nơi.
Có phải cái tình cảm của người lính VNCH và cái tình cảm của người tù
CS đã đem ông và các bạn ông lại thật gần với nhau hơn? Khi còn ở VN,
có rất nhiều bạn lính VNCH và bạn tù CS đã tìm đến thăm ông hay kết bạn
với ông. Khi rảnh rỗi, ông thường nhóm họp với các bạn, qua tách cà phê
hay ly trà bàn luận với nhau về chuyện thời sự đang diễn ra, nói cho
nhau nghe về chuyện đời quân ngũ và chuyện tù CS, hay những chuyện sẽ
được cho ra đi tỵ nạn CS tại Hoa Kỳ trong tương lai. Qua những người bạn
cũ có và mới có của ba, tôi vô cùng ngạc nhiên khi biết được rất nhiều
cựu sĩ quan QLVNCH sinh sống tại vùng đất Gia Định qua các con đường Lê
Quang Định, Phan Văn Trị, và Nơ Trang Long. Trong số họ, có nhiều vị
từng nắm giữ những chức vụ lớn của quân đội VNCH trước đây, như cấp bậc
đại tá trong quân đoàn, trong phủ Tổng Thống và trong cục Quân Y.
Tôi đã thầm tự hào là tôi đã là người con của vùng đất Gia Định này,
nơi đã có nhiều chí sĩ yêu nước như Tả Quân Lê Văn Duyệt và nhất là vô
số các chú bác, những người lính VNCH. Tôi thường được ba tôi dẫn đi
thăm những người bạn của ông và nhờ đó tôi nhìn thấy tình lính, tình bạn
tù thương yêu giữa họ. Những người con của nước Việt, đã từng khoác
chiến y chống lại đoàn quân xâm lược theo chủ thuyết CS vong bản, đã hy
sinh xương máu nhiều trong cuộc chiến, đã chịu nhiều năm bị giam cầm
trong lao tù CS và hiện đang xây dựng lại mái ấm gia đình nhỏ bé, vun
đắp lại tình chồng, tình cha. Tôi yêu quý và kính mến những người bạn,
những cựu tù CSVN của ba tôi.
Ba tôi rất vui khi tìm lại được các chiến hữu của ông trong thời
chinh chiến và trong số này có cả những thượng cấp của ông như bác
Nguyễn Thành Chuẩn, bác Lê Tất Biên, hay bác Nguyễn Công Triệu. Có những
thuộc cấp đã tìm tới thăm ba tôi và họ rất quý ba tôi như tình cảm ba
tôi dành cho thượng cấp của mình. Ôi tình lính của họ thật cao đẹp và
sống mãi trong họ cho dù vật đổi sao dời. Có lần ba tôi được mời tới dự
tiệc chung, chia tay tiễn đưa bác Đặng Ngọc Quỳ và những người bạn đồng
khóa 17 Võ Bị Đà Lạt của bác Quỳ ra đi theo diện HO. Ba tôi rất vui kể
lại cho tôi nghe là trong buổi tiệc, bác Quỳ đã đứng lên giới thiệu ba
tôi với các người bạn, đại ý : – Tôi xin giới thiệu với các bạn, đây
là Thiếu Tá Nguyễn Minh Đường, anh là xếp của tôi, khi tôi là phụ tá
trưởng trại LLĐB cho anh và anh đã giúp tôi nhiều trong những bước đường
binh nghiệp. Ba tôi rất vui gặp lại bạn cũ và nghe những lời giới
thiệu chân tình đó.
Trong những năm dài sống đời tỵ nạn CS tha hương nơi đất khách, ba
tôi vẫn luôn thao thức nghĩ về quê hương VN. Ở nơi đó, ông đã có biết
bao nhiêu kỷ niệm và hoài bão của tuổi thơ, của đời lính và kiếp tù đày.
Ở nơi đó, có vô số những mảnh đời đang sống lây lất trong cảnh bần cùng
đói khổ như cô nhi, quả phụ, và thương phế binh VNCH. Khi các chiến hữu
LLĐB tại tiểu bang Washington tìm lại với nhau, ông và họ cùng đóng
góp, kẻ ít người nhiều, để có món quà nhỏ gởi về VN cho bà quả phụ Lê
Văn Ngôn. Tên tuổi của chú Ngôn đã gắn liền với chiến sử của QLVNCH khi
chú đã anh hùng tử thủ trại Biệt Động Quân biên phòng Tống Lê Chân và
chú đã gục chết trong ngục tù CS. Ba tôi thường ưu tư về những người
thương binh của Biệt Kích hay Dân Sự Chiến Đấu, những người thương binh
không có số quân và sẽ mãi không nhận được sự giúp đỡ của các hội thương
phế binh VNCH tại Hoa Kỳ. Ông đã cho chúng tôi thấy được tấm lòng của
ông, luôn thương nghĩ về đồng đội của ông năm xưa.
Cho dù tuổi càng cao, sức khỏe càng yếu và mang trong người nhiều căn
bệnh mà trong số ấy là những căn bệnh hậu chứng của năm tháng tù đày bị
lao động khổ sai, thiếu ăn, thiếu mặc và thiếu thuốc men, ba tôi vẫn
luôn có một tinh thần vững mạnh, hăng say dấn thân trong các sinh hoạt
của CĐNVQG hay các hội đoàn quân đội tại tiểu bang WA. Ông có mặt hầu
hết ở các sinh hoạt, nêu cao chính nghĩa Quốc Gia qua các lễ hội hay kỷ
niệm của VNCH, biểu tình chống lại sự hiện diện của CSVN tại điạ phương,
có mặt trong các buổi tháo bỏ cờ máu CS và thay bằng cờ VNCH tại các
công sở trường học. Ba tôi đã cùng với các chú bác trong CĐNVQG và các
hội đoàn quân đội, xây dựng và bảo vệ CĐNVQG trước bàn tay dài lem luốc
của tay sai CS. Bên cạnh đó, ba tôi luôn lấy những hiểu biết và khả năng
của mình giúp đỡ những người thân quen, như việc ông hướng dẫn cho các
chú, bác và các cụ trong hội cao niên sử dụng computer, chơi bóng bàn,
hay chở các vị cao niên tới các lễ hội và các kỷ niệm VNCH được tổ chức
tại các thành phố xa xôi.
Có lần tôi tâm sự với ba về những hành động không đúng của người
quen, ông liền khuyên tôi nên bỏ qua và đừng bận tâm vào những chuyện
nhỏ nhặt ấy. Đúng vậy, ba tôi luôn xem nhẹ những cái việc nhỏ nhặt như
những tranh chấp hay bất đồng trong các tổ chức đấu tranh. Đối với ông,
cái việc chung cần làm là xây dựng và bảo vệ CĐNVQG và cùng các tổ chức
đấu tranh cho một VN không CS.
Khi những căn bệnh hiểm nghèo ập tới, ba tôi không hề lo sợ và sẵn
sàng bước lên bàn giải phẫu. Ông luôn an nhiên và chấp nhận số mệnh của
mình. Là người con Phật, ông luôn tin vào luật nhân quả của đạo Phật cho
kiếp người mà ông đã đi qua. Trong cuộc chiến VN, ba tôi đã nhiều lần
thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, thì không lẽ những cơn bệnh cuối đời
sẽ mang ông đi theo nghiêp số. Với ý chí cao, ông đã vượt qua nhiều ca
giải phẫu liên tiếp. Qua nhiều đêm dài chăm sóc nuôi bệnh cho ông, tôi
không hề nghe ông có một tiếng than thở, cho dù trong người có những nỗi
đau đớn của cơn bệnh. Cái đau về thể xác ấy sẽ chẳng là gì so với cái
đau về tinh thần của ông, khi ông nhìn thấy quê hương vẫn mãi chìm đắm
trong đọa đày bởi sự cai trị của loài quỷ đỏ CSVN.
Dù nằm trên giường bệnh, ông vẫn luôn nghĩ về các sinh hoạt sắp tới
của CĐNVQG và các sự kiện đang xảy ra tại quê nhà khi vô số tàu cá ngư
dân VN bị CSVN làm ngơ cho tàu CS Trung Quốc đâm chìm. Ông ngủ thật
nhiều, nhưng khi tỉnh giấc, ông lại tiếp tục kể cho tôi nghe về kỷ niệm
của ông với các bạn thời niên thiếu, với các người thân trong gia đình
và với các chiến hữu trong binh chủng LLĐB và BĐQ mà ông đã gặp lại sau
này. Tôi không ngờ, đó là những lần sau cùng tôi được nghe kể về các
chiến hữu của ông. Không biết đã có bao nhiêu cái tên của các chú bác,
mà ba tôi đã từng kể cho tôi nghe, như các chú bác: Ngô Minh Hồng,
Nguyễn Khoa Lộc, Trần Ngãi, Nguyễn Chiêu Minh, Nguyễn Thanh Bình, Chiêm
Thanh Hoàng, Thọ Râu, Trần Văn Quyền, Trần Văn Luận, Hồ Tăng Dư, Thập Lở
… v…v… và v…v… Các chiến hữu đã cùng ba tôi sát cánh bên nhau qua các
chiến trường lửa khói và có nhiều vị ông mới gặp lại sau hơn 40 năm, vào
những dịp ông đi tham dự Đại Hội Biệt Đông Quân hàng năm.
Những bom đạn của quân thù, những đòn tra tấn hành hạ của nhà tù CS,
và những căn bệnh qua các lần giải phẫu đã không lấy được mạng ba tôi,
nhưng vì kiệt sức ông đã bị té quỵ, kết thúc cuộc đời mình, một kiếp đời
nhân sinh phù du trong cõi ta bà này. Ba tôi đã đến với đời, sống trọn
vẹn cho những cuộc tình với gia đình, với quê hương, với chiến hữu và
với bạn hữu của ông. Phải chăng tôi đã là người con được ba tôi thương
yêu và gởi gấm nhiều lời dạy và tâm sự nhất? Vào giờ phút cuối của ba
tôi, trong thế giới tâm linh tôi không sao giải thích được, ba tôi hay
các thiên sứ đã đến báo cho tôi biết là ba tôi sẽ mãi ra đi. Đêm hôm đó,
sau khi người em báo tin là ba bị té và hôn mê, tôi đã thức trắng cả
đêm buồn lo và cầu nguyện. Bổng chợt, tôi nghe một luồng gió lướt nhẹ
qua bên ngoài cửa sổ thật nhanh và cây đèn ngủ bằng điện trong phòng
chợt tắt. Lạ thật! Cây đèn này được mở lên mỗi đêm và không hề bị tắt
ngoài lần duy nhất đó. Và tôi có linh tính là điềm xấu đã đến với ba
tôi.
Trong đám tang của ba, tôi đã nhìn thấy được tình cảm của mọi người
quen biết đến tiễn đưa ông lần cuối. Có những chú bác đến từ xa như bác
Giang Văn Xẻn đến từ Texas và chú Lê Hữu Phúc đến từ Virginia. Rất nhiều
các cô chú bác trong các CĐNVQG, các đảng phái VNCH, các hội đoàn quân
đội và cảnh sát VNCH, và các chiếu hữu và thân hữu của ba tôi đã gọi
phone, gởi vòng hoa, đăng báo hay đến nhà quàng phân ưu và chào tiễn
biệt ba tôi lần cuối. Thật cảm động, khi anh em tôi nhìn và nghe được
những lời phân ưu với những dòng nước mắt và lời nói nghẹn ngào. Những
giọt nước mắt mãi rơi từ người thân trong gia đình và từ nhiều chiến
hữu, thân hữu và bạn hữu của ông. Mọi người đã thương nhớ nuối tiếc cho
sự ra đi của người chồng, người cha, người chiến sĩ chống cộng và người
bạn. Một câu đối đã được các chú bác trong Hội Lực Lượng Đặc Biệt Tiểu
Bang Washington làm và dựng lên cạnh quan tài của ông.
“Trời A Lưới Dọc Ngang Diệt Loài Quỷ Đỏ
Đất Seattle Thầm Lặng Níu Bước Chân Anh”
Sự ra đi đột ngột của ba tôi đã để lại cho mẹ và anh em tôi một nỗi
niềm thương nhớ và hụt hẫng vô tận. Cho dù anh em tôi đã lập gia đình và
cho ba mẹ những đứa cháu nội ngoại kháu khỉnh, chúng tôi luôn cảm thấy
nhỏ bé và dại khờ, khi không còn được nghe những lời khuyên bảo của ba
tôi. Chúng tôi đã không còn cơ hội để đón nhận thêm những tình cảm nào
của ba. Nhưng, những tình cảm và những lời dạy của ông sẽ mãi theo chúng
tôi trong suốt cuộc đời này. Ông đã dạy cho anh em tôi nhiều điều từ
nhân cách sống, lòng thương yêu dân tộc, gia đình và người thân.
Ba ơi, con rất vui khi đã là con của ba, con rất tự hào về những hy
sinh xương máu của ba trong cuộc chiến bảo vệ nền tự do và dân chủ cho
MNVN, và hơn hết con rất hãnh diện có ba là người lính VNCH, đã từng
sống và chiến đấu cho lý tưởng Quốc Gia và Dân Tộc tới hơi thở cuối
cùng. Đúng như ai đã nói, “Vinh quang thay cho những ai được sống và
chiến đấu bảo vệ nền tự do, dân chủ và nhân quyền cho dân tộc mình”.
Con không có cái vinh quang ấy, nhưng con xin hứa sẽ tiếp bước thế hệ
cha anh, người lính VNCH, trên con đường đấu tranh cho một VN không CS,
bằng ngòi bút hay bằng phương tiện truyền thông. Lần nữa, con xin cảm
ơn ba và chúc ba được mọi sự an vui trong cõi vĩnh hằng.
Một ngày lễ Cha nữa đã đi qua. Tôi xin chúc mừng cho ai vẫn còn diễm
phúc có cha bên cạnh. Bạn đang có cả một vùng trời hạnh phúc và bạn hãy
nên trân quý nó. Bạn hãy thường xuyên thăm hỏi và phụng dưỡng cha mình.
Hãy làm vậy bạn nhé!
Hùng Biên
Atlanta, 06/21/2015
0 comments:
Post a Comment