Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa

Monday, 30 January 2017

Xuân Kỷ Dậu (1789): Vua Quang Trung đại phá quân Thanh


Trò chuyện với nhà nghiên cứu sử học Trần Gia Phụng về chiến thắng năm Kỷ Dậu 1789

Chương trình: Thế Giới Ngày Nay. Đài Phát Thanh Việt Nam Oaklahoma City

1.- Hồng Phúc (câu hỏi số 1): .Thưa anh Phụng, năm nay là năm Đinh Dậu, chúng ta không sao quên được một năm Dậu trong lịch sử dân tộc, là năm Kỷ Dậu 1789, năm mà Vua Quang Trung đại phá quân Thanh vào ngày Mồng Năm Tết tại Thăng Long. Trước hết, xin anh cho nghe khái quát về nguyên nhân cuộc chiến vẻ vang này được diễn ra như thế nào?

Trần Gia Phụng (trả lời câu số 1): Thưa anh Hồng Phúc, trước hết, tôi xin cảm ơn anh Hồng Phúc mở cuộc nói chuyện nhân dịp đầu năm Đinh dậu (2017) chung quanh đề tài rất thích hợp là vua Quang Trung và người Việt đã chiến thắng cuộc xâm lăng của Trung Hoa năm Kỷ dậu 1789, cách đây 228 năm.

Trước khi vào chuyện, theo cách thông thường của người xưa, năm nay gọi là năm con gà, tôi xin mời anh Hồng Phúc và quý thính giả nghe một câu chuyện vui có thật về con gà. Chuyện có thật trong quá khứ, chứ không phải là chuyện bịa đặt đâu nghe anh Hồng Phúc. Câu chuyện như sau: 

Nguyên khi chiến tranh bùng nổ năm 1946, nhà văn Phan Khôi đang ở Hà Nội Ông là một nhà văn rất nổi tiếng vào thời đó. Việt Minh cộng sản sợ ông bỏ về phía Pháp, nên bắt và đưa ông tản cư lên chiến khu Việt Bắc của CS, sống biệt lập ở trên đó suốt 9 năm.

Sau hiệp định Genève năm 1954, nhà văn Phan Khôi bị CS đưa về sống ở Hà Nội để dễ kiểm soát. Một hôm, có một người bạn mời ông ăn cơm, trong đó có món thịt gà. Sau khi cầm đũa, Phan Khôi chỉ dĩa thịt gà nói rằng: “Chà chả, chin (9) năm nay, từ khi đi tản cư chạy loạn cho đến bây giờ, tau mới lại gặp mày.” Như thế nghĩa là trong 9 năm tản cư, Phan Khôi chưa được lần nào thưởng thức món thịt gà, huống gì là thịt heo, thịt bò. Chuyện nầy được kể lại trong mục về Phan Khôi, sách Trăm hoa đua nỡ trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí, xuất bản năm 1959 ở Sài Gòn.

Hồng Phúc: Vâng, cảm ơn anh, nay chúng ta trở lại với chủ đề cuộc nói chuyện.

Trần Gia Phụng: Vâng thưa anh, thưa bà con nghe đài, xin bắt đầu với câu hỏi “mở hàng” đầu năm của anh Hồng Phúc. Nguyên nhân cuộc chiến năm Kỷ dậu 1789 bắt đầu từ việc năm 1788, sau khi bị quân Tây Sơn tấn công, hoàng gia nhà Hậu Lê bỏ chạy khỏi Thăng Long, mỗi người một ngã. Tháng 7 năm đó, từ Cao Bằng, bà thái hậu tức mẹ của vua Lê Chiêu Thống, đem theo con của nhà vua, cùng một số quan lại, chạy qua Long Châu (Long-Tcheou) cầu cứu với nhà Thanh bên Trung Hoa. Xin chú ý là thân mẫu Lê Chiêu Thống cầu cứu chứ không phải Lê Chiêu Thống. 

Viên tri châu Long Châu là Trần Tốt trình lên thượng cấp của y là Tôn Vĩnh Thanh, tuần phủ Quảng Tây, và Tôn Sĩ Nghị, tổng đốc Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây). Tiếp đó, bà thái hậu cùng với cháu nội đến Nam Ninh, trực tiếp gặp hai người nầy cầu viện. Sau cuộc hội kiến với bà thái hậu nhà Lê, Tôn Sĩ Nghị làm sớ trình với vua Thanh Cao Tông (trị vì 1736-1795), tức vua Càn Long (Ch'ien-lung), xin đem quân lấy cớ khôi phục nhà Lê, rồi nhân đó chiếm luôn nước Đại Việt tức nước Việt Nam sau nầy. Đây là một cơ hội tốt mà vua Thanh Càn Long đang chờ đợi, vì ba lẽ: 

Thứ nhứt lúc bấy giờ dân số Trung Hoa tăng trưởng rất cao. Đất đai canh tác thiếu; triều đình nhà Thanh phải tìm kiếm thêm đất để di dân. (Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc tập 2, Tp.HCM: Nxb.Văn Hóa,1997, tr. 197.)

Thứ hai, Thanh Càn Long là ông vua đầy tham vọng đế quốc. Ông gởi quân mở rộng biên cương phía bắc và phía tây, rất tự hào rằng ông đã lập được nhiều chiến công lẫy lừng. Gần nhứt, vào năm 1787, ông cử Phúc Khang An đem quân chiếm đảo Đài Loan. Sau đảo Đài Loan, Thanh Càn Long nhìn xuống Đại Việt và Đông nam Á, chờ đợi thời cơ tiến chiếm vùng nầy. 

Thứ ba, năm 1790, Càn Long sẽ làm lễ “bát tuần khánh thọ” (mừng 80 tuổi). Càn Long muốn tìm kiếm một chiến công ở ngoài biên cương để tăng thêm hào quang rực rỡ của triều đại của mình. 

Nhân dịp bà mẹ vua Chiêu Thống cầu viện, Thanh Càn Long liền chụp lấy cơ hội, quyết định cử Tôn Sĩ Nghị làm tổng chỉ huy cuộc viễn chinh, trực tiếp đứng đầu cánh quân Lưỡng Quảng, tiến vào Đại Việt bằng đường Lạng Sơn; còn đề đốc Ô Đại Kinh dẫn quân Vân Nam và Quý Châu vào Đại Việt bằng đường Lào Cai, theo đường sông Hồng thẳng xuống Thăng Long. Thanh Càn Long còn chuẩn bị cả việc đánh chiếm luôn xuống tới Thuận Hóa tức Thừa Thiên ngày nay.

Quân nhà Thanh xâm lăng, thì quân Đại Việt, lúc đó do nhà Tây Sơn lãnh đạo, tổ chức ứng chiến để bảo vệ đất nước. Đó là nguyên nhân hết sức khái quát đưa đến cuộc chiến năm 1789.

2.- Hồng Phúc (câu hỏi 2): Một vấn đề gây tranh cãi lâu nay là nhà Thanh đưa bao nhiêu quân để xâm lăng Đại Việt?

Trần Gia Phụng (trả lời câu hỏi 2): Câu hỏi rất hay, anh Hồng Phúc, vì lâu nay nhiều dư luận tranh cãi về việc nầy. Ở đây, tôi chí xin đưa ra tài liệu. Rồi xin bà con thẩm định. Có ba nguồn tài liệu khác nhau:

1) Thứ nhứt, tài liệu Trung Hoa: Theo Cao Tông thực lục, bộ sử của triều đình nhà Thanh, thì cánh quân Lưỡng Quảng của Tôn Sĩ Nghị gồm một vạn người (10,000). (Cao Tông thực lục, Hồ Bạch Thảo dịch, quyển thượng, New Jersey: 2004, tr. 47.) (Cao Tông là niên hiệu của vua Càn Long nhà Thanh.)

Cũng theo Cao Tông thực lục, ở phía tây, đề đốc Vân Nam là Ô Đại Kinh đem 5,000 quân qua đường sông Hồng. (Cao Tông thực lục, bản dịch tr. 77.) Như thế, theo chính sử Trung Hoa, tổng số quân Thanh cả hai cánh là 15,000 người. Tài liệu nầy không nhắc đến số quân do Sầm Nghi Đống ở Điền Châu lãnh đạo, mà các tài liệu Trung Hoa không biết đi khi nào và bao nhiêu quân. Ngoài ra, trong cuộc viễn chinh lần nầy của nhà Thanh, Tôn Vĩnh Thanh chỉ huy đoàn tiếp liệu, chuyển vận lương thực cũng rất đông đảo.

Trong sách Thánh vũ ký, Ngụy Nguyên (Wei Yuan, 1794-1857), một sử gia Trung Hoa, chép rằng “Tiếng rằng đại binh có vài chục vạn”, tức vài trăm ngàn người. (Hoàng Xuân Hãn dịch bài “Càn Long chinh vũ An Nam ký” nghĩa là “Bài ghi việc đánh dẹp An Nam đời Càn Long”, trong sách Thánh vũ ký, đăng trong La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II, Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 1998, tr. 1342.) [Sách nầy thường được gọi là Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập II.]

2) Theo tài liệu trong nước:Sách Hoàng Lê nhất thống chí, hồi thứ 13, tóm tắt đại lược hịch của Tôn Sĩ Nghị, có viết rằng họ Tôn: “điều động năm mươi vạn quân thẳng tới La thành [Thăng Long]...” (Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, viết tắt HLNTC, chữ Nho, Hà Nội: bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Kiều Thu Hoạch, Nxb. Văn Học, 1987, tập 2, tr. 153.) Năm mươi vạn nghĩa là 500,000 quân. Con số nầy lớn quá, do người Thanh tuyên truyền kể thêm, để binh sĩ hăng hái ra đi. 

Trong “Tờ chiếu phát phối hàng binh người nội địa” của vua Quang Trung, do Ngô Thời Nhậm soạn có đoạn viết: “Trẫm ứng mệnh trời, thuận lòng người, nhân thời thế làm việc cách mệnh, dùng binh lính bình định thiên hạ. Viên Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị các người, tài đong đấu ra, nghề mọn thêu may, không biết những điều chủ yếu trong việc dùng binh, vô cớ đem 29 vạn quân ra khỏi cửa quan, vượt núi trèo đèo, vào sâu hiểm địa, xua lũ dân vô tội các ngươi vào vòng mũi tên ngọn giáo. Đó đều là tội của viên Tổng đốc nhà các ngươi.” (Ngô Thời Nhậm, “Tờ chiếu phát phối hàng binh người nội địa”, trong Hàn các anh hoa, bd trong sách Ngô Thời Nhậm tác phẩm, [chữ Nho], Mai Quốc Liên cùng một số tác giả phiên dịch, Hà Nội: Trung tâm Nghiên cứu Quốc Học, Nxb. Văn Học, tr. 190.)

Con số 29 vạn viết trên đây tuy do Ngô Thời Nhậm, người trong cuộc đưa ra, nhưng trong một văn thư có tính tuyên truyền, thì cũng chưa hẳn sát với thực tế. Có tài liệu thì viết rằng lực lượng quân Thanh xâm lăng Đại Việt lên khoảng hai mươi vạn tức 200. 000 quân. (Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn Huệ, Đại Nam, Hoa Ky: tái bản không đề năm, tt.159, 185.)

Các số liệu nầy từ hai phía Việt cũng như Trung Hoa đều cần phải nghiên cứu lại. Theo tâm lý thông thường, do tinh thần yêu nước, sử liệu Trung Hoa thường hạ số liệu quân đội viễn chinh xuống, để khi chiến thắng thì chiến thắng có giá trị, vì đem ít người mà vẫn thắng trận, còn khi thất bại thì thất bại không đáng kể, vì đem ít quân nên mới thất bại. Về phía người Việt cũng thế, tang số quân xâm lăng để chiến thắng thì oai hung, còn thất bại thì chẳng có gì lạ vì quân địch đông quá. 

Ngoài ra, có một điều đáng chú ý về số lượng quân Thanh: Trong “Tám điều quân luật” trước khi quân Thanh xuất chinh năm 1788, Tôn Sĩ Nghị đã thông báo như sau trong điều thứ 8: “Lần nầy hành quân xa xôi qua biên ải, triều đình thương đến binh lính, đã chu cấp rộng ra ngoài thể lệ, mỗi người lính được cấp một tên phu. Các viên coi quân cần hiểu dụ trước cho mọi người biết...” (HLNTC, bản dịch tập 2, sđd. tt. 152, 179.)

Như thế, nếu theo chính sử nhà Thanh, hai cánh quân của Tôn Sĩ Nghị và Ô Đại Kinh sang Đại Việt tối thiểu cộng lại là 15.000 người; và nếu mỗi quân nhân được quyền đem theo một người phu (điều thứ 8 của quân luật Tôn Sĩ Nghị), thì số người Thanh qua Đại Việt tối thiểu là 30,000. Cần chú ý là các tướng lãnh và sĩ quan Thanh chắc chắn mỗi người đem theo hơn một người phu. Ngoài ra, còn có đoàn quân tiếp liệu của Tôn Vĩnh Thanh. Đoàn nầy không thể dưới 10,000 người. (Cao Tông thực lục, bản dịch. tr. 123.) Ba số liệu nầy cộng lại đã được 40,000 người. Đây là con số tối thiểu, mà thực tế phải cao hơn nữa.

3) Nguồn tài liệu thứ ba về chiến tranh Việt Hoa năm 1789 do người Tây phương có mặt ở nước ta đưa ra. Thứ nhứt là Nhật ký của Hội Truyền giáo ở Bắc Kỳ về những sự kiện ở trong địa phận Giáo hội Bắc Kỳ từ tháng 10-1788 đến tháng 7-1789. Theo tài liệu nầy, khi Tôn Sĩ Nghị làm lễ phong vương cho Lê Chiêu Thống (19-12-1788), tức lúc đó quân Thanh đã vào đến Thăng Long, tài liệu nầy cho biết số quân Thanh là 280.000 người (28 vạn), một nửa đóng trong thành phố, một nửa đóng ở bên kia sông. (Đặng Phương Nghi dịch, Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, tập san Sử Địa 9-10, Sài Gòn: 1968, tt. 213, 216.)

Số 28 vạn quân Thanh của tài liệu nầy gần với số 29 vạn mà Ngô Thời Nhậm đã viết trong “Tờ chiếu phát phối hàng binh người nội địa” (đã trình bày ở trên).

Tài liệu Tây phương thứ hai do J. Barrow viết. Ông nầy đến nước ta năm 1792, ba năm sau chiến tranh. Trong hồi ký của mình, ông viết rằng số quân Thanh là 100,000 người. (J. Barrow, A Voyage to Cochinchina in the year 1792 and 1793, London: 1806, tr. 252.)

Tài liệu Tây phương thứ ba của giáo sĩ Pierre-Jacques Lemonnier de la Bissachère (1764-1830) đến Bắc hà khoảng năm 1790, viết trong hồi ký xuất bản ở Paris năm 1812 rằng quân Thanh sang Đại Việt khoảng 40,000 người và bị giết tại trận khoảng 20,000 người. Giáo sĩ De la Bissachère ở lại Bắc hà cho đến năm 1798, nên có thể ông thu thập được nhiều nguồn tin và lượng định con số quân Thanh sang nước Việt. (M. De la Bissachère, Etat actuel du Tonkin, de la Cochinchine et des autres royaumes de Cambodge, Laos et Lac Tho, Paris: 1872, tt. 169-170.) Cá nhân tôi nghĩ con số của giáo sĩ nầy là hợp lý nhứt.

3.- Hồng Phúc (câu hỏi 3): Thứ đến, xin anh Phụng cho nghe về chiến lược và chiến thuật đã được Vua Quang Trung áp dụng trong trận đánh này ra sao?

Trần Gia Phụng (trả lời câu hỏi 3): Chiến lược tổng quát lúc đầu của quân đội Tây Sơn chống giặc Thanh xâm lược do các các nhà lãnh đạo Tây Sơn ở Bắc hà vạch ra, đó là đại tư mã Ngô Văn Sở, nội hầu Phan Văn Lân và một cựu quan nhà Lê ra cộng tác với nhà Tây Sơn là Ngô Thời Nhậm. Khi Nguyễn Huệ rút về Phú Xuân năm 1787, giao cho ba ông nầy cai quản Bắc hà.

Khi được tin quân Thanh sửa soạn tiến vào nước ta, một mặt các ông cấp báo về Phú Xuân cho Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ biết, lúc đó Nguyễn Huệ chưa lên ngôi vua; một mặt khác các ông kiếm cách hoãn binh với quân Thanh.

Để hoãn binh, Ngô Thời Nhậm viết thư cho Tôn Sĩ Nghị. Ngưòi đứng tên trên thư nầy là đại tư mã Ngô Văn Sở, trần tình với Tôn Sĩ Nghị về tình hình nước Nam, nói rằng Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ chỉ muốn dẹp Nguyễn Hữu Chỉnh, nhưng vua Lê Chiêu Thống bị Chỉnh đưa đi trốn, nay không biết ở đâu, nên lập Lê Duy Cận coi việc nước và xin Tôn Sĩ Nghị dừng binh. (Ngô Thời Nhậm tác phẩm, sđd. tt. 304-306.) Tôn Sĩ Nghị trình về triều đình nhà Thanh thư của tướng Tây Sơn. Thanh Càn Long không chấp thuận, ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị tiếp tục tiến quân. 

Lúc đó lực lượng Tây Sơn ở Bắc hà chỉ khoảng 3,000 quân do Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ để lại trước khi rút về Nam. (Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn Huệ, Đại Nam, Hoa Kỳ, tái bản không đề năm, tr. 151.)

Có thể từ kinh nghiệm lịch sử thời nhà Trần vào thế kỷ 13, khi quân Mông Cổ tấn công ào ạt thì các vua Trần rút lui, rồi sau đó mới tổ chức phản công. Nhóm lãnh đạo Tây Sơn ở Bắc hà đã theo kế hoạch do Ngô Thời Nhậm đưa ra, quyết định lui binh để bảo toàn lực lượng và cấp báo về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ ở Phú Xuân. Ngô Văn Sở cử Phan Văn Lân đem quân cản bước tiến của người Thanh.

Trong thời gian Nội hầu Phan Văn Lân cầm cự, cản trở và làm chậm bước tiến của quân Thanh, Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhậm rút lui toàn bộ lực lượng thủy bộ Tây Sơn được an toàn về núi Tam Điệp (tức đèo Ba Dội) ở Ninh Bình, đóng quân ở những vị trí hiểm yếu then chốt từ vùng đồi núi ra tới bờ biển vùng đảo Biện Sơn, để đề phòng quân Thanh tiến đánh, rồi chờ đợi tin tức Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đang còn ở Phú Xuân.

Về phần Nguyễn Huệ, khi được tin quân Thanh xâm nhập nước ta vào đầu tháng 11 âm lịch năm mậu thân (1788), Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ liền nhân cơ hội nầy, quyết định lên ngôi vua. Sau khi chuẩn bị triều nghi, sắp đặt việc bảo vệ Phú Xuân, Nguyễn Huệ chính thức lên ngôi vua ngày 25 tháng 11 Mậu thân (22-12-1788), chọn niên hiệu là Quang Trung (có nghĩa là ánh sáng trung tâm). Lễ đăng quang được tổ chức tại núi Bàn (Bàn Sơn), àng An Cựu, một ngọn đồi thấp, sát bên cạnh và thấp hơn núi Ngự Bình. Chiếu lên ngôi của vua Quang Trung do Ngô Thời Nhậm soạn, dù lúc đó, Ngô Thời Nhậm đang ở Tam Điệp, Ninh Bình.

Ngay sau lễ đăng quang, vua Quang Trung liền kéo quân bắc tiến, tức cùng ngày 25 tháng 11 âm lịch (22-12-1788). Chiến thuật hành quân sở trường của vua Quang Trung là tấn công bất ngờ và thần tốc. 

Di chuyển trong bốn ngày, lực lượng Tây Sơn dừng quân tại Nghệ An ngày 29 tháng 11 (âm lịch). Tại đây, vua Quang Trung mời La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp đến hội kiến. Nguyễn Thiếp là một danh sĩ đất Nghệ An. Trong cuộc gặp gỡ, nhà vua bàn luận với Nguyễn Thiếp kế hoạch hành quân. Nguyễn Thiếp nói: “Người Thanh ở xa tới, mệt nhọc, không biết tình hình khó dễ thế nào, thế nên chiến thủ thế nào. Và nó có bụng khinh địch. Nếu đánh gấp đi thì không ngoài 10 ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được nó.” (Hoàng Xuân Hãn toàn tập tập II, tr. 1052.]

Lời bàn của Nguyễn Thiếp rất hợp ý với vua Quang Trung. Lo việc tuyển quân mười ngày ở Nghệ An và Thanh Hoa (sau nầy là Thanh Hóa), vua Quang Trung lại tiếp tục dẫn quân ra đi ngày mồng 10 tháng chạp (5-1-1789). Ngày 20 tháng chạp (15-1-1789), nhà vua đến Tam Điệp.

Nơi đây, lực lượng Tây Sơn ở Bắc hà do đại tư mã Ngô Văn Sở chỉ huy đang đợi nhà vua. Nghỉ ngơi tại Tam Điệp thêm mười ngày, vua Quang Trung mở cuộc tấn công ào ạt gấp rút trong tối 30 Tết, liên tiếp trong năm ngày sau đó để thanh toán chiến trường, chứng tỏ vua Quang Trung đã được tin tình báo từ Thăng Long cho biết cáo thị của quân Thanh về việc động binh xuất hành năm mới vào ngày mồng 6 Tết. 

Hồng Phúc: Anh nói sao? Quân Thanh cáo thị cho biết sẽ xuất quân mồng 6 Tết à?

Trần Gia Phụng: Vâng thưa anh, Tôn Sĩ Nghị công khai cáo thị tại Thăng Long mời dân chúng đến xem quân Thanh sẽ ra quân tiêu diệt lực lượng Tây Sơn bắt đầu vào mồng 6 Tết Kỷ Dậu. (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc Kỳ, Sử Địa số 9-10, tt. 223-224.) Kể cũng lạ. Hành quân mà còn xem bói, coi quẻ ngày tốt xấu, như người ta làm lễ động thổ, rồi báo cho dân chúng biết.

4.- Hồng Phúc (câu hỏi 4): Thưa anh Phụng. Tôi được biết trong chiến thắng Kỷ Dậu, vua Quang Trung đã phối hợp giữa tượng binh và pháo binh. Đây là một lối đánh khá mới lạ vào thời đó Anh vui lòng trình bày rõ hơn về chiến thuật nầy và cho biết hiệu quả nó ra sao?

Trần Gia Phụng (trả lời câu hỏi 4): Vâng, thưa anh Hồng Phúc, thưa quý thính giả. Trong trân đánh đuổi quân Thanh năm Kỷ Dậu, vua Quang Trung đã phối hợp tượng binh và pháo binh để công thành. Đây là một chiến thuật mới lạ vào thời đó và là một chiến thuật bất ngờ với quân Thanh.

Chúng ta biết được chiến thuật phối hợp giữa tượng binh (quân voi) và pháo binh của vua Quang Trung là do chính tài liệu của sử gia nhà Thanh là Ngụy Nguyên viết ra năm 1842 trong sách tựa đề là Thánh vũ ký, kể về những chiến trận thời vua Càn Long. Trong sách nầy, quyển thứ sáu, có chương “Càn Long chinh vũ An Nam ký” (Bài ghi việc đánh dẹp An Nam đời Càn Long), có đoạn ghi về trận Ngọc Hồi được Hoàng Xuân Hãn dịch ra như sau: “Đang đêm thình lình có tin báo rằng quân Nguyễn tới đông. Bấy giờ mới thảng thốt ngăn địch. Giặc đều chở đại bác bằng voi mà xông trận. Quân ta ít chống nhiều, không địch nổi. Trong đêm tối, tự dày xéo lẫn nhau.” (Hoàng Xuân Hãn toàn tập tập II, tr. 1344.)

Tác giả Ngụy Nguyên không viết nhiều và không đi sâu vào chiến thuật phối hợp tượng binh và pháo binh của nhà Tây Sơn vì Ngụy Nguyên là một người viết sử của nhà Thanh, nên ông không muốn đề cao chiến thắng của quân Đại Việt. 

Không có tài liệu nào đặc biệt về võ khí của quân Thanh. Trong “Tám điều quân luật” trước khi quân Thanh lên đường viễn chính, Tôn Sĩ Nghị tự tin súng ống của quân Thanh hơn hẳn súng “phun lửa” của quân Tây Sơn (điều thứ 5), nhưng họ Tôn tỏ ra rất sợ tượng binh (voi trận) của quân Tây Sơn. Điều nầy chứng tỏ ông ta có nghiên cứu về quân đội Tây Sơn. Ông đã dạy cho lính Thanh cách đối phó với tượng trận (điều thứ 4). (HLNTC, tập 2, tr. 148-150.)

Quân Thanh có đoàn kỵ binh thiện chiến nhưng không có tượng binh vì không thể đưa voi trận từ Trung Hoa qua Đại Việt. Đội tượng binh ở Thăng Long của vua Lê và chúa Trịnh đã bị Nguyễn Huệ đưa về nam sau cuộc bắc tiến lần thứ nhất năm 1786. (Gabriel Devéria, Histoire des relations de la Chine avec l'Annam-ViệtNam, Paris: Ernest Lebroux, Éditeur, Librairie de la Société Asiatique de l'École des Langues Orientales Vivantes, 1880, tr. 17)

Về phần lực lượng Tây Sơn, theo sách Lê quý dật sử, đội tượng binh Tây Sơn được đem từ Thuận Hóa ra Thăng Long. Lương thực hàng tháng của các thớt voi tùy theo trọng lượng từng thớt voi lớn nhỏ. (Lê quý dật sử [chữ Nho], khuyết danh, Phạm Văn Thắm dịch, Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội, 1987, tr. 87, 96.) Các khẩu đại bác đã được di chuyển theo quân đội Tây Sơn cũng từ Thuận Hóa, vì tại đây Nguyễn Hoàng đã lập đội pháo binh mạnh me, đã từng đem ra Thăng Long giúp vua Lê dẹp loạn năm 1593. (Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội, 1998, bản dịch. tập 3, tr. 185.) Sau đó các chúa Nguyễn đã tổ chức lò đúc súng tại Phường Đúc, làng Dương Xuân Thượng, Phú Xuân (Huế ngày nay).

5.- Hồng Phúc (câu hỏi 5): Vào thời đó, có nước nào biết phối hợp tượng binh và pháo binh chưa anh Phụng?

Trần Gia Phụng (trả lời câu hỏi 5): Thưa anh Hồng Phúc, thưa quý thính giả, việc phối hợp tượng binh và pháo binh đã có từ nhiều thế kỷ trước ở Miến Điện, hay ở Thái Lan. Quân đội hai nước nầy đã dùng voi chở đại bác ra chiến trường. Điều nầy chúng ta dễ thấy trong các sách về voi trên thế giới, hay voi ở Miến Điện hay ở Thái Lan.

Một câu hỏi đặt ra mà cho đến nay tôi vẫn chưa tìm ra được câu trả lời là vua Quang Trung học được chiến thuật nầy khi nào, và từ đâu. Trong sự nghiệp quân sự của vua Quang Trung, đây là lần đầu tiên nhà vua phối hợp giữa tượng binh và pháo binh. Trong cuộc nội chiến với người anh là Nguyễn Nhạc sau khi ra bắc trở về năm 1787, Nguyễn Huệ đã đặt đại bác trên các mô đất cao ngoài Hoàng đế thành, tức thành Quy Nhơn, bắn vào khiến Thái Đức Đế Nguyễn Nhạc lung túng, chịu nhượng bộ. Như thế là lúc đó, Nguyễn Huệ chưa đặt đại bác lên lưng voi mà đặt đại bác trên các mô đất để tấn công. Vua Quang Trung chỉ sử dụng đại bác trên lưng voi lần đầu trong trận đánh vào đầu năm 1789.

Ngoài ra, vua Quang Trung học chiến thuật nầy từ ai, thì hoàn toàn không thể biết được. Phải chăng từ người Xiêm (tức người Thái) trong trận đánh Rạch Gầm - Xoài Mút gần Mỹ Tho (Định Tường) năm 1784? [Nước Xiêm chính thức đổi thành quốc hiệu Thailand tức Thái Lan năm 1939.] Hay là vua Quang Trung học được từ những người Âu Châu mà nhà vua đã từng liên lạc ngoại giao? Cũng hoàn toàn không có tài liệu gì về việc nầy.

6.- Hồng Phúc (câu hỏi 6): Chúng tôi còn nghe Vua Quang Trung có sáng kiến làm những lá chắn bằng gỗ và rơm để che chắn cho binh sĩ khi xông trận. Mời anh trình bầy lại việc này.

Trần Gia Phụng (trả lời câu hỏi 6): Vâng thưa anh Phúc, chuyện đó là chuyện thật, nhưng có hai cách giải thích khác nhau. Theo Hoàng Lê nhất thống chí, khi tấn công đồn Ngọc Hồi sáng mồng 5 Tết, vua Quang Trung cho lấy 60 tấm ván, ghép ba tấm thành một bức lớn, bện rơm (ngọn cây lúa bị cắt khi gặt) thấm nước bao bọc ở ngoài, 10 người khiêng một bức, tất cả có 20 bức đi trước. (HLNTC, bản dịch tập 2, sđd. tr. 183.) Tiếp theo mỗi bức ván lớn làm mộc che là 20 quân sĩ mang đầy đủ võ khí, dàn hàng ngang tiến tới để xâm nhập vào thành đánh cận chiến.

Tuy nhiên, theo tài liệu của Trung Hoa, vua Quang Trung không dùng ván, mà dùng rạ (thân cây lúa còn lại sau khi gặt), bó thành bó tròn lớn làm mộc, lăn chạy trước, theo sau là khinh binh tấn công rất dũng mãnh. (Cao Tông thực lục, bản dịch đã dẫn, tr. 144,)

Giữa hai cách giải thích trên đây thì cá nhân tôi tin ở Hoàng Lê nhất thống chí, vì sách nầy do người trong gia đình Ngô gia văn phái viết lại, tức người trong gia đình của Ngô Thời Nhiệm tường thuật. Ngô Thời Nhiệm là người tham mưu cho vua Quang Trung và đã tham dự trực tiếp cuộc chiến nầy. Hơn nữa, rơm dễ kiếm hơn rạ, và tấm ván mới đủ cứng cáp làm thành cái khiên để che chắn cho binh sĩ tiến lên.

7.- Hồng Phúc (câu hỏi 7) Và bây giờ thì mời anh cho nghe toàn bộ cuộc hành quân này của Vua Quang Trung từ Phú Xuân ra Bắc diễn tiến ra sao?

Trần Gia Phụng (trả lời câu hỏi 7): Thưa anh Hồng Phúc, thưa quý thính giả, tôi xin chia thành ba phần để trả lời, đó là: 1) Lực lượng quân Tây Sơn. 2) Kế hoạch hành quân.3) Diễn tiến trận đánh.

1) Về lực lượng quân Tây Sơn: Khi vua Quang Trung kéo quân ra đi sau lễ đăng quang ngày 25 tháng 11 năm mậu thân (22-12-1788), thì lực lượng không được rõ. Ông đến Nghệ An ngày 29 tháng 11 (26-12-1788). Nhà vua dừng quân tại đây để tuyển thêm tân binh ở vùng Thanh Hoa, Nghệ An và sắp đặt lại đội ngũ. Trong cuộc tuyển binh cấp tốc nầy, cứ ba suất đinh lấy một người. Theo Hoàng Lê nhất thống chí thì “... chưa mấy lúc, đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ.”(HLNTC, bản dịch tập 2, sđd. tr. 179.). Theo Cương mục, bộ sử của Quốc sử quán triều Nguyễn, thì “khi qua Nghệ An và Thanh Hoa, [Quang Trung] lấy thêm quân lính đến 8 vạn người...” (Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Hà Nội: bản dịch tập 2 của Viện Sử học, Nxb. Giáo Dục, 1998. tr. 845.) Theo một bộ sử khác, cũng của nhà Nguyễn, tổng cộng số lính trước sau khoảng hơn mười vạn quân (100.000) và mấy trăm con voi chiến. (Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện, Huế: bản dịch tập 2 của Nxb. Thuận Hóa, 1993, tr. 517.)

Các số liệu nầy có thể đã được thổi phồng đôi chút, nhưng ở mức độ nào thì cũng không có cơ sở để xác minh. Cần chú ý là lúc đó dân số vùng từ Quảng Nam ra Thanh Hoa trong vùng cai trị của vua Quang Trung khoảng gần một triệu người (và riêng Bắc hà khoảng năm triệu rưỡi người). (Li Tana, Nguyễn Cochinchina, Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries, New York: Cornell University, 1998, tr. 159.)

Vua Quang Trung chia quân làm hai hạng: hạng thiện chiến gồm lính Thuận Quảng đã được huấn luyện lâu ngày và nhiều trận mạc; hạng tân tuyển gồm tân binh Thanh Nghệ. Quân Thuận Quảng chia làm 4 doanh: tiền, hậu, tả, hữu, và dùng quân Thanh Nghệ làm trung quân.

Về võ khí và sắc phục quân Tây Sơn được một tác giả đồng thời với sự kiện mô tả lại trong Lê quý dật sử như sau: “Tây Sơn cho quân mặc áo màu, phần nhiều là màu đỏ tía, trên đỉnh nón mũ đính lông chiên đỏ, lại thường mặc áo gấm màu. Binh khí của họ thường dùng hỏa tiễn hỏa sào buộc trên đầu ngọn giáo, gọi là hỏa hổ [tức súng phun lửa]...” (Lê quý dật sử, bản dịch đã dẫn, tr. 77.) Điểm đặc biệt của quân đội Tây Sơn, được sách Thánh vũ ký của Ngụy Nguyên (Trung Hoa) ghi lại là “đại bác chở bằng voi mà xông vào trận”. (đã nói ở trên) 

Trong chiến công năm 1789, có một điểm không thể thiếu sót là ngành tình báo chiến lược. Sau khi rút lui khỏi Thăng Long, đại tư mã Ngô Văn Sở để lại nhiều điệp viên theo dõi tình hình tiến quân của lực lượng Tôn Sĩ Nghị và báo cáo đầy đủ lại cho các chủ tướng Tây Sơn. Trong khi đó, ngược lại, quân Thanh không có đường dây tình báo, nên có thể nói là ít hiểu biết về quân đội Tây Sơn, cũng như không nắm vững các cuộc chuyển quân của lực lượng vua Quang Trung. Chẳng những thế, quân Thanh lại còn kiêu căng, xem thường sức mạnh đối phương.

2) Về kế hoạch hành quân: Ngay sau lễ đăng quang và duyệt binh ngày 25 tháng 11 năm mậu thân (22-12-1788), nhà vua tức tốc dẫn quân bắc tiến. Di chuyển trong bốn ngày, Tây Sơn dừng quân tại Nghệ An ngày 29 tháng 11 (âm lịch). Lo việc tuyển quân mười ngày ở Nghệ An và Thanh Hoa, vua Quang Trung lại tiếp tục dẫn quân ra đi ngày mồng 10 tháng chạp (5-1-1789). Ngày 20 tháng chạp (15-1-1789), nhà vua đến Tam Điệp. 

Nơi đây, lực lượng Tây Sơn ở Bắc hà do đại tư mã Ngô Văn Sở chỉ huy đang đợi nhà vua. Nghỉ ngơi tại Tam Điệp cũng mười ngày, được tin tình báo cho biết quân Thanh sẽ xuất hành năm mới vào ngày mồng 6 Tết, nên vua Quang Trung mở tiệc khao quân tại Tam Điệp ngày 30 tháng chạp (25-1-1789), tuyên bố ăn Tết trước khi lên đường, hẹn ngày mồng 7 năm mới, sẽ vào thành Thăng Long mở tiệc mừng chiến thắng. (HLNTC sđd. tr. 182.)

3) Diễn tiến các trận đánh: Có thể ngắn gọn như sau:

a) Trận Sơn Nam: Tối hôm đó (30 Tết), quân Tây Sơn vượt sông Giản ở Ninh Bình. Đến Sơn Nam, trấn thủ Hoàng Phùng Nghĩa (có sách chép Lê Phùng Nghĩa), tướng của vua Lê Chiêu Thống, bỏ chạy. Các toán thám tử của quân Thanh đều bị quân Tây Sơn chận bắt giết sạch. (Cao Tông thực lục, tr. 143.) Vì vậy, tin tức trận Sơn Nam không lọt về Thăng Long.

b) Trận Hà Hồi: Vua Quang Trung thúc quân tiếp đến Hà Đông. Đêm mồng 3 Tết Kỷ Dậu (28-1-1789), nhà vua cho quân vây kín đồn Hà Hồi (Hà Đông), rồi ra lệnh các tướng đặt loa hô lớn; quân sĩ đồng thanh đáp ứng vang trời. Quân trong thành nghe lớn tiếng, sợ hãi xin hàng. 

c) Trận Ngọc Hồi: Sau Hà Hồi, lực lượng Tây Sơn tiến đến Ngọc Hồi (huyện Thanh Trì) sáng sớm mồng 5 Tết (30-1-1789). Đây là phòng tuyến chính của quân Thanh để bảo vệ Thăng Long. Vua Quang Trung biết quân Thanh phòng thủ ở đây khá kiên cố, trên thành có đại bác và chung quanh thành có địa lôi (mìn = landmine) bảo vệ. 

Nhà vua sắp đặt cách tấn công như sau: Đi đầu là tượng binh gồm 100 thớt voi to khỏe (theo Cao Tông thực lục), trong đó có một số voi trang bị súng thần công (theo Thánh vũ ký), vừa bộ chiến tấn công, vừa phá thế trận địa lôi bao quanh thành Ngọc Hồi, vừa dùng thần công trực xạ phá thành. Sau tượng binh là toán cảm tử xung phong. Nhà vua cho dùng những tấm ván làm mộc che chắn, để quân sĩ mang đầy đủ võ khí, dàn hàng ngang tiến tới. 

Cuộc tấn công đồn Ngọc Hồi khai diễn sáng sớm mồng 5 Tết Kỷ Dậu (30-1-1789). Trong thành, quân Thanh bắn súng ra dữ dội, nhưng quân Tây Sơn nhất quyết thúc voi tiến tới, dùng súng đại bác đặt trên lưng voi, phía đuôi voi, bắn trực xạ, phá hủy thành. Kỵ binh của quân Thanh tiến ra khỏi thành gặp tượng binh của Tây Sơn, liền hoảng sợ bỏ chạy. Thành bị phá, quân Tây Sơn tràn vào thành đánh cận chiến. Quân Tây Sơn giỏi võ, rất thiện nghệ về cận chiến, chia quân Thanh thành từng toán nhỏ, rồi tiêu diệt. Quân Thanh chết rất nhiều. Số quân Thanh bỏ chạy bị chính địa lôi của họ nổ làm cho thiệt mạng. 

Dưới đây là hình ảnh vua Quang Trung trong trận chiến Ngọc Hồi ngày mồng 5 tháng giêng năm kỷ dậu do một người Tây phương lúc đó chạy loạn vì chiến cuộc, chứng kiến và kể lại. 

“Ngày 30-1 [mồng 5 tháng giêng âm lịch], Quang Trung rời Kẻ Vôi [Hà Hồi] trên lưng voi và đến chung sức, khuyến khích đội ngũ ông, nhưng khi thấy họ chiến đấu không hăng hái lắm, ông liền bỏ voi và dùng ngựa. Theo lời đồn, ông đeo hai cái đoản đao (gươm) và chạy ngang dọc chém rơi đầu nhiều sĩ quan và binh lính Trung Hoa làm rất nhiều người chết về tay ông. Ông luôn mồm hô xung phong và lúc nào cũng ở trận tuyến đầu.” (Đặng Phương Nghi dịch, Nhật ký của Giáo hội Thiên chúa giáo Bắc kỳ tập san Sử Điạ số 9-10, tr. 224.)

Sau khi hạ đồn Ngọc Hồi, quân Tây Sơn tiếp đánh các đồn quân Thanh ở Văn Điển (Thanh Trì, Thường Tín, Hà Đông), Yên Quyết (ngoại thành Hà Nội). Quân Thanh thiệt hại nặng, đề đốc Hứa Thế Hanh, tổng binh Trương Triều Long, Thượng Duy Thanh đều tử trận.

Ngoài ra, một cánh quân Tây Sơn khác đến vây Sầm Nghi Đống tại Loa Sơn (gò Đống Đa) ở Khương Thượng (ngoại ô Thăng Long). Sau một hồi chống cự quyết liệt, thế quân Thanh yếu dần, lại không được tiếp ứng; Sầm Nghi Đống biết không có cách gì thoát thân, liền thắt cổ tự tử trên cây đa. Binh sĩ dưới quyền Sầm Nghi Đống đều tử trận. (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, Đặng Phương Nghi dịch, Sử Địa 9-10, tr. 225.)

Trong khi đó, được tin đồn Ngọc Hồi thất thủ sáng mồng 5 Tết Kỷ Dậu, Tôn Sĩ Nghị sai lãnh binh Quảng Tây là Thang Hùng Nghiệp cùng Phan Khải Đức (người Việt, trấn thủ Lạng Sơn đầu hàng quân Thanh) đi quan sát tình hình. 

Liền trưa hôm đó tức trưa mồng 5 Tết, quân Tây Sơn xuất hiện tại Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị không kịp mặc giáp và thắng yên cương, đã vội lên ngựa bỏ trốn cùng vài kỵ binh, bỏ lại lại ấn quân, sắc thư, cờ tiết...(Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Sài Gòn, Nxb. Tân Việt, in lần thứ 7, tt. 374-375.) 

Sau khi qua khỏi cầu nổi Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị ra lệnh chặt đứt cầu nổi. (Cao Tông thực lục, bản dịch. tr. 145.), chận đường qua sông. Đây là lời người Thanh tự thú, còn tài liệu Việt Nam thì cho rằng cầu phao bị gãy. Số người chết đuối trên song Hồng nhiều không thể đếm hết được. 

Lê Chiêu Thống, lúc bấy giờ có mặt trong doanh trại Tôn Sĩ Nghị, liền chạy theo họ Tôn, chỉ kịp sai người về cung, hộ vệ thái hậu cùng hoàng tử vượt sông. Em vua là Lê Duy Chỉ đưa hoàng phi và cung tần đến bến sông thì cầu đã bị chặt đứt, không qua sông được, phải bỏ trốn về hướng tây.

Đề đốc nhà Thanh là Ô Đại Kinh đóng bản doanh ở Phú Thọ (lúc đó thuộc Sơn Tây), được tin Tôn Sĩ Nghị thất trận, nhờ một cựu quan nhà Lê tên là Hoàng Văn Thông hướng dẫn, rút lui trở về lại Vân Nam.

8.- Hồng Phúc (câu hỏi 8): Còn kết quả trận đánh thì thế nào anh Phụng?

Trần Gia Phụng (trả lời câu hỏi 8): Theo Thánh vũ ký, Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy về hướng Kinh Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang). Khi chạy về tới Trấn-nam quan [ải Nam Quan], Tôn Sĩ Nghị “bỏ hết ngoài cửa quan lương thực, khí giới thuốc súng vài mươi vạn (cân). Quân ta [Thanh] và ngựa trở về không đầy một nửa.” (Thánh vũ ký trong Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập 2, sđd. tr. 1344.) Đó là sự ghi nhận của sử liệu Trung Hoa. Chắc chắn số được trở về nầy có thể thấp hơn, nhưng Thánh vũ ký nâng cao lên đôi chút vì thể diện của nhà Thanh. 

Như thế, nếu cánh quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị lãnh đạo đi vào từ biên giới Cao Bằng - Lạng Sơn thấp nhất khoảng 10,000 cùng 10,000 trợ thủ theo sử liệu Trung Hoa, và quân Thanh trở về không đầy một nửa, thì người Thanh (quân và phu) thiệt hại tối thiểu khoảng 10,000 người kể cả một số tướng lãnh nổi tiếng là Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thanh, Sầm Nghi Đống. Đây là theo số iệu của tài liệu nhà Thanh.

Theo ghi nhận trong Nhật ký của Giáo hội Thiên chúa giáo Bắc kỳ về những sự kiện đáng ghi nhớ xảy ra trong địa phận giáo hội từ tháng 10-1788 đến tháng 7-1789, thì riêng trận Ngọc Hồi - Thăng Long, quân Thanh chết khoảng 10,000 người, trong đó ít nhất một phần ba bị chết đuối vì chen nhau qua cầu khi bỏ chạy và sau đó cầu bị chặt gãy. (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ..., Đặng Phương Nghi dịch, Sử Địa 9-10, tr. 224.) Số liệu nầy trùng hợp với số liệu của Ngụy Nguyên, người nhà Thanh, trong sách Thánh vũ ký. (trong Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập 2, sđd. tr. 1344.) Ngoài ra, tại Đống Đa, quân Thanh tử trận khoảng 1,000 người. (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, bđd. tr. 225.)

Trong số quân Thanh mất tích hay tử trận, có một số đã bỏ trốn, trong đó khoảng 800 người ra trình diện với Tây Sơn hay bị quân Tây Sơn bắt, và về sau được vua Quang Trung ra lệnh trả về Trung Hoa. (Theo thư của vua Quang Trung do Hô Hổ Hầu đem sang nhà Thanh, ĐNCBLT, bd. tập 2, tr. 521.)

Về phía Đại Việt, không có sử liệu Việt nào viết về sự thiệt lại của lực lượng Tây Sơn. Cũng theo Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, thì lực lượng Tây Sơn thiệt mất khoảng 8,000 quân trong trận Ngọc Hồi -Thăng Long, trong đó có một vị chỉ huy cao cấp là Đô đốc Lân (nhưng không phải nội hầu Phan Văn Lân) mà vua Quang Trung rất thương tiếc. Nhà vua đã cử hành tang lễ vị đô đốc nầy rất trọng thể trong khi cuộc chiến còn tiếp diễn.

9.- Hồng Phúc (câu hỏi 9): Thưa anh Phụng, theo quan điểm của một người viết sử, cuộc đại thắng này đã đem lại cho dân tộc Việt chúng ta những gì?

Trần Gia Phụng (trả lời câu hỏi 9): Thưa anh Hồng Phúc, thưa quý thính giả, bất cứ một sự kiện lịch sử nào cũng đều để lại cho hậu thế một bài học, huống gì là chiến công lẫy lừng năm Kỷ Dậu 1789.

Xin hãy nói về bài học tích cực tức bài học tốt trước. Đầu tiên phải ghi nhận đây là một chiến công lẫy lừng trong lịch sử. Và xin chú ý đây không phải chỉ là chiến thắng của vua Quang Trung trước Tôn Sĩ Nghị mà là chiến thắng của dân tộc Việt Nam đối với quân xâm lược Trung Hoa. Vua Quang Trung là người lãnh đạo tài ba, đã biết huy động tổng lực dân tộc để chống ngoại xâm Tôi nhấn mạnh là tổng lực dân tộc vì ngay cả những cựu thần nhà Lê cũng hợp tác với vua Quang Trung chống quân Thanh, từ Nguyễn Thiếp, đến Ngô Thời Nhậm, và các quan chức khác của nhà Lê ít nổi tiếng hơn. Ngay cả tin tức tình báo cũng phải nhờ dân chúng mách bảo, vua Quang Trung mới có thể định ngày tấn công quân Thanh.

Thứ hai là những nhà lãnh đạo Tây Sơn, từ vua Quang Trung đến các tướng lãnh đều sống chết với quân đội, cùng chiến đấu và cùng chiến thắng. Phải ghi nhận rõ, thật rõ, là vua Quang Trung và lãnh đạo Tây Sơn đã thực hiện đúng tinh thần binh thư của Trần Hưng Đạo xưa kia, trên dưới một lòng đánh giặc và thắng giặc.

Bài học tiêu cực là bà thái hậu, mẹ của vua Lê Chiêu Thống, đã qua Trung Hoa cầu viện. Nhà Thanh lợi dụng cơ hội, đem quân xâm lăng Đại Việt. Sau đó, triều đình vua Lê Chiêu Thống lại hợp tác với Tôn Sĩ Nghị để tái lập vương quyền nhà Lê, vốn đã bất lực. May mà nhở vua Quang Trung và quân dân Đại Việt đã chiến thắng vẻ vang năm 1789, đánh đuổi quân xâm lược. Nếu không, người Việt đã bị quân Thanh đô hộ thêm một lần nữa.

Bây giờ, chúng ta hãy đối chiếu với tình hình Việt Nam hiện tại. Nếu năm 1788, bà thái hậu nhà Lê qua Trung Hoa cầu viện nhà Thanh, thì năm 1950, Hồ Chí Minh cũng qua Trung Hoa cầu viện đảng Cộng Sản Trung Hoa chống Pháp. Không biết ngày xưa, bà thái hậu đã nói những gì để rước quân Thanh. Còn ngày nay, khi qua Trung Hoa cầu viện, việc đầu tiên là Hồ Chí Minh đã phải làm kiểm điểm trước Lưu Thiếu Kỳ, xử lý thường vụ đảng CSTH vì lúc đó Mao Trạch Đông qua Liên Xô chúc mừng sinh nhật thứ 70 của Stalin. Tức là HCM khấu đầu cầu xin quan thầy Trung Cộng giúp đỡ.

Việc Hồ Chí Minh làm kiểm điểm không phải do tài liệu “Mỹ ngụy” bịa đặt ra để bôi lọ Hồ Chí Minh đâu nghe anh Hồng Phúc, mà do Trần Đĩnh, một người trong vòng thân cận với Hồ Chí Minh, đã được một tờ báo ở Nam Cali quảng cáo là người đã “từng viết tiểu sử Hồ Chí Minh”, gần đây viết ra. Trần Đĩnh nói rõ rằng Hồ Chí Minh đã “kiểm thảo, trình bày các cái ta chủ trương và làm, Lưu Thiếu Kỳ nhận xét...chính sách tiêu thổ kháng chiến toàn bàn của Việt Nam là không cần thiết và lãng phí...” (Trần Đĩnh, Đèn cù, California: Người Việt Books, 2014, tr. 49.)

Đường đường là chủ tịch một nước, mà lại khấu đầu làm kiểm điểm trước một người vốn thuộc loại kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt. Thật là nhục hết chỗ nói. Trong lịch sử, chưa có một ông vua nào qua Tàu, rồi khấu đầu làm kiểm điểm trước một lãnh đạo Tàu cả. Thế mà nay Hồ Chí Minh, cam tâm làm việc bẩn thỉu nầy.

Kinh nghiệm lịch sử cho thấy quân Trung Hoa qua cứu viện thì lợi dụng cơ hội ở lại luôn Đại Việt. Ngày nay, Trung Cộng cũng vậy, qua giúp CSVN, rồi cài luôn người trong bộ máy của đảng CSVN, dần dần, đưa Việt Nam vào quỹ đạo Trung Cộng và làm tay sai cho Trung Cộng. Thực dân Pháp đàn áp bóc lột, nhưng không ở luôn Việt Nam. Trái lại, Tàu cộng qua Việt Nam là kiếm cách ở luôn tại nước ta. Vì vậy, cầu viện Trung Cộng chống Pháp là một sai lầm nghiêm trọng, nều không muốn nói là ngu xuẩn. Hậu quả việc cầu viện của Hồ Chí Minh di căn cho đến ngày nay, và dân tộc Việt phải gánh lấy khổ nạn nầy.

Ngoài ra, người Việt Nam và quân đội Việt Nam vốn có truyền thống chống xâm lăng. Thế mà ngày nay, từ nhà nước CSVN đến quân đội nhân dân CSVN, tự sướng là đã chiến thắng hai đế quốc sừng sỏ Pháp và Mỹ, mà lại im khe, nhục nhã nhìn đất nước đang bị bọn xâm lược Trung Cộng dày xéo, chiếm đảo, chiếm biển, chiếm ải, chiếm đất …

Nói nữa cũng thêm buồn. Trở lại với chiến công năm 1789, tôi xin thưa với anh Hồng Phúc và quý thính giả nghe đài, chiến công năm 1789 cho thấy dân tộc Việt Nam đủ sức đề kháng chống quân xâm lược Bắc phương nếu nhà cầm quyền Việt Nam quyết tâm và biết cách vận động tổng lực của toàn dân chiến đấu chống xâm lược.

Thưa anh Hồng Phúc, thưa quý thính giả nghe đài, mở đầu câu chuyện hôm nay, tôi đã kể hầu quý vị nghe một chuyện có thật về con gà. Bây giờ, để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay, tôi xin kể hầu quý vị nghe một chuyện cổ tích ngoại quốc về con gà. Chuyện kể rằng có một đám cháy rừng xảy ra. Một con gà thấy thế, chạy ra cái ao gần đó, ngậm từng ngụm nước chạy đến phun để chữa cháy, hết ngụm nầy đến ngụm khác. Có kẻ bảo con gà điên, vác đá ném trời. Con gà trả lời: "Tôi biết tôi chẳng chữa được đám cháy, nhưng không lẽ tôi đứng nhìn đồng loại bị thiêu trong đám cháy, mà không làm gì. Tôi cố gắng hết sức mình, được chừng nào thì được.” 

Vâng, nhân dịp năm mới, năm con gà Đinh dậu, chúng ta hãy làm những công việc dù nhỏ nhoi như con gà cổ tích kia, nhưng thiết thực tiếp tay với phong trào tranh đấu đòi hỏi dân chủ ở trong nước, góp phần được chừng nào hay chừng ấy ủng hộ đồng bào quốc nội, nhằm giải thể chế độ CSVN. Chẳng những đàn áp dân chủ, CSVN đang càng ngày càng lệ thuộc Trung Cộng. Không lẽ chúng ta vô cảm làm ngơ, ngồi nhìn đất nước suy vong. Tôi tin rằng nếu chúng ta cùng nhau hợp lực, thì chúng ta sẽ làm được nhiều việc hơn con gà cổ tích. Điều chắc chắn là chúng ta sẽ làm giảm tuổi thọ của CSVN, sớm giải thể chế độ độc tài đảng trị, và chống lại hiểm họa Trung Cộng xâm lăng, để tương lai dân tộc chúng ta sớm được tươi sáng hơn.

Xin cảm ơn anh Hồng Phúc đã phỏng vấn, xin cảm ơn quý vị thính giả đã theo dõi. Xin kính chào và kính chúc toàn thể quý vị một NĂM MỚI AN VUI.

(Toronto, 26-01-2017)

Trần Gia Phụng

Chương trình: Thế Giới Ngày Nay
Đài Phát Thanh Việt Nam
Oaklahoma City
Hồng Phúc phỏng vấn ngày 26-01-2017
Phát thanh ngày 28-01-2017

0 comments:

Post a Comment

Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!

.

.