Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa

Friday 30 October 2015

Dân Muốn Biết : DƯƠNG VĂN MINH,TÊN VC NỘI TUYẾN, TỘI ĐỒ CỦA DÂN TỘC.

Đại sứ Cabot Lodge và ông Diệm - Tướng Dương Văn Minh - Bác sĩ Trần Kim Tuyến 
Đại sứ Cabot Lodge và ông Diệm – Tướng Dương Văn Minh – Bác sĩ Trần Kim Tuy
 
DƯƠNG VĂN MINH, TÊN VC NỘI TUYẾN, TỘI ĐỒ CỦA DÂN TỘC.

" BAO GIÀN chính phủ BÀN GIAO giặc.
TƯỚNG GIAN nội tuyến, TÁN DƯƠNG lầm".

    Nhân vật Dương Văn Minh, được coi là có quan hệ vô cùng mật thiết đến vận mệnh lịch sử, nhất là những việc làm của hắn ta, có tác động đến sự suy vong, tang tóc của nước Việt Nam qua hai cuộc biến động lịch sử miền nam tự do trước 1975. 

    Là một tướng lãnh hàng đầu trong quân lực VNCH, chỉ đứng sau cố thống tướng Lê Văn Tỵ, tuy nhiên đại tướng Dương Văn Minh là kẻ gây ra hai cuộc biến động lịch sử, tác động sâu xa, hệ quả đến  ngày nay là: cuộc đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963 và ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Dương Văn Minh, cùng với chuẩn tướng" nội tuyến" Nguyễn Hữu Hạnh, bàn giao toàn miền nam cho giặc Cộng, đưa đất nước vào xiềng xích thống trị của bầy súc vật Việt Cộng. 

    Trong thời gian miền nam tự do trước năm 1975, hình ảnh đại tướng Dương Văn Minh được một số người lầm lẫn là người theo Phật Giáo, có lòng nhân từ, hiền đức… dù là theo khối Ấn Quang, trong thời kỳ thượng tọa Thích Trí Quang được nhiều Phật tử tôn vinh như là" thánh tăng", ở Huế gọi là Ôn, thay gì ông, bình thường. 

    Đại tướng Dương Văn Minh gây ra nhiều tội ác đối với dân tộc và đóng góp tích cực cho súc vật Việt Cộng, đưa đến sự sụp đổ miền nam từ đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963 đến 30 tháng 4 năm 1975; tội ác của Dương Văn Minh, cộng với Nguyễn Văn Thiệu quá lớn, mỗi tên mỗi cách, gây ra cái chết của rất nhiều người, nhưng từ lâu, bình phong sĩ quan cấp tướng của hai người khỏa lấp tội ác, nhưng họ khó có thể che đây được lâu, khi mà:" những lừa thầy phản bạn, thường hay giả dạng kẻ nhân từ" đã bị phanh phui theo dòng thời gian.

" Nguyễn Văn Thiệu, máu xương di tản.
Dương Văn Minh, tội ác bàn giao".

    Sau khi làm những việc thầm kín, móc nối với Việt Cộng qua hai biến động lịch sử 1 tháng 11 năm 1963 và 30 tháng 4 năm 1975, chính Dương Văn Minh và một số thuộc cấp thân tính, biện minh là:" chuyện đầu hàng vô điều kiện với Việt Cộng chỉ nhằm để tránh đổ máu cho dân chúng". Nhưng thực ra, nếu Việt Cộng với các sư đoàn chánh qui bắc việt và du kích miền nam tràn vào, thì bài học trận tổng công kích tết Mậu Thân 1968 tái diễn, chính Việt Cộng mới bị đổ máu nhiều và tình hình có khả năng đảo ngược do: quân lực VNCH có nhiều kinh nghiệm, dân chúng biết quá rõ Việt Cộng từ năm 1968, có thêm lực lượng nhân dân tự vệ ( có khả năng giữ xóm làng, phường xã..dù vũ khí thời đệ nhị thế chiến, cũng bắn chết địch), nếu khi chiến trận ác liệt diễn ra, thì quốc tế, các nước trong khối tự do nhìn thấy sự quyết tâm chiến đấu của quân dân miền Nam, họ sẽ không làm ngơ, nhất là về mặt nhân đạo là cảnh Việt Cộng tấn công vào khu đông dân cư, có lợi cho miền nam nhiều về mặt công luận quốc tế. 

     Những biện bạch, tung hỏa mù của tên tướng nội tuyến Dương Văn Minh và thuộc cấp thân tín, không thể nào thuyết phục dân chúng, nhất là quân nhân VNCH, nên chiến thuật chạy tội theo kiểu" chén úp đầu voi" để dấu con coi là không có tác dụng. 

    Bức màn lịch sử lần lượt được vén lên, dưới ánh mặt trời không có gì là bí mật, ngay cả những chuyện thuộc loại" thâm cung bí sử" cùng phơi bày sau thời gian dài dấu kín. Đại tướng Dương Văn Minh, tội đồ dân tộc, tên Việt Cộng nội tuyến vô cùng nguy hiểm, chính là một trong những thủ phạm đưa đến sự thất thủ miền nam, nhất tướng công thành vạn cốt khô và Dương Văn Minh là:" nhất tướng đầu hàng, triệu thác oan". 

     Sự đầu hàng, bàn giao miền nam ngày 30 tháng 4 năm 1975, là theo ý muốn của đảng súc vật Việt Cộng qua việc móc nối bí mật từ nhiều năm, đưa đến cái chết của hàng ngàn người bị hành quyết trong những ngày đầu tiên khi Việt Cộng tiếp thu, trả thù những chiến sĩ can trường trong cuộc chiến bảo vệ tổ quốc, hàng trăm ngàn quân nhân cán chính miền nam bị hành hạ trong các trại tù dã man, ngụy trang là" cải tạo", hàng triệu người bị lùa đi kinh tế mới, tài sản bị cướp hàng triệu người chết trên đường tìm tự do….nên con số người chết sau khi bị Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh bàn giao miền nam cho giặc Cộng, còn cao rất nhiêu so với con số người chết trong cuộc chiến của miền nam. Thà rằng tử chiến, một mất một còn, hơn là bị giặc Cộng cầm tù, hành hạ. 

    Đó là tội ác của tên phản quốc, Việt Cộng nội tuyến Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh đối với dân tộc, nhất là quân nhân cán chính miền nam. Những kẻ nầy không còn xứng đáng, tư cách đứng chung trong hàng ngũ quốc gia, chúng là những tên Việt Cộng nằm vùng vô cùng nguy hiểm hơn kẻ thù ngoài chiến trường. Nhất là chúng là tướng lãnh, quyền lực, tác hại khôn lường, nên trên thế giới nầy, không có một quân đội hùng mạnh nào tồn tại, nếu cấp chỉ huy là nội ứng cho giặc.

   Đại tướng Dương Văn Minh cũng là tổng thống" vi hiến" sau cùng nước Việt Nam Cộng Hòa, sinh năm 1916 ở tỉnh Mỹ Tho. Thân phụ là ông Dương Văn Huề, gốc Hoa, khi đi học, mượn tên của một người bà con là Dương Văn Mau, đầu tiên làm thầy giáo, sau làm tri phủ, rồi hàm đốc phủ sứ. 

     Ông Dương Văn Huề kết hôn với bà Nguyễn Thị kỷ, ăn ở nhau có 7 mặt con : 4 trai, 3 gái. Dương Văn Minh là con cả, kế là Dương Thanh Nhựt là người tham gia hoạt động cho Việt Minh Cộng Sản từ năm 1944, là một tên Cộng Sản nguy hiểm, thâm niên, có mặt trong cái gọi là:" đánh Tây giành độc lập và đánh Mỹ cứu nước", nên tên Dương Thanh Nhựt được đảng súc vật Việt Cộng phong quân hàm đại tá, đóng góp một phần rất lớn qua công tác móc nối, quan hệ mật thiết trong công tác binh vận với anh là Dương Văn Minh, trong thời gian là tướng lãnh miền Nam. Đứa em thứ 5 trong gia đình tên là Dương Thanh Sơn, là sĩ quân lực VNCH

      Năm 1940, Dương Văn Minh học trường đào tạo hạ sĩ quan và sau đó trở thành  sĩ quan dự bị của Pháp từ năm 1942. Năm 1946 mang cấp bậc thiếu úy, chức vụ đại đội phó, sau đó lần lượt thăng cấp tá, được gởi sang học trường Võ Bị Pháp. 

      Trong thời gian làm lớn, Dương Văn Minh đã từng giúp cho Việt Cộng nằm vùng thoát khỏi mạng lưới an ninh, điển hình như can thiệp cho người em trai của bà Bùi Thị Mè, là thiếu tá trong quân lực VNCH, đang bị tình nghi, điều tra có quan hệ hoạt động nội tuyến cho Việt Cộng. Do tàng lộng lớn từ tướng Dương Văn Minh, nên người đang bị điều tra thoát được, nhưng thực tế thì đây là đường dân gián điệp có quan hệ đến tên Nguyễn Minh Triết, tức là Bảy Trung.

     Trung tướng Dương Văn Minh là người cầm đầu cuộc đảo chánh phản loạn ngày 1 tháng 11  năm 1963, hạ sát tổng thống Ngô Đình Diệm và em trai là ông Ngô Đình Nhu, là hai đối tượng hàng đầu mà Việt Cộng cũng như súc vật Hồ Chí Minh muốn thanh toán, Dương Văn Minh lập công đầu và rất lớn đối với Việt Cộng. Rồi sau đó, những cuộc tranh quyền từ chỉnh lý Nguyễn Khánh đến chính phủ Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu, cuối cùng chính Dương Văn Minh lại nhảy ra để bàn giao miền nam cho giặc Cộng ngày 30.4.1975, được an toàn, bình an sống tại căn nhà ở số 98 Đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai. 

     Một tên nằm vùng nguy hiểm, lộ rõ bản chất vô liêm sĩ, phản bội đê hèn sau khi bàn giao đất nước cho Việt Cộng, muối mặt nhận" quyền công dân" của các gọi là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đoạn trân tráo tuyên bố trong lần bầu cử quốc hội bù nhìn đầu tên cả hai miền năm 1976:" lần đầu tiên trong đời, được cầm lá phiếu trong cuộc bầu cử dân chủ" (sic). 

    Trong khi đó, cụ Trần Văn Hương, hạ sĩ danh dự, từ chối không thèm nhận quyền" công dân" và cả 100 kí gạo hàng tháng của VC, ông khẳng khái nói là: " anh em binh sĩ bị đói trong tù". 

    Công Dân Dương Văn Minh sống rất là thoải mái, bình thản, dù trong lúc bị mang chứng tiểu đường, thường quan hệ mật thiết với lãnh đạo bí thư thành ủy là Võ Văn Kiệt qua trung gian của bà Bùi Thị Mè, là người có thân nhân Việt Cộng nằm vùng, từng được Dương Văn Minh giải cứu trước đây. 

     Năm 1983 Dương Văn Minh được " bố trí" xuất ngoại, đầu tiên sang Pháp với lý do chửa bịnh và thăm con, dù chính phủ Pháp đề nghị giúp vé phi cơ, chi phí, nhưng hắn từ chối và cho là:" đã có chính phủ Việt Nam lo rồi". Ông sống ở Pháp thoải mái, không cần trợ cấp của chính phủ…hình như ông cũng có" lương" của Việt Nam?

      Nhìn hai cuộc biến động lịch sử năm 1963 và 1975, một số người lầm tưởng là Dương Văn Minh chỉ làm theo cảm tính cá nhân là ghét chính phủ Ngô Đình Diệm, hay chịu ảnh hưởng phe Ấn Quang, nhất là cái chết của tổng thống Ngô Đình Diệm, em là Ngô Đình Nhu, có nhiều nghi ngờ, tin đồn là do một số tướng như Mai Hữu Xuân, Đổ Mậu…thù hằn cá nhân mà giết để trả thù. Nhưng thực ra, trung tướng Dương Văn Minh đã làm nội ứng cho Việt Cộng từ năm 1962, được móc nối với một số tổ chức tình báo, gián điệp Việt Cộng là: Binh vận Trung Ương Cục, Tình báo, An ninh T4 ( phụ trách vùng Saigon-Gia Định), ban Trí vận...nên có thể là Dương Văn Minh là thủ phạm giết Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, theo chỉ thị của đảng Cộng Sản Việt Nam để loại trừ hai đối tượng nguy hiểm hàng đầu của VC. Một điều không ai phủ nhận là: sau khi đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963, Dương Văn Minh đã thả hầu hết những tên gián điệp Việt Cộng nằm vùng về bưng, trong đó có tên trùm tình báo là Mười Hướng ( Nguyễn Ngọc Ban).

     Được biết, vào tháng 9.1972, Ban An ninh T4, phụ trách vùng Saigon-Gia Định, tiến hành việc hành lập Cụm điệp báo mới, bí số là A10, với nhiệm vụ xây dựng lực lượng gián điệp nằm vùng bí mật trong một số đối tượng, mà trong đó có thành phần thứ ba, đặc biệt là có nhóm Dương Văn Minh, bao gồm các thành viên trong bộ phận đầu não của nhóm nầy, gồm có các báo Điện Tín, Đại Dân Tộc….

    Đầu năm 1975, tên Trần Quốc Hương, bí danh Mười Hương, là Trưởng Ban An ninh T4, chỉ đạo cho cụm tình báo chiến lược A10 tìm cách thâm nhập vào thành phần thứ ba và nhóm Dương Văn Minh để tác động, vận động thành phần này chống đối, cô lập, chia rẽ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Thời gian này, Cụm tình báo chiến lược A10 tiếp cận, bám sát “nhóm Dương Văn Minh”, có lúc họa sĩ Ớt, tức là Huỳnh Bá Thành được bố trí ở luôn trong nhà Dương Văn Minh để chỉ đạo công tác và tham gia viết và in tuyên cáo, từng bước từ việc “chống Chính phủ Thiệu không có Thiệu”, đòi Trần Văn Hương từ chức tổng thống, đoạn đưa Dương Văn Minh lên cầm quyền, hầu tiến hành công tác cuối cùng là chiếm trọn miền nam mà không bị thiệt hại lớn như trận tổng công kích tết Mậu Thân 1968 trước đây, điều Việt Cộng rất sợ, vì lần nầy thất bại, thì Việt Cộng bị thiệt hại rất lớn, có khả năng đưa đến sự sụp đổ miền bắc. Công tác nội tuyến cuối cùng của tên Dương Văn Minh là:" bàn giao miền nam cho Việt Cộng", là công rất lớn đối với đảng súc vật Việt Cộng.

     Kể từ ngày 1 tháng 3 và đến cuối tháng 3 năm 1975, tên Huỳnh Bá Thành còn được tăng cường thêm một số tên Việt Cộng như Trần Thiếu Bảo, Huỳnh Huề…để thực thi theo chỉ thị của súc vật Mai Chí Thọ, lúc đó là bí thư thành ủy, được góp ý của tên Trần Thanh Vân, phó ban an ninh T 4, nên Mai Chí Thọ khẳng định:

 “...Phải bằng mọi cách để Dương Văn Minh thay Nguyễn Văn Thiệu, rồi giao chính quyền cho cách mạng. Đó là chủ trương của đảng nhằm tránh đổ máu, tránh tổn thất cho nhân dân”. 

Nhưng thực ra thì chúng rất sợ bị hỏa lực của quân lực VNCH tiêu diệt, khi chúng dốc toàn lực vào toàn thành thị, thôn ấp miền nam như là" trận cuối là trận nầy", khi dân quân miền nam một lòng tử chiến để sống còn.

    Công tác nằm vùng của tên Dương Văn Minh đã được chuẩn bị khá kỷ từ năm 1960, theo yêu cầu của Ban Binh Vận Xứ Ủy Nam Bộ, là tiền thân của Trung Ương Cục Miền Nam, đề cử tên Việt Cộng là Võ Văn Thời, cục trưởng cục chính trị quân đội Nhân Dân Việt Nam trong việc điều động tên Dương Thanh Nhựt, bí danh Mười Ty, là em ruột của Dương Văn Minh, về công tác tại cục, với mục đích để móc nối với tướng Dương Văn Minh làm nội ứng. 

    Đến cuối tháng 12 năm 1960, thì Dương Văn Nhựt mới chính thức hoạt động và làm công tác móc nối. Do tình cảm anh em, nên công tác binh vận không gặp khó khăn, nhất là Dương Văn Minh là sĩ quan cấp tướng trong quân lực VNCH. 

    Đến tháng 8 năm 1962 tên Mười Ty móc được với gia đình qua tiến trình sau đây: trước hết là liên lạc với ông Nguyễn Văn Di, là cậu ruột. Qua người cậu nầy, tiến hành móc nối vợ là Sử Thị Hương, nhắn vợ về thăm mẹ và tìm hiểu thái độ của anh hai Dương Văn Minh. Sau đó Mười Ty bí mật thăm em trai là Dương Thanh Sơn, sĩ quan quân đội VNCH và em thứ tám là Dương Thu Vân.

     Sau khi dàn dựng công tác có hệ thống, nhận thấy tình hình thuận lợi, nên tên Mười Ty hướng dẫn cán bộ, bí mật đem ý kiến của lãnh đạo đảng súc vật Việt Cộng để thảo luận với trung tướng Dương Văn Minh về việc đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm. 

    Khai thác sự bất mãn của Dương Văn Minh, sau khi dẹp Bình Xuyên và Hòa Hảo, bị chính phủ Ngô Đình Diệm không tin cậy, cho ngồi chơi xơi nước, vì sau khi đánh chiếm được căn cứ địa của Bình Xuyên, chính Dương Văn Minh đã tịch thu nhiều tiền, vàng của Bảy Diễn, nhưng lại ém nhẹm, không chịu giao nộp chiến lợi phẩm cho chính phủ để dùng vào việc công ích; đây là điều mà chính phủ Ngô Đình Diệm không ưa, chứ không phải là chính phủ Ngô Đình Diệm phủ nhận công lao của hắn. Tuy nhiên, Dương Văn Minh tung hỏa mù để khỏa lấp bản chất tham lam của hắn, hầu được tiếng tốt và gây thù hằn, phân hóa trong hàng ngũ quân đội, chính quyền miền nam.

    Do sự móc nối và chỉ đạo của Việt Cộng, nên ngày 01 tháng 11 năm 1963, Trung tướng Dương Văn Minh, kết hợp cùng với một số phản tướng, phản tá, đảo chánh thành công và lên làm Chủ tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Được biết, kế hoạch đảo chánh đã được tên Mười Ty nắm vững và đã báo về Ban binh vận Trung Ương Cục trước khi hành động. Như vậy, cuộc đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963 là do chỉ đạo của Việt Cộng qua tên đại tá Mười Ty, em ruột của Dương Văn Minh.

    Sau cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm một thời gian, tên Mười Ty có bí mật vào nhà Dương Văn Minh cư trú, và sau đó sang nhà em là Dương Thanh Sơn ở mười ngày. Qua nhiều lần gặp và trao đổi với Dương Văn Minh, tên Mười Ty được Dương Văn Minh hứa hủy bỏ ấp chiến lược…thực thi lịnh của Việt Cộng, nhưng bề ngoài, tên Việt Cộng nội tuyến Dương Văn Minh biện bạch, ngụy trang là:" cho nhân dân về nhà cũ với ruộng vườn, mồ mả ông bà..".

     Sau đó, Dương Văn Minh ra lịnh hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược, khiến đại sứ Mỹ Cabot Lodge ngạc nhiên hỏi Dương Văn Minh vì sao làm thế ?  Ông trả lời, đại ý:  "Người VN có phong tục tập quán riêng, không người nào muốn xa rời mảnh đất đã gắn bó đời mình và mồ mả ông cha. Dồn dân vào ấp chiến lược là chủ trương sai, vì lẽ đó, tôi giải tán ấp chiến lược để người dân trở về quê cũ của mình".

     Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mc Namara và Tướng Harkin yêu cầu trung tướng Dương Văn Minh để cho Hoa Kỳ ném bom ra miền Bắc, không ném ồ ạt mà ném bom nổ chậm trên đê sông Hồng, làm tê liệt kinh tế miền bắc, dân chúng có khả năng đứng dậy vì đói, chiến tranh sẽ sớm chấm dứt... nhưng Dương Văn Minh từ chối. Nếu áp dụng đúng, thì Việt Cộng đã đầu hàng và đại họa không di truyền đến ngày nay, đất nước lạc hậu và sắp rơi vào vòng nô thuộc của Trung Cộng. Tháng 1.1964, Đại sứ Cabot Lodge yêu cầu Dương Văn Minh nghiên cứu, chuẩn y và thực hiện kế hoạch 34A, gởi biệt kích ra bắc, nhưng Dương Văn Minh không phúc đáp.

     Theo sự yêu cầu của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, nên tên Dương Văn Minh tỏ ý muốn thương lượng để tuyển cử tự do theo mưu đồ của Việt Cộng, nhưng bề ngoài được ngụy trang trong vỏ bọc: miền nam với một chế độ trung lập, lập Chính phủ liên hiệp với Việt Cộng. Tuy nhiên Hoa Kỳ cự tuyệt hòa đàm, chống mọi xu hướng trung lập và hầu hết những người có kinh nghiệm với Cộng Sản đều không chấp nhận, nên mới có những câu: liên hiệp với Cộng Sản là tự sát. 

    Dương Văn Minh có những hành động có lợi cho Việt Cộng, dù các cơ quan an tinh, tình báo như C.I.A, chưa tìm ra bằng chứng. Nhưng để Dương Văn Minh càng lâu, càng tạo điều kiện cho Việt Cộng thắng lợi, nên sau đó, vào cuối tháng 01.1964, trung tướng  Nguyễn Khánh tổ chức đảo chánh, gọi là chỉnh lý và lên làm quốc trưởng. Nguyễn Khánh tuyên bố: “Tôi đảo chánh Dương Văn Minh để cứu đất nước này khỏi rơi vào tay CS”.  Dương Văn Minh trở thành đại tướng và cử làm đại sứ lưu động ở Đài Loan.  

     Cuối năm 1967, theo chỉ đạo của tên Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam) và Ban binh vận Trung Ương Cục, tên Dương Văn Nhựt, tức là Mười Ty có chuyến qua Pháp, ở nhà em rể là Charlot để móc người em gái thứ 8 là Dương Thu Vân, có thời gian, tên Mười Tỵ cư trú tại nhà Dương Minh Đức ( con trai của Dương Văn Minh). Được biết, sau khi người em gái thứ 6 Dương Thu Hà bị ung thư chết, Dương Văn Minh có qua Pháp dự đám tang em gái, sau đó ở lại Pháp hơi lâu, có ý chờ tin của Mười Ty. Nhưng lúc đó cơ quan tình báo CIA nghi ngờ nên khuyên cáo Dương Văn Minh nên về Thái Lan.

     Khi Dương Thu Vân qua Paris gặp Mười Ty cho hay là Dương Văn Minh không thể qua Pháp được nữa, thì Mười Ty mới chuyển kế hoạch qua việc dùng Dương Thu Vân và cháu là Dương Văn Đức truyền đạt ý kiến của cấp trên là đảng Cộng Sản cho Dương Văn Minh. Sau đó Dương Minh Đức báo lại ý kiến của cha anh với Mười Ty như sau: “Lập Chính phủ ba thành phần". Nhưng việc nầy rất khó thực hiện khi mà Hoa Kỳ vẫn còn giúp miền nam, vì Dương Văn Minh không có quyền hành nữa

   Trước tình hình nầy, tên Mười Ty trở về Hà Nội để gặp súc vật Lê Duẩn. Trong bửa cơm với Lê Duẫn, có Mười Ty và Võ Văn Thời để bàn thảo kế hoạch. Sau khi nghe  Mười Ty báo cáo đầy đủ chuyến đi công tác ở Pháp, tên súc vật Lê Duẩn khen Dương Văn Minh có tinh thần hợp tác và có nhận định chính xác.

    Đến cuối năm 1970, theo chỉ đạo của Trung Ương và Trung Ương Cục miền Nam, Ban binh vận Trung Ương Cục tìm một người khác, để tiếp cận, tăng cường với tên nội tuyến Việt Cộng Dương Văn Minh trong việc phối hợp công tác nội gián. Đó là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cơ sở của Việt Cộng trong hàng ngũ sĩ quan là bạn bè và thầy trò có thể tiếp cận được với Dương Văn Minh dễ dàng và thuận lợi. Đồng thời bọn Việt Cộng cử thêm tên Nguyễn Tấn Thành, tức là Tám Vô Tư, là bác của Nguyễn Hữu Hạnh, được Ban binh vận Trung Ương Cục giao nhiệm vụ trực tiếp nắm và bồi dưỡng cho Nguyễn Hữu Hạnh trong công tác nội ứng.

     Tháng 3 và 4 năm 1975, tên Tám Vô Tư thường gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh để giao công tác. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Tám Vô Tư gợi ý với chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh để tiếp cận với Dương Văn Minh ngay,  nếu khi tên Dương Văn Minh lên làm Tổng thống thì tìm cách kết thúc cuộc chiến để tạo thắng lợi cho Việt Cộng, theo đúng ý đồ của Việt Cộng.

   Cho nên sau khi được tin ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ngày 28 tháng 4 năm 1975, từ Cần Thơ, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn lên Saigon gặp Dương Văn Minh và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng, thay Tổng tham mưu trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng tham mưu trưởng quân lục VNCH. Với các cương vị này, tên tướng nội tuyến Nguyễn Hữu Hạnh đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh làm cho quân đội Saigon “án binh bất động”, tan rã tại chỗ qua lịnh, không nổ súng làm thiệt hại lớn cho Việt Cộng trên đường tiến vào Saigon và thúc đẩy Chính phủ Dương Văn Minh sớm bàn giao cho Việt Cộng.

     Tiến trình công tác nội ứng trong việc bàn giao miền nam cho Việt Cộng ngày 30 tháng 4 năm 1975 còn có sự tham dự của cụm siêu điệp VĐ2, nằm trong phòng tình báo chiến lược M22, thuộc trung ương cục miền nam, chúng thúc đẩy, chỉ đạo, cố vấn để giúp cho" tổng thống vi hiến" Dương Văn Minh mau hoàn thành công tác đầu hàng, được thông qua tên kỷ sư Tô Văn Cang. 

    Do đó vào ngày 28 tháng 4 năm 1975, tên Tô Văn Cang đến tiếp xúc và" hội ý" với tên đại tá Việt Cộng là Nguyễn Văn Khiêm, bí danh Sáu Trí, đang cư trú tại nhà tên Ba Lễ ( thuộc cơ sở gián điệp nằm vùng Việt Cộng), ở một con hẻm, đường Triệu Đà, Saigòn làm trung gian, liên lạc qua một người tên là Nguyễn Văn Diệp ( thuộc chính phủ Dương Văn Minh) trong việc" liên hệ công tác" là gặp phía tổ chức Việt Cộng, của các gọi là:" chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam". 

    Tên đại tá Việt Công Sáu Trí chỉ đạo Dương Văn Minh thực hiện công tác đầu hàng vô điều kiện qua sự liên lạc của Nguyễn Văn Diệp, sau đó trình lại cho Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu…nên miền nam rơi vào tay giặc Cộng ngày 30 tháng 4 năm 1975 một cách tức tưởi, trong khi đó miền nam vẫn còn hơn 100 ngàn quân, vùng 4 chiến thuật có kế hoạch phản công và nhất là miền tây còn có lực lượng Hòa Hảo. 

    Cuộc bức tử miền nam Việt Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975 là do tên phản quốc, Việt Cộng nội tuyến Dương Văn Minh thực hiện" đầu hàng vô điều kiện" và Nguyễn Hữu Hạnh: " bàn giao trong vòng trật tự", làm gảy cả kế hoạch phản công từ vùng 4 chiến thuật do các tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai…đảm trách để cứu nước, nên sau đó, các vị đã tuẫn tiết, đền xong nợ nước. 

    Kẻ phản gian, Việt Cộng nội tuyến Dương Văn Minh phè phởn sống trong niềm tự hào" công dân nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam", đoạn được bố trí xuất ngoại, hình như cũng làm công tác của đảng ở  nước ngoài? Điều nầy cũng có thể đặt ra đối với trường hợp của Dương Văn Minh, từng có quá trình làm nội tuyến cho Việt Cộng qua hai cuộc biến động lịch sử: phá nát miền nam qua đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963 và bàn giao miền nam cho giặc Cộng ngày 30 tháng 4 năm 1975.

    Sự bàn giao miền nam" trong vòng trật tự" cho giặc Cộng của tên Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh và đồng bọn nằm vùng ngày 30 tháng 4 năm 1975, đưa đất nước đến tang thương, nên ngày nầy là ngày QUỐC HẬN. Tuy nhiên, bọn Việt Gian muốn xóa hết tội ác, chúng tìm đủ mọi cách thay đổi tên" từ ngày quốc kháng, ngày tỵ nạn và nay là NGÀY DIỄN HÀNH CHO TỰ DO…chúng" hồ hởi phấn khởi" phát động" diễn hành" để ăn mừng" như có bác trong ngày vui đại thắng" ngay tại vùng đất của người bỏ nước ra đi tìm tự do, là một thách thức nghiêm trọng, khinh thường mọi người. Nếu ai diễn hành là đồng bọn, cùng nhau mừng ngày Việt Cộng chiếm miền nam.

     Quân lực VNCH kiên cường, giữ đất suốt hơn 20 năm, tạo những chiến công lẫy lừng: Mậu Thân 1968, mùa hè đỏ lửa 1972..và làm chủ tình hình trên khắp chiến trường từ Quảng Trị đến Cà Mau. Tuy nhiên, cấp lãnh đạo trung ương đã làm cho miền nam sụp đổ sau vụ đảo chánh phản loạn của tên Việt Cộng nội tuyến, trong vai trò trung tướng Dương Văn Minh. Nếu miền nam không bị đảo chánh, ấp chiến lược được duy trì, thì Việt Cộng khó mà vùng dậy, miền nam có khả năng vượt xa hơn nhiều nước trong vùng như Thái Lan, Mã Lai…có thể sánh cùng với Nam Hàn ngày nay.

     Sau đảo chánh, tình hình chính trị trung ương rối loạn, là điều mà súc vật Việt Cộng rất mong muốn, đó là công đầu của tên Dương Văn Minh, tiếp theo là thời đại tướng Nguyễn Khánh cầm quyền, nhưng ông nầy lại tìm cách móc nối với Việt Cộng bằng cách thả vợ của tên Huỳnh Tấn Phát là Bùi Thị Nga vào mật khu, có mang theo mật thư móc nối.

Sau đó là thời thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, xảy ra cuộc tranh quyền với trung tướng Nguyễn Văn Thiệu. Cuộc bầu cử năm 1971, tên Nguyễn Cao Kỳ, vì quyền lợi cá nhân nên đã lấy 2 ngàn quả lựu đạn M-K 3 của quân đội, cung cấp cho đám Việt Cộng nằm vùng là Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi…để phá hoại phòng phiếu. 

Đến thời Nguyễn Văn Thiệu, phá nát quân đội ở quân khu 1 và 2 bằng cuộc rút quân hổn loạn, được gọi là:" tái phối trí lực lượng" và biến thành" di tản chiến thuật", gây cái chết của hơn 150.000 dân, để lại cho Việt Cộng hơn 100 phi cơ và 70 ngàn tù binh ( nhiều người bị hành quyết)…Nguyễn Văn Thiệu cũng là tội đồ dân tộc, chính hắn phá nát quân đội VNCH qua những việc làm: ban lịnh bất nhất" sáng rút, chiều tàu chiếm", rút hết các đơn vị tổng trừ bị là Thủy Quân Lục Chiến, Dù, trói chân trung tướng Ngô Quang Trưởng, sau đó mất quân khu 1, ép thiếu tướng Phạm Văn Phú rút quân, nhưng tướng Phú phản đối, nên tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu, Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm thăng cấp chuẩn tướng cho đại tá Phạm Duy Tất, chỉ huy cuộc di tản trên tử lộ là quốc lộ 7, khiến nhiều người bị chết.

     Một điều đau lòng là: vấn đề an ninh, tình báo, có mặt yếu kém, khi các giới chức an ninh phát giác ra Việt Cộng nội tuyến, nhưng gốc lớn như tướng lãnh, nên người phát giác trình lên cấp trên, bị vạ lây, nhiều khi mất chức, bị đổi đi nơi khác. Do ảnh hưởng lối suy nghĩ xưa "quan lại" nên những tên Việt Cộng nằm vùng cao cấp, như trung tướng Dương Văn Minh, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh vẫn nằm vùng trong bình phong cấp tướng. Việt Cộng không tài giỏi, nhưng miền nam vấp phải những sai phạm nghiêm trọng về mặt an ninh, tình báo…hậu quả bài học nầy kéo dài đến ngày nay./.

Trương  Minh Hòa 
19.04.2014

0 comments:

Post a Comment

Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!

Một biến thể phụ COVID-19 mới xuất hiện, mang tên Arcturus.

 Biến thể phụ Arcturus mới, lần đầu tiên được xác định “có mặt” và lây lan mạnh ở Ấn Độ hồi Tháng Ba. Tại Hoa Kỳ, Arcturus hiện chiếm khoảng 6% trong số ca nhiễm COVID-19.