Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa
Tuesday 7 October 2014
Home »
Chuyện Đời Lính
» Nhân cách của quý vị Cựu Tù Nhân Chính Trị Quảng Nam - Đà Nẵng
Nhân cách của quý vị Cựu Tù Nhân Chính Trị Quảng Nam - Đà Nẵng
Tuesday, October 07, 2014
No comments
Sau ngày 30/4/1975, gần hết người Việt Nam tại quốc nội cũng như ở hải
ngoại đã thường nghe nói đến những “trại cải tạo” khác, nhưng lại ít có
người biết đến một trại tù đã có từ năm 1960 tại Quảng Nam. Đó là “Trại
cải tạo Đá Trắng”, nằm tại xã Phước Lãnh, quận Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
Vào đầu năm 1964, sau khi Dương Văn Minh ra lệnh phá bỏ Ấp Chiến Lược, là
bức thành ngăn chặn
hữu hiệu
sự xâm nhập của Việt cộng vào thôn làng
để cướp phá và
giết hại dân lành. Tại quê tôi, “Trại Đá Trắng” là nơi đã giam giữ Bác
ruột của tôi, là Ông Trần Thắng cho tới chết. Bác tôi đã bị
bọn
du kích Việt cộng bắt
đi,
cùng lúc chúng đã bắn chết Cha ruột của tôi, là Ông Trần Tăng trước mặt
gia đình của tôi, và không cho gia đình tôi được chôn cất, mà còn bắt cả
nhà tôi đưa vào rừng, giam dưới hầm đất. Vì thế, vào những đêm mưa, Mẹ của
tôi phải ngồi canh, thức trắng, và dùng chiếc thùng nhỏ để múc nước từ
dưới hầm đem đổ ra trên mặt đất, vì nếu không, thì chị em tôi phải chết
ngộp khi nước ngập hầm, mà tôi đã kể lại qua một bài đã rất lâu, song vì
bài dài, nên kính mời quý vị đọc lại bài:
Về sự hiệu quả và cần
thiết của Ấp Chiến Lược của thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa, mà chính tên
tội đồ Dương Văn Minh đã ra lệnh phá bỏ, tôi cũng đã thuật lại những gì
mình đã chứng kiến vào một thời thơ ấu. Vậy, tôi cũng xin kính mời quý vị
đọc thêm bài:
Và
chính vì Bác ruột của tôi cùng các vị đã bị du kích Việt cộng bắt năm xưa
đã bỏ mình trong “Trại cải tạo Đá Trắng”, tiền thân của “Trại T.154, tức
“Trại cải tạo” Tiên Lãnh, nên trong thời gian mới sang tỵ nạn Cộng sản tại
Pháp quốc, khi nghe ông Bùi Tín nói:
“Nếu cụ Hồ còn sống, thì
không có các trại cải tạo ở
miền Nam”,
thì
tôi đã viết một bài:
Có thật “nếu cụ Hồ còn
sống, thì không có các trại cải tạo ở miền Nam hay không?”
để phản bác những lời vọng ngữ của ông Bùi Tín.
Bài
này đã được đang trên Tạp Chí Dân Văn tại Đức quốc của ông Huyền Thanh Lữ,
là bào huynh của ông Lý Trung Tín, hiện giờ là Chủ nhiệm.
Từ “Trại cải tạo Đá Trắng” đến “Trại T.154, tức trại “cải tạo” Tiên Lãnh:
Nhân đây, tôi xin được sơ
lược về sự hình thành của trại “cải tạo” này như sau:
Ngày 13-3-1975, khi quận Tiên Phước rơi vào tay của Cộng sản Bắc Việt.
Ngày 15-4-1975, Việt cộng đã bắt thanh niên quận Tiên Phước khởi công phá
bỏ trại Đá Trắng vốn nằm dưới hầm, để đưa trại tù này lên trên mặt đất. Vì
thế, sau khi hoàn thành Việt cộng đã chính thức đổi tên “Trại cải tạo Đá
Trắng” thành “Trại cải tạo T.154” tại thôn 03 xã Phước Lãnh (sau
30-4-1975, đổi tên là xã Tiên Lãnh), gồm có Trại chính: Trại 1, và nhiều
phân trại khác, như các phân trại Thôn 5 (Năm), Na Sơn... Đây là “trại
cải tạo” lớn nhất của Quảng Nam-Đà Nẵng, đã giam giữ hàng ngàn Quân Cán
Chính Việt Nam Cộng Hòa, sau khi ra trình diện tại “chùa” Pháp Lâm, là nơi
đã đặt “Giáo quyền” của tỉnh Giáo hội Quảng Nam Đà Nẵng, thuộc “Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống Nhất”, tức “Khối Ấn Quang” tại số 500, đường Ông
Ích Khiêm, Đà Nẵng.
Riêng “Trại chính” tức “Trại 1” là có số tù nhân đông hơn hết. Ở đấy,
ngoài trại nam, còn có phân trại nữ nằm cách trại nam chừng 100 mét. Phân
trại nữ đã từng giam giữ những nữ tù chính trị, trong số đó, có những
người đã từng phục vụ trong ngành Tâm Lý Chiến, Dân Sự Vụ như: Tiểu Đoàn
10 Chiến Tranh Chính Trị, C1 Lực Lượng Đặc Biệt, Đoàn Văn Nghệ Hoa Tình
Thương, Cảnh Sát, Biệt Chính Nhân Dân, Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn... kể cả
các bà, các chị vì lý do sức khỏe, hoặc lập gia đình nên đã ra khỏi đơn vị
trước 1975.
Sau này, khoảng từ năm 1977, Công an Đà Nẵng đã mở những “chiến dịch truy
quét”, để bắt những thành phần như: Không có hộ khẩu, trộm cắp, mãi dâm...
Mỗi đợt “chiến dịch” Công an đã bắt những người này, rồi chở lên trại “cải
tạo” Tiên Lãnh để “gửi tạm giam”. Những người này được giam riêng trong
hai phòng, có bờ rào kẽm gai ngăn cách với nữ tù chính trị. Họ có “đội,
tổ” riêng, vì không thuộc “diện tập trung cải tạo”.
Và vì không thuộc “diện tập trung cải tạo”, nên tất cả chỉ ở trại Tiên
Lãnh không quá ba tháng. Trong vòng ba tháng đó, “Ty Công an” sẽ cho “phái
đoàn y tế” lên trại, để khám bệnh và “xác minh”. Đặc biệt, là khám cho
những cô gái trẻ, để nếu xét thấy cô gái nào “còn trinh”, thì sẽ được thả
ngay. Cũng có một số người được gia đình gửi “Đơn xin bảo lãnh” thì họ
cũng được trả tự do. Số còn lại, không quá ba tháng sau, thì tất cả đều
được xuất trại, và sẽ được đưa đến “Trung tâm phục hồi nhân phẩm” thuộc
“Công trường Thắng Lợi”, thuộc xã Hòa Khương, quận Hòa Vang, cuối con dốc
Phú Túc, hoặc “Trung tâm phục hồi Nhân Phẩm” tại huyện Hiên, Quảng Nam, để
gọi là “học nghề”, nhưng chỉ học nghề làm nông, và cũng chỉ trong vòng ba
tháng, họ đều được trả tự do, rồi sau đó, tới những đợt khác. Nhưng không
có một người nào phải bị “Tập trung cải tạo” cả. Vì một khi bị “tập trung
cải tạo” rồi, thì tất cả đều phải ở tù ít nhất trên ba năm, nặng hơn thì
phải đến trên mười năm.
Một điều khác, mà có lẽ cho tới giờ này, có thể các vị nam tù chính trị ở
Phân trại Thôn 5 (Năm) và Na Sơn không biết được. Đó là đã có một số nữ tù
từng được “Ban giám thị Trại 1” đưa lên hai phân trại này, để gọi là “cấy,
gặt bổ sung”. Nghĩa là giúp cho nam tù trong công việc cấy, gặt (ở chung
cùng trại nam). Nhưng mỗi đợt “bổ sung” cũng chỉ không quá ba tháng, thì
lại thay “đợt bổ sung” khác, vì các cô ấy là tù “truy quét hình sự”, không
phải là những người bị “Tập trung cải tạo” như đã nói ở trên.
Riêng tất cả những nữ tù
chính trị tại “Trại chính - Trại 1”, thì lại rất thích lên phân trại Na
Sơn, vì mỗi lần thấy các nữ tù từ Na Sơn về trại 1, thì ai cũng thấy các
cô đều thay đổi, với làn da trắng trẻo, bởi Na Sơn ở trên núi cao, nghe
nói lạnh lắm, không có nắng nhiều như các phân trại khác.
Nhắc lại điều này, tôi nhớ đến chị Hoàng Thy An, là ái nữ của Trung tá
Hoàng Em, cả hai bố con chị Thy An đều ở chung một trại tù, chị Thy An
thường nói với tôi: “làm cách nào để chị được lên trại Na Sơn hả em, chị
thấy mấy người đi Na Sơn về, giống như đi sửa sắc đẹp vậy”.
Nghe chị Thy An nói, tôi
nói với chị: Không bao giờ mình được thấy trại Na Sơn hay Thôn 5 đâu, vì
mình là loại tù chỉ biết có Trại 1 mà thôi. Và chị Thy An đã phải ở tù tại
“Trại 1” tám năm mới được thả.
Nhân
cách của quý vị Cựu Tù Nhân Chính Trị Quảng Nam-Đà Nẵng:
Nói về nhân cách của các
vị Cựu Tù Nhân Chính Trị. Chúng tôi, những người đã một thời đồng cảnh ngộ
có lẽ sẽ không bao giờ quên những vị tù khi đứng trước những bạo lực Công
an Cộng sản, các vị đã chứng tỏ cái nhân cách lớn của mình qua câu “Uy Vũ
Bất Năng Khuất”.
Tôi đã từng viết đến những
cái chết của Thiếu tá Hồ Minh, Đại úy Nguyễn Phượng, Trung úy Trần Quang
Trân... Và tôi cũng đã viết về những nhân cách lớn của quý vị hiện vẫn
còn sống như Giáo sư thượng Nghị Sĩ Bùi Văn Giải, Giáo Sư Võ Văn Dật, tức
Võ Hương An, Cựu Giám học và Thanh tra Giám Sát Viện, Quân Khu 1, anh Tạ
Mộng Tân, thuộc Biệt đội 9 Quân Báo, biệt phái cho Sư Đoàn 101, Nhày Dù
Hoa Kỳ - Biệt đội 11 Quân Báo, biệt phái Lữ Đoàn 2 Thanh Long, Thủy Quân
Lục Chiến Đại Hàn – Trung tâm Thẩm Vấn/Quân Đoàn 1- Phòng 2/Quân Đoàn 1 -
Sĩ Quan Thông Dịch và Liên Lạc/Ban Liên Hợp Quân Sự 4 bên, Giáo sư Lưu Như
Hải – Giáo sư sinh ngữ Trường Trung học Sao Mai, Đà Nẵng, anh Phạm Lộc... và còn nhiều vị
từng ở trong “Nhà Biệt giam 2.79”, tức “Biệt giam Đồng Mộ - Biệt giam Nhà
Trắng”. Sau đó, các vị đã “được” đưa về và chuyển đến từ các “Nhà 6 - Nhà
7 - Nhà 8 - Nhà 10 - Nhà 12... tại Trại chính: Trại 1, trại “cải tạo” Tiên
Lãnh. Các vị là những vị có đủ điều kiện để cho bọn Công an trại tù cho
hưởng những “ưu đãi”, để dạy cho con cháu của chúng học. Nhưng không, quý
vị đã giả bệnh, giả ngơ ngác, để không làm hết những điều mà bọn Công an
cần đến.
Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh: Một
nhân cách lớn trong trại tù “cải tạo”:
Những ngày tháng đầu, khi
mới nhập trại, Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh đã được “Ban giám thị” trại chỉ định
cho “phụ trách phòng y tế” tại bệnh xá trại 1.
Phải nói rằng, suốt trong
thời gian Bác sĩ Phùng Văn Hạnh phụ trách y tế tại trại, Ông đã cứu giúp
rất nhiều tù nhân qua những cơn bệnh ngặt nghèo. Ông đã sống trọn vẹn cho
tha nhân, không thiết tha cho riêng bản thân mình.
Thế nhưng, chính vì lòng
thương của Ông đối với những người tù đồng cảnh ngộ, đã khiến cho “Ban
giám thị” và Công an không bằng lòng. Đặc biệt nhất, là sự bất phục tùng
và sự khinh thường đối với “Ban giám thị” và cả bọn Công an của trại tù,
đã khiến cho Ông phải bị hành hạ đày đọa từng ngày tại trại.
Tôi đã chúng kiến hình ảnh
của Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh khi đứng trước cổng trại nam, để “báo cáo cán
bộ” sau khi hết giờ lao động về trại. Ông đã quyết liệt không chịu bỏ nón
xuống, đứng nghiêm như những người tù khác khi đứng trước Nguyễn Văn Đẳng,
một “cán bộ trực cổng”. Nhưng rồi bọn Công an cũng không biết làm gì, lại
còn nghi ông đã ở trong vụ án của Thiếu úy Trần Quang Trân, (nghi là vì
không có bằng chứng, nhưng chúng biết là có thật) nên bọn Công an đã nói
Ông “điên” để khỏi phải mất mặt. Cuối cùng “Ban giám thị” trại đã quyết
định buộc Bác sĩ Phùng Văn Hạnh phải đi lao động ngoài đồng, không cho phụ
trách y tế nữa.
Kể từ đó, trạm xá của trại
tù, công an trại giao cho bác sĩ Vương Ngọc Lâm một thời gian, rồi lại
giao cho anh Đỗ Phạm Hiển, một cán sự ý tế trước 30/4/1975, rồi anh Hiển
cũng bị “kỷ luật” vì lén đưa mấy dòng chữ ngắn cho người con trai ruột của
anh ở cùng trại, vì đã ở trong vụ án “Việt Nam Dân Tộc Cách Mạnh Đảng”.
Một vụ án có tới 05 (năm) vị đã bị Việt cộng xử bắn tại Hòa Khánh, con
trai anh Hiển là Phạm Đỗ Thánh Thiện đang bị cùm, nên anh Hiển cũng bị
chúng đuổi khỏi bệnh xá, và cũng bị cùm một tuần rồi ra ngoài lao động.
Sau đó bệnh xá giao cho các y tá trước 30/4/1975 phụ trách.
Sở sĩ, bọn Công an không
cùm biệt giam Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh, là vì chúng rất cần Ông trong những
lúc con cái của chúng bị bệnh. Mà những lúc ấy, Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh dù
đang phải lao động, nhưng do từ tâm của một vị LƯƠNG Y, nên Bác sĩ Phùng
Văn Hạnh lại không nỡ bỏ cho những đứa trẻ ấy phải chết, dù biết chúng là
con của bọn Công an!
Tôi cũng đã chứng kiến mỗi
ngày Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh phải đi bứt mây rừng, hoặc phải đi “mót sắn”.
“Mót” nghĩa là phải đi tìm trên những đám sắn, mà tù “cải tạo” đã nhổ
xong, rồi bươi móc, để tìm những củ sắn còn sót lại, và phải làm sao cho
đúng với “chỉ tiêu” mỗi ngày là 70 (bảy mươi) ký sắn, phải gánh đem về tận
kho lương thực của trại, để cân cho đúng, thì mới được nghỉ.
Nói đến điều này, những
người không cùng chung cảnh ngộ, không làm sao hiểu hết, vì với 70 ký sắn,
mà chỉ được “mót” thôi, chứ không được vào nhổ trong những đám sắn còn
nguyên. Như thế, phải đi “mót” từng củ sắn, thì phải leo lên rừng từ sáng
sớm cho đến lúc mặt trời xuống núi, thì mới đủ 70 ký sắn. Đó là một trong
những cách để trả thù, hành hạ đối với tư cách của Bác sĩ Phùng Văn Hạnh!
Tôi vẫn nhớ, có một lần,
khi thấy tên Nguyễn Văn Tư, là “Cán bộ giáo dục” toàn trại nam và nữ, đã
bảo một “trật tự” trại : “Anh hãy đi tìm kêu anh Hạnh về khám cho con tôi;
nó đang lên cơn sốt, mau lên kẻo con tôi nó chết”.
Nghe và thấy vậy, tôi thử
tìm cách nói: “thưa cán bộ, nếu cán bộ thấy B/sĩ Phùng Văn Hạnh là cần
thiết cho con cái của cán bộ trong trại, thì sao cán bộ không cho B/sĩ
Hạnh trở về phụ trách y tế tại trạm xá, để mỗi lần con cái cán bộ bệnh
nặng thì gọi cho nhanh hơn”.
Và tôi đã được nghe những
lời của tên Nguyễn Văn Tư như sau:
“Tại chị không biết, chứ
anh Hạnh này không được đâu. Ai đời mỗi lần khám bịnh cho trại viên,
thì anh Hạnh đều ghi những chuyện xỏ xiên, không chấp nhận được. Chẳng hạn
như trong các hồ sơ bịnh án (hồ sơ bệnh lý) của mỗi trại viên, anh Hạnh
đã ghi:
“Bệnh nhân trơ xương – Bệnh nhân da bọc xương – Bệnh nhân lòi xương... cái
gì cùng toàn là da với xương,
tại sao ảnh không
dùng những danh từ y khoa khác, mà chỉ có da với xương, đó là cách bôi bác
cách mạng, nên không cho ảnh phụ trách y tế được”!
Những điều này, dù nhiều
lần được hầu chuyện với Bác sĩ Phùng Văn Hạnh, qua điện thoại, nhưng tôi
cứ quên hoài, nên chưa hề hỏi Bác sĩ Phùng Văn Hạnh, không biết Ông có ghi
trong “hồ sợ bệnh án” của trại như thế hay không?
Nhưng vẫn chưa hết, vì
ngoài hình phạt ấy, bác sĩ Phùng Văn Hạnh còn từng bị “Ban giám thị” trại
tù “cúp thăm nuôi” nữa. Nhắc lại điều này, tôi nghĩ chỉ có các bà, các chị
và quý thân nhân của người cựu tù “cải tạo” mới hiểu được, bởi khi đã từ
các thành phố xa xôi, phải tiết kiệm những đồng tiền mồ hôi, nước mắt, mới
có được những món quà thăm nuôi, tiền xe, tiền ăn đi đường, còn phải gánh
quà tới tận trại trù “cải tạo” để thăm chồng, thăm cha và những người thân
của mình; nhưng khi đến nơi, lại bị công an trại từ chối, và nói rằng “vì
trại viên đó vi phạm nội quy nên bị cúp thăm nuôi” thì mới thấu hiểu những
nỗi khổ của chị Bạch Nhạn, phu nhân của Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh, vì chẳng
những không được gặp mặt Bác sĩ Phùng Văn Hạnh, mà chị Bạch Nhạn còn phải
gánh quà thăm nuôi trở về trong đau buồn và nước mắt!
Và khi viết về những điều
này, riêng tôi luôn rất vui, vì các vị Cựu tù Nhân Chính Trị Quảng Nam-Đà
Nẵng, đã không hề có một vị nào, cho dù có “được” Công an trại giao cho
những cái chức như “Nhà trưởng, Tổ trưởng...” Nhưng, không có một ai đối
xử với những người đồng cảnh ngộ như ông Bùi Đình Thi. Không có một ai
đánh mắng một bạn đồng tù “cải tạo” nào. Tôi không nói là ông Bùi Đình Thi
đã đánh chết người, nhưng ít ra có thể đã đụng đến da thịt của người đồng
tù “cải tạo”. Còn trại tù của chúng tôi thì hoàn toàn KHÔNG.
Tuy nhiên, vì lòng ích kỷ,
chỉ nghĩ cho riêng bản thân, nên đã có những chuyện ép tù nhân “phải lao
động cho đạt chỉ tiêu” hay chia sẵn những “tiêu chuẩn” cho tù nhân, chẳng
hạn mỗi ngày mỗi người cả nam lẫn nữ, phải cuốc, cày, cấy, gặt và gánh
phải “đạt chỉ tiêu” mỗi người là 170 m2, hoặc cuốc đất trồng sắn, vừa cuốc
vừa trồng phải “đạt chỉ tiêu” là 500 hom (cây giống) sắn, cắt gánh “bổi”
(là lá cành phân xanh) phải từ 150 ký đến 300 ký, (tùy theo đồng ruộng
xa hay gần) một người mỗi ngày.
Sở dĩ, tôi nhớ rất rõ về
những “chỉ tiêu - tiêu chuẩn” này, là vì Phân trại nữ, trực thuộc “quyền”
của Trại nam về mọi mặt như: từ gạo, muối... đều do “Nhà Kho cấp dưỡng”
trại nam cấp cho, cũng như mỗi ngày “Ban kỹ thuật” của nam tù giao cho
trại nữ chúng tôi bao nhiêu m2, m3, thì chúng tôi phải làm sao cho “đạt”,
còn nếu không, thì chúng tôi bị Công an phạt không cho tắm!
Đây mà một hình phạt đáng
sợ nhất đối với nữ tù, vì nếu bị phạt không cho ăn một bữa, thì chúng tôi
chịu đựng được. Nhưng, là nữ mà mỗi ngày dầm mình dưới ruộng, sình lầy tới
ngực, tới bụng, đỉa đeo hút máu, máu thấm, máu loang đỏ trên da thịt và cả
áo quần, mà không được tắm, thì khi cửa phòng tù đã bị kéo ngang thanh sắt
kèm theo chiếc khóa sắt nữa, chúng tôi chỉ biết nằm trên chiếc sạp gỗ mà
khóc, chứ không làm sao ăn được cái chén sắn độn cơm, và chỉ thiếp đi khi
quá mệt, mong cho đến sáng, để đi làm tiếp, bù lại hôm qua, để được tắm
rửa!
Tôi không muốn nhắc lại
những chuyện này, vì tôi biết những người này hiện có mặt tại Mỹ, nhưng họ
đã biết hối hận và tự ý tìm đến những nơi xa xôi để sống, để tránh mặt quý
vị Cựu Tù Nhân Chính Trị Quảng Nam-Đà Nẵng từ rất lâu rồi.
Thay lời kết:
Riêng tôi, với 08 (tám
năm) ở trong nhà tù “cải tạo”. Tôi nghiệm thấy: nếu ai đã từng qua những
nhà tù “cải tạo” của Cộng sản Hà Nội, là đã “bước” qua những cuộc khảo
nghiệm về chất người. Vì ở đấy, là nơi các cựu tù “cải tạo” đã chứng tỏ
được cái nhân cách của chính mình.
Những nơi ấy, có những
chiếc cùm sắt, có nhà cùm, nhà biệt giam, có những chiếc báng súng lúc nào
cũng sẵn sàng giáng xuống những tấm thâm gầy mòn của người tù không còn
sức kháng cự. Và có những họng súng luôn sẵn sàng nhả đạn, để giết chết
những người tù vô tội!
Và chính trong những nhà
tù “cải tạo” của đảng Cộng sản Hà Nội, đã “rèn”, đã hun đúc nên những nhân
cách lớn, như Bác sĩ Phùng Văn Hạnh, vì chính Ông, Ông đã chứng tỏ trước
các Cựu Tù Nhân Chính Trị Quảng Nam - Đà Nẵng qua những năm tháng dài bị
tù đày, hành hạ với tinh thần Uy Vũ Bất Năng Khuất!
Paris, ngày 06/10/2014
Hàn Giang Trần Lệ
Tuyền
Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!
.
.
0 comments:
Post a Comment