Hai
cuộc chiến tranh thế giới, thứ nhất và thứ hai, gây nhiều tang tóc
trong lịch sử loài người nhưng cũng để lại nhiều bài học: (1) Dù đứng
trên quan điểm nào, các nhà chiến lược quân sự đều đồng ý rằng, nếu
chiến tranh là chọn lựa duy nhất để bảo vệ sự sống còn của đất nước, yếu
tố quyết định mà một nhà lãnh đạo phải làm là chủ động chọn thời điểm
để phát động chiến tranh. (2) Chiến tranh xảy ra càng sớm càng có lợi
cho các nước nhỏ vì đối với các nước nhỏ, nhanh hay chậm, trước hay sau
cũng không giúp họ nhiều về kỹ thuật chiến tranh trong khi với các nước
lớn một năm là thời gian dài để tăng cường khả năng quân sự. (3) Không
phải chỉ nước lớn mới có quyền chọn lựa chiến tranh mà một nước nhỏ cũng
có thể gây ra chiến tranh và lôi kéo các nước lớn vì quyền lợi hay vì
bảo vệ quyền lợi phải tham dự vào cuộc chơi sinh tử.
Chiến tranh và quyền lợi quốc gia
Thủ
tướng Anh Lord Palmerston thời Nữ Hoàng Victoria phát biểu: “Nước Anh
không có đồng minh bất diệt, kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia
dân tộc là bất diệt và vĩnh viễn”. Câu nói đó trở thành thước đo cho
chính sách đối ngoại của mọi quốc gia.
Kinh
nghiệm thành công của Mỹ khi tham gia thế chiến thứ nhất: Suốt ba năm
đầu của thế chiến thứ nhất, chính sách đối ngoại của Mỹ vẫn còn bị chế
ngự bởi tư tưởng cô lập kéo dài từ thời Tổng thống George Washington đến
Woodrow Wilson.
Tháng
Giêng 1917, Ngoại trưởng Đức Arthur Zimmermann gởi đại sứ Đức tại
Mexico Heinrich von Eckhard qua ngã tòa đại sứ Đức tại Mỹ một bức điện
tín, trong đó y chỉ thị Heinrich von Eckhard tiếp xúc chính phủ Mexico
và yêu cầu quốc gia này tấn công Mỹ, và sau chiến tranh, các tiểu bang
vốn thuộc của Mexico trước đây gồm Texas, New Mexico và Arizona sẽ được
hoàn trả lại Mexico kèm theo một khoản tiền viện trợ lớn. Tổng thống
Mexico Venustiano Carranza tức khắc thành lập một ủy ban để nghiên cứu
nội dung và khả năng thu hồi các lãnh thổ bị mất trong chiến tranh
Mỹ-Mexico như được hứa trong điện tín. Bức điện tín bị tình báo Anh đọc
được, giải mã và gởi cho chính phủ Mỹ. Dân chúng Mỹ công phẫn và chính
sách đối ngoại của Mỹ thay đổi. Ngày 6 tháng 4, 1917 Mỹ tuyên chiến với
Đức.
Kinh
nghiệm thất bại của Tiệp, Anh, Pháp khi tránh né thế chiến thứ hai: Các
sử gia đã, đang và sẽ tiếp tục tranh luận về quyết định của Tổng thống
Tiệp Khắc Edvard Benes khi chấp nhận các điều khoản của hiệp ước Munich
dù không được mời tham dự hội nghị. Nếu Tiệp Khắc đánh nhau với Đức thì
Anh, Pháp, Ba Lan, Hungary, Rumani vì quyền lợi và an ninh quốc gia bị
trực tiếp đe dọa cũng phải tham gia chiến đấu bên cạnh Tiệp. Đừng quên,
hiệp ước bí mật giữa Hitler và Stalin chỉ được ký một tuần trước ngày
Đức xâm lăng Ba Lan và trong thời gian hiệp ước Munich gần một năm trước
đó, Liên Xô vẫn còn là đồng minh của Tiệp Khắc.
Trong
thời điểm hiệp ước Munich, không tính 900 ngàn quân và 200 ngàn quân
Anh, vào tuần lễ thứ ba của tháng Chín, 1938, Tiệp Khắc có một quân đội
tiên tiến với một triệu quân bao gồm 34 sư đoàn trang bị tối tân. Tiệp
có khoảng 1000 phi cơ chiến đấu đủ loại. Về tăng, Tiệp có nhiều trăm
tăng hạng nặng 38 tấn trang bị đại bác 75 li với hiệu năng chiến đấu
vượt xa so với tăng của Đức. Khi chiếm Tiệp vào tháng Ba 1939, Đức tịch
thu 469 tăng hạng nặng, 1500 phi cơ chiến đấu, 43,500 súng máy và trên
một triệu súng trường. Cho đến đầu năm 1939, Đức mới bắt đầu sản xuất
loại tăng Mark IV 23 tấn trang bị 75 mm và đến tháng 9, 1939, các đơn vị
tăng của Đức mới chỉ có 300 tăng loại Mark III và Mark IV. Tiệp Khắc là
quốc gia đã chuẩn bị cho chiến tranh. Từ tháng Ba 1938, Thủ tướng Tiệp
Milan Hodza tuyên bố Tiệp sẽ đánh trả mọi sự can thiệp quân sự từ nước
ngoài. Năm 1936, 12.5% GNP dành cho quốc phòng so với 13% của Đức. Ngoài
ra, các vùng núi non hiểm trở Bavarian, Saxon và Silesian dọc biên giới
luôn là các phòng tuyến hữu hiệu ngăn chận bước tiến của đoàn quân
Hitler. Sử gia Tiệp Jaroslav Hrbek kết luận “Việc Tiệp Khắc không đánh
Đức ngay cả trong trường hợp đồng minh tây phương không ủng hộ, là một
sai lầm”.
Tuy kết quả khác nhau, việc Mỹ
tham gia thế chiến thứ nhất hay Anh, Pháp tránh né thế chiến thứ hai đều
bị chi phối bởi quyền lợi bức thiết của quốc gia họ.
Trung Cộng không dám đơn phương phát động chiến tranh đánh Việt Nam trước cũng vì bảo vệ quyền lợi và quyền lực
Các
lãnh đạo Trung Cộng từ những bài học chiến tranh thế giới nêu trên và
những thất bại máu xương trong lịch sử Trung Quốc của thời bị tám nước
phân thây sẽ không dám đơn phương phát động chiến tranh xâm lược Việt
Nam với một tầm mức quy mô như chúng đã làm vào ngày 17 tháng 2 năm
1979.
Tại sao?
Những lý do người viết đã trình bày trong loạt bài về hiểm họa Trung Cộng xin tóm tắt dưới đây:
1.
Hoàn cảnh chính trị Đông Nam Á nói riêng và châu Á nói chung đã khác
hẳn so với 35 năm trước. Chiến tranh giữa Trung Cộng và Việt Nam không
còn là chiến tranh giữa hai nước mà là cuộc chiến tranh vùng và có khả
năng cao lôi kéo cả Mỹ và Nhật vào. Kỹ thuật quân sự của Trung Cộng đã
tiến khá xa so với thời kỳ chiến tranh với Việt Nam 1979 nhưng còn quá
yếu so với Mỹ. Trung Quốc là một đất nước có lịch sử phân hóa và nội
phản từ trong xương tủy. Là một nước lớn nhưng Trung Quốc thường không
đủ khả năng bảo vệ chính mình. Đừng nói chi thời cuối đời nhà Thanh bị 8
nước Mỹ và Âu Châu cấu xé mà ngay thời nhà Tống vàng son của Trung Quốc
cuối cùng rơi vào tay Mông Cổ, một nước rất nhỏ trên thảo nguyên phía
Bắc. Và một lần nữa vào thế kỷ 17, khi nhà Minh, một triều đại rất mạnh
về quân sự nhưng cũng không tránh bị tiêu diệt trong bàn tay của Mãn
Thanh nhỏ bé.
2.
Các điều kiện kinh tế toàn cầu ngày nay đã làm cho các cường quốc phụ
thuộc vào nhau nhiều hơn so với 35 năm trước. Nếu có xung đột quân sự,
các quốc gia dân chủ dù thắng hay bại vẫn có cơ hội phục hồi nhưng Trung
Cộng sẽ tiêu vong. Hơn ai hết, giới lãnh đạo Trung Cộng biết chế độ CS
như người đi trên dây, ngồi trên lưỡi dao cạo. Sự ổn định tại Trung Cộng
hiện nay chỉ là sự ổn định tạm thời vì cơ chế chính trị được xây dựng
trên một nền tảng bất ổn. Trong suốt 45 năm từ khi chương trình hiện đại
hóa của Đặng Tiểu Bình ra đời, các thế hệ lãnh đạo Trung Cộng tập trung
vào việc phát triển kinh tế để vừa thỏa mãn nhu cầu vật chất của người
dân và vừa hợp thức hóa vai trò lãnh đạo của đảng Cộng Sản. Tuy nhiên,
hàng hóa của Trung Cộng xuất cảng phần lớn là hàng hóa tiêu dùng và đây
cũng là những loại sản phẩm mà quốc gia nào cũng có thể sản xuất được.
Ngoài ra, các vấn đề môi sinh, ô nhiễm, khan hiếm năng lượng đang là
những mối đe dọa trầm trọng và ảnh hưởng lớn đến cán cân thương mại cũng
như phương tiện nuôi dưỡng cho bộ máy chiến tranh ở tầm mức thế giới
hay khu vực.
3.
Trung Cộng một đất nước hơn một tỉ dân, với hàng trăm chủng tộc, sắc
dân, giọng nói, các khu tự trị. Nhiều vùng tự trị chỉ chờ cơ hội để đòi
độc lập. Quân đội dù có đông đảo và tàn bạo bao nhiêu cũng không thể
ngăn chận hơn một tỉ người cùng có một phản ứng tiêu cực giống nhau. Các
cuộc biểu tình ở Tân Cương cho thấy không nhất thiết phải có một tổ
chức quy mô nhưng chỉ cần một tin ngắn được phát ra đúng lúc và đúng chỗ
cũng có thể tạo nên một biến cố lớn và khi đó, bom nguyên tử, hỏa tiễn,
chiến hạm đều trở thành vô dụng. Với sự phân cách về địa lý và dị biệt
về chủng tộc, sẽ không có một hình thức cách mạng nhung, cách mạng da
cam, da vàng nào dành cho Trung Cộng mà chỉ là cách mạng máu. Cách giải
quyết dùng xe tăng, đại pháo bắng thẳng vào những thanh niên tay trắng
tại Thiên An Môn của Đặng Tiểu Bình đối với phần lớn nhân loại là dã man
nhưng lại phù hợp với truyền thống Trung Quốc. Biến cố Thiên An Môn đã
qua hơn 25 năm nhưng vẫn là mối ám ảnh thường xuyên trong giấc ngủ của
các lãnh đạo CSTQ bởi vì đảng chỉ dập tắt ngọn lửa trên quảng trường
Thiên An Môn nhưng không dập tắt được ngọn lửa chống đối trong lòng
người luôn âm ỉ.
4.
Trung Cộng đang bị bao vây. Hầu hết các quốc gia dân chủ trong vùng từ
Ấn Độ đến Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, Thái Lan, tuy mức độ khác nhau
nhưng đều là các quốc gia đang có những mâu thuẫn căn bản với Trung
Cộng, không những về quyền lợi kinh tế mà cả chế độ chính trị. Vì lý do
kinh tế, họ có thể hòa hoãn hay ngay cả thân thiện với Trung Cộng nhưng
khi chiến tranh bùng nổ, không một quốc gia nào sẽ chọn đứng về phía
Trung Cộng. Tuy phụ thuộc nhau vào nhau về mặt kinh tế không có nghĩa là
các chính quyền Mỹ không xem Trung Cộng là đối thủ nguy hiểm trong
tương lai gần và không có nghĩa Mỹ ngồi yên để nhìn bàn tay tham vọng
của Trung Cộng vươn xa toàn thế giới. Từ thập niên 1990 đến nay, Trung
Cộng luôn chống đối mọi sự liên minh theo dạng “khối quân sự” ám chỉ sự
liên kết giữa Mỹ và các nước Đông Á cũng như sự có mặt của quân đội Mỹ
tại Nhật Bản, Nam Hàn và mới đây tại Trung Á. Để đối phó lại các liên
minh quân sự khối, Trung Cộng cố gắng phát triển mối quan hệ đa phương
với Nga và các quốc gia nhỏ khác vùng Trung Á như Kazakhstan,
Kyrgyzstan, Tajikistan, Uzbekistan qua Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO),
tuy nhiên các liên minh này chưa phải là đối trọng của các khối thân
Mỹ.
5. Chính sách của Trung Cộng đối với
CSVN là vừa lấn chiếm, vừa đe dọa nhưng cũng vừa bảo vệ cơ chế CS. Mặc
dù không công khai tuyên bố, giới lãnh đạo CSTQ cũng biết hiện nay chỉ
còn năm quốc gia theo một loại chủ nghĩa mà giáo sư sử học Roderick
Macfarquhar, thuộc đại học Harvard, gọi là chủ nghĩa Lê Nin không có
Mác, tức một nhà nước chuyên chính sắc máu nhưng không còn dựa trên nền
tảng triết lý duy vật. Hai cơ chế chính trị CSTQ và CSVN có một mối quan
hệ hữu cơ mật thiết với các yếu tố tương quan và phụ thuộc vào nhau. Sự
lệ thuộc về chính trị của Việt Nam vào Trung Cộng không chỉ giúp để giữ
an toàn phòng tuyến phía nam mà còn tránh sự sụp đổ dây chuyền trong
trường hợp cách mạng dân chủ tại Việt Nam diễn ra trước. Giới lãnh đạo
CSVN không có vị trí độc lập về chính sách đối ngoại. Mọi chủ trương,
chính sách trước khi đưa ra đều phải đo lường phản ứng từ phía Trung
Cộng.
Chính sách đối ngoại kiểu chuột đồng của Trung Cộng hiện nay
Trung
Cộng theo đuổi chính sách đối ngoại như cách loài chuột đồng tàn phá
mùa màng. Chúng tàn phá cả cánh đồng Việt Nam bằng cách gặm nhấm từng
bụi lúa. Như đã và đang áp dụng ngay từ khi chiến tranh Việt Nam chưa
chấm dứt qua các sự kiện dời cột mốc biên giới, Trung Cộng không đánh
chiếm mà chỉ từ từ gặm nhắm dần mòn lãnh thổ và lành hải Việt Nam. Một
mặt chúng lớn tiếng với quốc tế là luôn theo đuổi chính sách “hòa bình”
và “ổn định” nhưng mặt khác lấn chiếm từng thước đất, từng bãi san hô,
từng hòn đảo nhỏ trên biển Đông, đặt những giàn khoan trong thềm lục địa
Việt Nam. Những hành vi ăn cắp vặt này không đủ va chạm quyền lợi nặng
đến mức các cường quốc phải đặt vấn đề và các biến cố do chúng gây ra
không đủ tác hại an ninh khu vực đến mức quốc tế phải quan tâm.
Trung
Cộng làm vậy, một phần vì chúng đi guốc trong bụng các lãnh đạo CSVN.
Ngoài các tuyên ngôn, tuyên cáo mang nội dung giống hệt từ sau chiến
tranh biên giới đến nay, lãnh đạo CSVN không có một hành động nào cụ thể
để bảo vệ lãnh thổ Việt Nam. Những lời phản đối rỗng của Lê Hải Bình
không gây một tác hại gì và mũi khoan của HD-981 vẫn tiếp tục ghim sâu
vào lòng biển Việt Nam. Các thế hệ lãnh đạo CSVN che giấu sự phụ thuộc,
sự sợ hãi chiến tranh với Trung Cộng, tham vọng quyền lực và quyền lợi
trong khẩu hiệu “hòa bình và ổn định” mà quên một điều Trung Cộng ngại
chiến tranh hơn bất cứ một quốc gia nào trong vùng.
Đại
đa số nhân loại không muốn chiến tranh, nhất là Việt Nam một dân tộc đã
chịu đựng quá nhiều đau thương mất mát vì chiến tranh lại càng không
muốn chiến tranh. Thế nhưng, nếu chiến tranh phải đến lần nữa trên đất
nước Việt Nam hãy đến càng sớm càng tốt, hãy đến khi Trung Cộng còn yếu,
hãy đến khi quyền lợi các cường quốc bị va chạm và buộc phải tham gia
can thiệp. Trung Cộng không có gì đáng sợ mà chỉ sợ lòng yêu nước trong
mỗi người Việt Nam chưa đủ độ sục sôi.
tác giả: Trần Trung Đạo
0 comments:
Post a Comment