Học thuyết “Chính Danh”[1]
của Khổng tử không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực chính trị, cai trị,
mà còn được ông áp dụng trong cách gọi tên sự vật, đồ vật, ý niệm… ứng
dụng ở đúng vị trí, không được lẫn lộn, không được tùy tiện…
[a] danh bất chính tất lời nói không thuận. Lời nói mà không thuận tất
việc chẳng thành… Còn khi [b] quan niệm được danh, ắt nói ra được, mà
nói ra được tất làm được. [c] Người quân tử nói ra điều gì nên dè dặt
không cẩu thả được!” [Học thuyết “Chính Danh” — Khổng tử trong Luận Ngữ]
Rõ
ràng, ngày 30 Tháng Tư năm 1975 là một ngày lịch sử trọng đại. Không
ai có thể chối cãi, gạt bỏ, quên đi. Đó là một ngày đáng ghi nhớ.
Nhưng ý nghĩa của ngày đó tùy thuộc vào đối tác và hiệu ứng liên hệ.
Nhưng danh chính ngôn thuận vẫn là căn bản đối chiếu và định hướng cần
thiết cho việc xác định “chính danh” của “ngày 30 Tnáng Tư” này.
1. Đối với Đảng CSVN và những Thành Phần Nhị Trùng, Cận Thị, Lú lẫn, Tự mãn
Đối
với Đảng CSVN vừa đoạt quyền và những thành phần nội tuyến hay liên kết
“giai đoạn” trên, Ngày 30 Tháng Tư được gọi là ngày vui của kẻ “thắng
cuộc”, của các nhân vật lịch sử đáng “ngưỡng mộ”.
Nhưng
thực sự đó lại là ngày liên hoan hão của kẻ “thắng cuộc” ảo, vì ngày đó
chỉ là sao ảnh của một chuỗi dài thủ đoạn chính trị lừa đảo, bất chính.
Thực
chất của cuộc chiến Việt Nam (1955-1975) từ đầu cho tới cuối, hoàn toàn
“không ăn nhập gì tới lòng ái quốc, yêu nước thương dân”, mà báo chí Tây
Phương thường gán ghép để có cớ ca tụng Hồ Chí Minh và đảng VC trong
suốt cuộc chiến. Đối với Liên Xô thời đó, gây chiến “lại là kế hoạch nô
lệ hoá toàn cầu của cộng sản đệ tam quốc tế”. Ðiều này cũng đã được
nhiều cán bộ cao cấp của VC như Trần Bạch Ðằng, Võ Văn Kiệt xác nhận.
Hậu cứ cuộc chiến không phải tại Hà Nội, mà ở Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh.[2]
Ngay
từ cuối năm 1924, Hồ Chí Minh chỉ là một tay thừa hành của khối cộng
sản đệ tam quốc tế: như khi còn là Nguyễn Ái Quốc, rồi Lý Thụy, Hồ Chí
Minh từng làm cán bộ thông dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ
Liên Xô bên cạnh Chính phủ Trung Hoa Dân quốc, do Mikhail Markovich
Borodin làm trưởng đoàn; hay khi phát động những đợt “cải cách ruộng
đất”, cố sát tập thể từ năm 1953 tại vùng Thanh Hoá, Liên Khu IV tới năm
1956, trên khắp miền Bắc, dưới sách động trực tiếp của Trường Chinh,
Tổng bí thư Đảng và đương nhiên dưới quyền chỉ đạo của thủ lãnh Hồ Chí
Minh. Mọi chương trình giết hại dân, thổ phỉ đều rập khuôn theo mưu đồ
Trung Cộng và trịnh trọng khai báo với Staline. Vậy, căn cứ vào thuyết
“Chính Danh”, Hồ Chí Minh không bao giờ là một nguyên thủ quốc gia, một
“minh vương” tân thời đáng trọng vọng, “ngưỡng mộ”. Trái lại, Hồ Chí
Minh chỉ là một tên “bạo chúa”, một “quân tàn tặc”.
Kể
cả trong các cuộc chiến miền Bắc và mặt trận Điện Biên Phủ [1954],
chính các cố vấn Trung Cộng do Vy Quốc Thanh, Lã Quí Ba cầm đầu đã đánh
thắng quân Pháp chứ không phải là “danh tướng” Võ Nguyên Giáp. Ông ta
chỉ là người thi hành kế hoạch do cố vấn Trung Quốc Vy Quốc Thanh đề ra.
Sự giúp đỡ của Trung Cộng còn tiếp tục trong cuộc chiến xâm lăng miền
Nam [1963-1975].
Như
vậy, với ngày 30 tháng Tư 1975, không hề có thực trạng “Giải phóng” vì
sau khi chính sách chiếm đóng và thống trị miền Nam đã được thực hiện,
Bắc Phủ Bộ loại bỏ ngay Mặt trận Dân tộc Giải Phóng miền Nam Việt Nam,
như một dụng cụ phế thải, không cần thiết nữa.
Ngày
30 tháng Tư 1975 cũng không hề giành lại “độc lập” và “chủ quyền” cho
dân tộc, cho đất nước, khi đảng Cộng Sản Việt Nam từ 1950 tới 1975 đã
dựa vào Trung Cộng quá nhiều, nên sau đó phải trả nợ. Hậu quả là Việt
Nam, từ ranh giới, núi rừng, biển đảo, tới toàn bộ chính quyền đang mất
dần vào tay Trung Cộng. Như vậy, không những chỉ người dân miền Nam
Việt Nam —kẻ thua trận sau ngày 30 tháng Tư 1975—, mà là cả dân Tộc Việt
Nam đã và đang “mất nước”, mất tự do, hạnh phúc, an sinh, mất danh dự
làm người có căn cước gốc Việt chân chính, tử tế, nhân đạo.
Ngày
30 tháng Tư cũng chưa thực sự là “Ngày Hoà Bình” trên đất nước, trong
lòng dân, khi triệu triệu con người đi tù, đói khát, chọn lựa tẩu thoát
bằng chân, bằng tàu bè, bằng nhiều cách tự sát, chọn cái chết liều lĩnh
để thay cái chết khốn nạn. Do đó, thực tế, ngày 30 tháng Tư 1975 đang
xô đẩy CSVN vào tử lộ — không lối thoát, vì sau khi hết chiến tranh, sau
khi đã tạm bợ “thống nhất” đất nước, CSVN hết luôn cơ hội trì hoãn, hứa
bậy, nói láo: Miền nam Việt Nam và Sài Gòn đã làm quân đội, cán bộ và
nhân dân miền Bắc “sang mắt”, giác ngộ. Cũng ngày 30 tháng Tư đó, cụu
đảng viên CS và nhà văn Dương Thu Hương đã phải khóc và công nhận: “30
tháng Tư 75, nền văn minh đã thua chế độ man rợ”. Bà và các thế hệ trẻ
miền Bắc đã bị Đảng lừa. Kể cả cựu thượng tá Bùi Tín, sau khi “đào ngũ”
tại Pháp, cũng phải phát động xám hối:
“Tôi
bỏ hết danh vọng hão, chức tước phù du, huân chương mai mỉa, tự hổ thẹn
từng cao ngạo vô duyên về chuyện vào dinh Độc lập sớm, xế trưa ngày
30-4, vớ vẩn lạc điệu cả, cá nhân lầm lạc, ngộ nhận hết. Để làm gì cơ
chứ? Để đất nước ra nông nỗi này ư ? Độc lập, không! Tự do, không ! Chủ
quyền, không ! Về mặt nào cũng đứng dưới 100 nước khác!”
Tình
trạng trên cho phép xác định rằng, [a] đối với đảng CSVN tiếm quyền
thực-dân thì ngày 30 tháng Tư đáng gọi là “Ngày Cộng Sản Lừa Đảo Trường
Kỳ”; còn đối với [b] toàn dân bị tước đoạt của cải, đời sống, tự do, an
sinh — ngoại trừ một thiểu số đảng viên CS lì lợm, tân đại gia kẹt ăn,
kẹt nói — thì đó là “Ngày Toàn Dân Đau Nhục Sợ Hãi”. Đau đớn, bẽ bàng vì
mất lòng tin, mất chính nghĩa, mất danh dự, bị lừa đảo. Tủi nhục vì tù
đày, oan ức, túng thiếu, chậm tiến; Sợ hãi vì bị đe doạ, nô lệ hoá,
khai trừ ngay tại đất nước mình; vì bị ngược đãi bởi người cùng xứ sở,
bởi cái chế độ quan liêu nửa mùa, ông không ra ông, thằng không ra
thằng.
2. Đối với Hoa Kỳ
Gắn liền với cuộc chiến Việt Nam có dấu ấn của Chủ Nghĩa Be-bờ [Containment Doctrine].[3] Chính sách này được liên tiếp đôn đốc bởi 6 Tổng Thống Hoa Kỳ từ sau Đệ nhị Thế Chiến tới thập niên 70 nhằm:
- khẳng định nguy cơ của khối cộng sản chuyên chế sẵn sàng xâm nhập thế giới tự do trong cuộc “Chiến Tranh Lạnh” [Cold War].[4]
- tránh “hiệu ứng Domino” [“domino effect”][5] gây cảnh các quốc gia tuần tự đổ theo khi một quốc gia lân cận bị cộng sản chiếm đoạt.
- Về mặt quân sự, Chủ Nghĩa Be-bờ chỉ chú trọng tới hình thức “ngăn chặn, đề phòng” trong thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”,
- hoặc nếu có xung đột, thì áp dụng sách lược “Chiến tranh hạn chế” [“limited war” policy].
Điển hình, tuy đã cho phép Douglas MacArthur vượt vĩ tuyến 38 tiến đánh
Bắc Hàn, Truman vẫn khiển trách danh tướng này đã chủ động “quyết
thắng” hơn là thi hành thuần Chủ Nghĩa Be-bờ, mà về mặt quân sự,
MacArthur chê là một giải pháp nhì nhằng “Không-Cốt-Thắng” [“No-win policy”].[6]
Chủ nghĩa Be-bờ diễn tiến tại Việt Nam như một vở tuồng bốn màn:
- Khai mở với sáng kiến của TT Truman & TT Eisenhower ủng hộ TT Ngô Đình Diệm;
- xác định vị trí “be-bờ“ do TT JK Kennedy & Cố Vấn Bundy dùng Việt Nam làm thí điểm;
- biến hoá cao độ với TT Lyndon Johnson;
- để lần lượt tụt hậu và chấm dứt trong “danh dự”,[7] với TT Nixon và ngoại trưởng Kissinger, ngoài sự mong muốn của TT Nguyễn Văn Thiệu.
Sự
thực cả bốn hoạt cảnh đó gom lại vẫn chỉ là “bề diện ngoài” của một ý
đồ bền bỉ, vốn là cái tâm của Chủ Nghĩa Be-bờ: quyền lợi của Tư bản Hoa
Kỳ. Căn cứ vào chính ngôn từ của Chủ Nghĩa Be-bờ, cuộc chiến hạn chế ở
nhiều mặt trận trên thế giới và tại Việt Nam nhằm :
- vừa có tác động be-bờ bảo toàn an ninh cho từng khu vực,
- vừa làm hao mòn đối tác của cuộc chiến hạn chế, kéo dài, chuyển hoá;[8]
- Nhưng
cũng có thể bị mắc kẹt vào cái nạn lạm phát của đà vận chuyển guồng máy
sản xuất do tư bản ứng vốn. Tiềm lực phồn thịnh lên xuống, đôi khi
mang tai ách của hiện tượng mà chính TT Eisenhower e ngại: trí tuệ,
thiện tâm đôi khi bị chi phối và lạm dụng bởi cơ sở liên kết “Tập
Đoàn-Kỹ Nghệ-Quân Sự” [Military Industrial Complex].[9] Cái phương thức đấu tranh cho lẽ phải và hoà bình đôi khi quá đắt, quá đáng: “This
conjunction of an immense military establishment and a large arms
industry is new in the American experience…In the councils of
government, we must guard against the acquisition of unwarranted
influence, whether sought or unsought, by the military-industrial
complex. The potential for the disastrous rise of misplaced power
exists and will persist. We must never let the weight of this
combination endanger our liberties or democratic process.” — President Dwight Eisenhower.[10]
Với
cái “tâm” của Chủ Nghĩa Be-bờ trên, chúng ta thấy rõ là lý do tại sao
chính thể và quân đội Việt Nam Cộng Hoà chỉ được phép “thi hành” một
trận chiến phòng thủ, vừa tiêu mòn, vừa luộm thuộm, vì không ai [kể cả
tướng tá Hoa Kỳ] có sáng kiến “đánh thực/thắng thực” [Không-Cốt-Thắng/“No-win policy”/ như
MacArthur than phiền thời chiến tranh Cao Ly/Triều Tiên], nhất là khi
“đồng minh” Việt Nam không hề “thực sự” được giao quyền sở hữu cuộc
chiến lẫn định mệnh sống còn. Quân dân Miền Nam Việt Nam tranh đấu
không khác gì những “con cờ người” đem nhiệt tình máu mủ vào một “bàn cờ
chính trị quốc tế” viễn kiểm bằng trí tuệ và quyền lợi tài phiệt vô
cảm. Chúng ta biết cảm ơn những binh sĩ trẻ đã tới Miền Nam bảo vệ tính
mạng dân chúng và những chính khách, chuyên viên có thiện chí thực sự
thi hành công cuộc “be bờ” tạo dựng dân chủ non nớt. Nhưng chúng ta vẫn
ai oán khi “chính trị thực tế” [Real Politics] cho thấy chúng ta
thực sự không có chủ quyền quyết định về vận mệnh của chúng ta, ngoài
việc nhận lấy những việc đã rồi, xắp xếp sau lưng chúng ta, không một
chút liêm sỉ và không mấy thướng xót cho kẻ đồng hành, đồng minh kém vế.
Quyền
lợi của các tài phiệt sản xuất nhu liệu chiến tranh mỗi lúc mỗi tăng
trưởng, mỗi lúc mỗi phân hoá, biến thể làm hao hụt công quỹ và tài lực
của dân chúng. Tổng kinh phí của chiến tranh tại Việt Nam lên tới 111
Tỷ Mỹ Kim [khoảng hơn 700 tỷ Mỹ Kim theo vật giá năm 2008], dù hạn chế
vừa đủ để nuối dưỡng cái lò cơ khí đạn dược siêu đẳng này, một lúc nào
đó sẽ bị coi là quá đáng, quá mức chịu đựng của công quỹ Hoa kỳ. Dân
chống đối, vì thuế cao, đời sống đắt đỏ. Một số chính khách đã cho rằng
CS “thắng cuộc chiến tại Việt Nam trên đường phố Hoa Thịnh Đốn”. Thật
vậy, Việt Nam đã mất vào tay CS ngay trong phòng sinh hoạt gia đình tại
Hoa Kỳ, chứ không phải nơi chiến trường tại Việt Nam [Vietnam was lost in the living rooms of America–not on the battlefields of Vietnam].[11]
Và
khi tư bản Hoa Kỳ thấy hết lời, hết lợi ích đầu tư, họ rút vốn xoá bài,
và mặt trận tiêu thụ nhu liệu đó chấm dứt cái một. Đó là lý do Hiệp
Định Paris được ký kết một cách ép uổng [đối với VNCH] vào năm 1973 và
sau đó mọi cam kết, hứa hẹn trợ giúp quân sự, bảo trọng thành trì cũng
bị nuốt lời, tẩy xoá. [lý do: Hiệp Định Paris không được Thượng Nghị Viện Hoa Kỳ chuẩn chấp—The agreement was not ratified by the U.S. Senate][12]
Vậy
Ngày 30 tháng Tư 1975, khi Đại sứ Graham Martin vội vã lên trực thăng
tẩu thoát khỏi Sài Gòn thì thời điểm đó có thể gọi là “Ngày Tư Bản Hoa
Kỳ Dẹp-Tiệm-Danh-Dự ” trên mảnh đất Việt Nam thua lỗ, để ít lâu sau giới
đầu tư mở vài cửa tiệm khác lời lãi hơn tại Thượng Hải và Bắc Kinh,
đúng theo nhu cầu, quyền lợi và truyền thống trọng thương của các con
buôn Corporate America, luôn luôn có luật sư và chuyên viên an ninh, kinh tài tư vấn, và được các “lobbists” đôn đốc quyền lợi đặc biệt nơi thâm cung [special interests & inner circle] cần móc nối.
3. Đối Với Đa số Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản [VTNCS] tại Thế Giới Tự Do và Các Nạn Nhân Bị Kẹt Trong Nước
Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản [VTNCS] là ai?
Họ
không phải là “Việt kiều”, những “người Việt ở nước ngoài”, những di
dân kinh tế, du sinh, hay dân chúng du lịch xuất ngoại rồi ở lì “nước
ngoài”. Trái lại, họ là gần 3 triệu người dân Việt chung một số phận
lịch sử, một căn cước “Tỵ Nạn Chính trị” [“political refugees”]
mà báo chí ngoại quốc gọi là “exilés politiques” hay “Vietnamese
Diaspora” [cùng hoàn cảnh, vị thế, thân phận của nhóm người Do Thái mất
nước, tỵ nạn tại nước ngoài].
Những
người “Tỵ Nạn Cộng Sản” này đã phải trốn bỏ đất nước, bằng đủ cách lén
lút đường bay, đường biển, đường bộ. Họ đã từng chấp nhận mọi hoàn cảnh
nguy nan, hãm hiếp, chết chóc, cốt để ra khỏi địa ngục trần gian của
Bác và Đảng. Họ được xếp loại di dân đặc biệt, với những chứng minh thư
như Parolee I-94, ODP, HO, chung gốc “political refugees”, hay “réfugiés politiques”, “exilés”, “diaspora”.
Họ luôn luôn là Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản vậy. Nếu ai khước từ danh
xưng này sẽ gập trở ngại với luật di trú, coi như vi phạm vì dối trá,
gian lận [fraud] lúc khai báo nhập cảnh, và như thế bất cứ lúc nào cũng có thể bị trục xuất.
Dù
ngày hôm nay họ có quốc tịch mới nơi trú ngụ [tại Hoa kỳ, Gia Nã Đại,
Úc, Pháp, Đức, Na Uy, Nhật v.v.], nhưng họ vẫn cùng gốc gác người Việt
chuộng tự do nhân bản bị đầy khỏi nước, trực tiếp hay gián tiếp. Họ
xuất xứ từ miền Bắc, miền Trung, tỵ nạn CSVN từ 1954. Họ hoà nhập với
người dân hiền lành miền Nam Việt Nam để xây dựng và nhận hưởng một nền
dân chủ non nớt, khó khăn thời chinh chiến. Cuối cùng, từ ngày 30 tháng
Tư 1975, Họ chỉ là những người Việt tứ xứ, có chung một đất nước, một
chính thể tự do, bị CSVN đánh tháo từ Mùa Thu 1945, chiếm đoạt năm 1954,
rồi 1975. Vậy những người VTNCS không phải là những người vô tổ quốc [apatrides],
mà là những người có tổ quốc, nhưng tổ quốc của họ đã bị CS quốc tế
cướp mất. Như người bị kẻ gian cướp đoạt nhà cửa, tài sản, rõ ràng họ
đang mất cửa, mất nhà, mất tài sản, nhưng về mặt pháp lý họ vẫn là sở
hữu chủ thực sự của căn nhà, tài sản bị cướp đoạt. Vậy dù người Việt Tỵ
Nạn CS ngày nay đang bị CSVN tước đoạt đất nước, nhà cửa, và cũng có
thể còn bị CSVN cầm cố, chuyển nhượng cho Trung Cộng, nhưng về mặt pháp
lý, công lý và chính nghĩa, người Việt Tỵ Nạn CS vẫn là công dân của đất
nước và chính thể tự do mà CSVN đã phá hoại, tước đoạt. Người VTNCS có
quyền truy hoàn tư cách công dân của họ đối với đất nước Việt Nam
nguyên thủy, trước cũng như sau nền đô hộ cộng sản. Vậy người VTNCS
đang mất nước có quyền truy thu song tịch [Mỹ-Việt/Pháp-Việt/Úc-Việt/Gia
Nã Đại-Việt], đồng thời truy sách tài vật, nhà cửa, đất nước bị tước
đoạt, đánh cắp.
Vậy Đối Với Đa số Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Thế Giới Tự do và Các Nạn Nhân Yêu Chuộng Bị Kẹt Trong Nước, ngày 30 tháng Tư 1975 phải là “Ngày Quốc Hận” vì:
Nhóm
chữ “Quốc Hận” là một phạm trù, một khái niệm tổng quát bao gồm những
quan hệ lịch sử, pháp lý, chính trị, tình cảm dân tộc mà chỉ người Việt —
người trong cuộc — mới hiểu, mới có quyền xác định, gìn giữ như một kỷ
vật linh thiêng, một dấu ấn biểu tượng gắn bó bằng máu mủ, nước mắt và
hy vọng sinh tồn.
Nhóm chữ “Quốc Hận” bao gồm:
- cảnh đau đớn, nhục nhã “mất nước” từ 1954;
- sự
hãi hùng, oán hận trong “Tháng Tư Đen” 1975 khi người dân yêu chuộng hoà
bình, cố gắng bảo vệ tự do trên mảnh đất nhân bản miền Nam Việt Nam
thấy rõ hậu quả của thế lực “đồng minh Hoa Kỳ” bội ước [breach of contract] trong “cam kế” be-bờ cộng sản, xây dựng dân chủ chân chính tại mảnh đất tiền đồn chống Cộng tại Đông Nam Á;
- nỗi
ân hận, tủi nhục khi lỡ tính, lỡ chân bị kẹt lại trong nước chìm đắm
trong bể khổ của phản trắc nô lệ hoá cả một dân tộc, kẻ bị tù dày, ruồng
bỏ, người bị chậm tiến, đói khát, bóc lột, trường kỳ vô gia cư, vô tổ
quốc ngay tại xứ sở của mình, hay nơi đất khách quê người.
Nếu muốn chuyển hoán nhóm chữ “Ngày Quốc Hận” của Ngày 30 tháng Tư sang ngoại ngữ thì phải cân nhắc, đi sâu vào ý nghĩa căn bản, vào cái tâm của ngữ cảnh [etymological context] đa nguyên, đa dạng trên. Đó có thể là những chữ ghép tương tự của “Vietnam Mourning Day”, “Fall of South Vietnam Memorial Day”, “Vietnam calamity Remembrance Day” [Tưởng Niệm Ngày Quốc Nạn], “Journée Vietnamienne de Deuil National”, hay gọn gàng, sắc bén là “VC-Hatred Day” để ghi rõ sự ghét bỏ CSVN như một điều bất hạnh trọng đại; một tai ương ghê tởm về ý thức hệ thuộc tội phạm nhân loại.
Những từ ngữ hay dịch thuật như “Remembrance Day” [Ngày Tưởng Niệm] và “Ngày Diễn Hành Cho Tự Do (“March for Freedom”) lại
có vẻ quá mông lung, vô vị, không minh thị trực diện nội vụ, không đủ
tầm vóc so với cảnh khốn khổ, tận cùng bi đát của Ngày 30 tháng Tư tại
Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. “Tự do” ư, “Mất Mát Được Đền Bù” ư?
Quá đắt đối với người bỏ nước ra đi tìm tư do với bao nhiêu hy sinh,
mất mát, hãm hiếp, chết chóc. Nhưng lại quá nhỏ, khi chỉ có vài triệu
người mừng hão trong nước, hay một thiểu số may mắn hưởng thụ tự do,
thành đạt, tiến bộ nơi đất khách quê người trong khi hơn 80 triệu người
Việt còn đau khổ, bị kẹt trong nước, đang khốn đốn, thất thểu, chịu cảnh
tù đày, hủy hại dưới ách đô hộ thực dân, dã man, quỷ quyệt của CSVN.
Còn gần đây, lại xẩy ra hiện tượng vô duyên [“…đối diện bất tương phùng”] hay “danh bất chính tất lời nói không thuận”, khi có thêm Nghị Quyết SJR 455 với “Quyết
định bởi Thượng Viện Virginia, cùng với Hạ Viện, Rằng Hội Đồng khoáng
đại, định danh hiệu ngày 30 tháng Tư, 2013 và mỗi năm sau đó, là “Ngày
công nhận người Nam Việt Nam tại Virginia” (RESOLVED
by the Senate of Virginia, the House of Delegates concurring, That the
General Assembly designate April 30, in 2013 and in each succeeding
year, as South Vietnamese Recognition Day in Virginia).[13]
Đương nhiên, trong một xã hội tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và chính kiến [First Amendment Free Speech Rights] như
tại Virginia của Hoa Kỳ, ai cũng có quyền có ý kiến chân chính, tuyên
bố lập trường một cách thành khẩn, nhưng được những ai hưởng ứng mới là
điều quan trọng. Chúng ta hãy đợi Ngày 30 tháng Tư 2013 và những năm kế
tiếp xem có bao nhiêu công dân Virginia/Hoa Kỳ gốc Việt tham dự nghi
thức tôn vinh “Ngày công nhận người Nam Việt Nam tại Virginia” [South Vietnamese Recognition Day in Virginia] thay vì “Ngày Quốc Hận”.
Muốn hiểu sự đau đớn, tủi nhục, ghê tởm của người Việt Tỵ Nạn CS và của toàn dân Việt Nam bị CSVN đô hộ, bị Trung Cộng doạ nạt, xúc phạm, hành hạ hằng ngày thì người Mỹ, người Âu Châu và người Do Thái phải vạch rõ, coi rõ, nhớ lại, nhớ mãi [chứ không “liếm”] vết thương đau kinh hoàng của chính họ, của dân tọc họ. Đó là những Ngày Xâm Chiếm [Occupation Day] các Thủ Đô Âu châu bởi Đức Quốc Xả, bởi Nga Xô, trước và sau Đệ Nhị Thế Chiến; Mùa Tưởng Nhớ Holocaust của toàn dân Do Thái [dù họ có quốc tịch Pháp, Đức, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, v.v.]; và gần đây Ngày Khủng Bố September 11 ngay tại thị trấn New York, ngay trong “lòng đất” của Hoa Kỳ. Dan Rather ngày hôm đó lên đài CBS khóc và tự hỏi “Why did the terrorists hate America so much they wanted to destroy it?” [Tại sao quân khủng bố thù ghét Hoa Kỳ quá độ đến nỗi muốn tiêu diệt đất nước này?]
Những
người Việt Tỵ Nạn CS và tất cả những người Việt Nam tự trọng, yêu
chuộng hoà bình, tự do nhân bản bị kẹt trong nước ngày hôm nay mà còn cố
tình hay vô tình phủ nhận hay ngờ vực Ngày 30 tháng Tư là “Ngày Quốc
Hận”, thì quả thật họ có “vấn đề”, hoặc lú lẫn nên dễ quên, hay có sạn
trong đầu nên chậm hiểu, chậm tỉnh ngộ. Chúng ta không cần đếm xỉa tới
những con xâu nhị trùng, ăn bám, ăn thừa cặn bã các đại gia mafia CSVN.
Họ chỉ là trò cười của chính họ. Tự hề. Tự thải.
4. KẾT LUẬN
Xin
nhắc lại và nói thật rõ: Ngày 30 tháng Tư 1975 không hề giành lại độc
lập và chủ quyền cho dân tộc, cho đất nước, khi đảng Cộng Sản Việt Nam
từ 1950 tới 1975 đã dựa vào Trung Cộng quá nhiều, nên sau đó phải trả
nợ. Hậu quả là Việt Nam, từ ranh giới, núi rừng, biển đảo, tới toàn bộ
chính quyền đang mất dần vào tay Trung Cộng. Như vậy, không những chỉ
người dân miền Nam Việt Nam — kẻ thua trận sau ngày 30 tháng Tư 1975 —,
mà là cả dân Tộc Việt Nam đã và đang “mất nước”, mất tự do, hạnh phúc,
an sinh, mất danh dự làm người có căn cước gốc Việt chân chính, tử tế,
nhân đạo.
Sự
thật vẫn là sau 40 năm lang bạt khắp nơi trên thế giới, Người Việt Tỵ
Nạn Cộng Sản và con cháu họ đã đã thu hồi tự do và lẽ sinh tồn với giá
hy sinh rất đắt, vượt bực. Dù họ và con cái họ đã trở thành những phần
tử hài hoà, ưu tú nơi họ tới lập nghiệp, hội nhập, thân phận họ, căn
cước họ vẫn thuộc “gốc tỵ nạn/refugees”, đầy ám ảnh hà hiếp, đầy thương
tích ngược đãi cộng sản. Con của người viết là một luật sư thuộc LSĐ
New York và được chọn làm khoa trưởng tại một Đại Học Hoa kỳ, trong phần
“Tóm lươc Tiểu sử/Résumé/Curriculum Vitae” đã ghi mình có “Refugee
DNA”: Thân phận máu mủ mình có “thông tin di truyền Tỵ Nạn”.
Trong
tinh thần đó, người Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản có đủ thẩm quyền lịch
sử, truyền thống và pháp lý [có gia phả gốc gác, căn cước, thẻ tùy thân,
sổ thông hành, chứng minh thư sở hữu tài sản, quốc tịch v.v.] để nói
mình “mất nước”, bị tước đoạt căn cước, thân phận và tài sản, và do đó
có đủ tư cách kêu gào, công bố, nhắc nhở, bảo trọng “Ngày Quốc Hận”.
Những người trong cuộc, những phần tử của tập thể nạn nhân cần bảo
trọng hành vi trọng đại, cao thượng của người Việt còn khí phách tôn
trọng lịch sử oan trái, còn cố gìn giữ ngày lễ “mặc niệm” linh hồn tử
sĩ đã hy sinh cho tổ quốc, cho “cố quận”, cho dân tộc. Việt Nam Cộng
Hoà bị bức tử, dân tộc bị chết oan, tù đày, nô hoá mãi mãi phải được ghi
nhận là một Quốc Nạn trong dòng lịch sử Việt.
Đến
ngày nay, 40 năm sau ngày 30 tháng Tư 1975, đa số người Việt trong và
ngoài nước không hề quên những tội ác của CSVN, những hành vi bất nhân,
những bạo hành ám hại dân, phá hoại đất nước của một chế độ tồi tệ, gian
ác, nhiễm trùng, nhiễm độc. Và đến ngày nay, đa số Người Việt Tỵ Nạn
CS không hề a tòng với kẻ phạm pháp, và cũng không hề mong muốn Cộng Sản
tiếp tục thao túng trên đất nước hay phá hủy dân tộc Việt Nam ở bất cứ
đâu.
Đúng,
tuy Hiến Pháp Việt-Rừng-Rú vẫn ngoan cố duy trì Điều 4 và những điều kế
tiếp tương tự, thực tình thì bè lũ hậu duệ của đám thờ phụng “Tư Tưởng
và Đạo Đức Hồ Chí Minh” [sic] không còn là thứ cộng-sản-chính-thống hay
chính-quy-đội-nón-cối-đi-dép-râu nữa, nên đã có người nhẹ dạ hay cận thị
đã tự nhủ “chả cần chống cộng làm gì … khi không còn cộng”!? Nhưng
thật ra, chúng ta vẫn còn nhu cầu gạt bỏ cái tổ hắc đảng cường hào ác bá
của thế kỷ 21, cái băng đảng mafia tư bản đỏ vua chúa lỗi thời đó, dù
họ có đổi danh tính, bôi phấn quét vôi để tân trang căn cước hay nguỵ
tạo nhãn hiệu. Họ vẫn là họ, vẫn ác với dân, hèn với giặc; vẫn cho công
an đánh đập dân oan; vẫn bỏ tù công dân vô cớ; vẫn tước đoạt từ cái
đinh, cục đất của dân, từ bạc cắc tới bạc tỷ của thiên hạ. Họ hết là
tên du kích lái xe đạp đi đấu tố để tự lột xác và tự thăng cấp thành
ngài đại gia, quan ủy viên, ngài bộ trưởng vung tay bán nước hay sách
nhiễu vô chừng. Đã tới lúc vở tuồng “Hát Bộ” lai căng Tớ-Tầu này chấm
dứt. Nhưng vẫn cần có người “trong cuộc” —người dân Việt — ra tay kéo
màn, nậy nọc độc.
Chỉ
khi CSVN cáo chung, khi toàn dân Việt Nam truy hồi lại đất nước, đòi
được lại ranh giới, núi rừng, biển đảo; truy sách lại tài sản, tự do,
nhân phẩm ngay trên xứ sở mình; và dõng dạc tuyên bố trả lại sự thật cho
lịch sử và tư tưởng Việt, chỉ lúc đó, giai đoạn đó mới hết có “Ngày Quốc Hận”.
Lưu Nguyễn Đạt, PhD, LLB/JD, LLM
Virginia, USA, April 26, 2013
Cập nhật April 4, 2015
CHÚ THÍCH:
[1]
Học thuyết “Chính Danh”, tuy được Khổng tử phát huy cách đây hơn 2500
năm, vẫn còn giá trị tới ngày nay, tùy theo hoàn cảnh nhân bản, xã hội,
lịch sử thích ứng. Ý niệm và các tiêu chuẩn căn bản của thuyết “Chính
Danh” vẫn là:
- Khổng
tử nói: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử.” Nghĩa là vua phải ra
vua, bề tôi phải ra bề tôi, cha phải ra cha, con phải ra con. Tức là
người nào ở vị trí nào thì phải ứng xử ở vị trí đó, không được lẫn lộn,
không được tùy tiện, phải tuân theo phép tắc, quy củ của xã hội đã quy
định.
- Thuyết
chính danh của Khổng Tử khi ứng dụng trong việc trị nước còn mang phán
quyết “giết một bạo chúa là giết một tên thất phu” của Mạnh, bắt bọn cầm
quyền phải có đức, phải thương dân”. Chừng nào mà vua còn làm tròn
thiên mệnh, nhân dân dưới quyền cai trị của vua được hưởng hòa bình và
hạnh phúc thì đó là vua hiền, con người vua là thiêng liêng và bất khả
xâm phạm. Muốn như vậy vua còn phải làm tròn trách nhiệm của một ông
vua. Trái lại, nếu đó là một ông vua ác độc, mà sự cai trị hà khắc, thất
đức, làm cho nhân dân điêu đứng khổ sở, thì ông vua ác đó đã đánh mất
chính danh của thiên mệnh và có thể bị mất luôn ngôi vua; nhân dân có
quyền chính đáng nổi dậy, lật đổ ông vua ác độc đó và cử người khác lên
thay thế.
- Ngày
hôm nay, Vua là các nguyên thủ quốc gia, các vị tổng thống, thủ tướng,
những nhà cầm quyện tối cao nhưng vẫn phải thượng tôn luật pháp, bảo
trọng ý dân, thực thi nhân nghĩa. Mạnh tử đã từng phán: “Hại nhân, hại
nghĩa là quân tàn tặc; giết quân tàn tặc là giết một đứa thất phu, một
tên dân quèn. Nghe nói giết một tên thất phu tên là Trụ, chứ chưa nghe
nói giết vua.”
- Học
thuyết “Chính Danh” của Khổng tử không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực
chính trị, cai trị, mà còn được ông áp dụng trong cách gọi tên sự vật,
đồ vật, ý niệm. Sách Nho giáo có câu chuyện về cái bình đựng rượu được
gọi là cái “cô”. Thời trước Khổng tử, cái bình đựng rượu có cạnh góc
người ta gọi là cái “cô”. Đến đời Khổng tử, người ta làm cái bình đựng
rượu bỏ cạnh góc đi mà vẫn gọi là cái “cô”, Khổng tử không hài lòng về
tên gọi này vì theo ông, nếu cái bình đựng rượu muốn được gọi là cái
“cô” thì phải phục hồi hình dạng cũ của nó. Còn nếu không thì gán cho nó
một cái tên mới mà không gọi là cái cô nữa. [Khổng Tử, Nguyễn
Hiến Lê, NXB Văn Hóa 1995]. Do đó, “…Người quân tử có điều gì mình không
biết thì bỏ qua mà không nói. Nay danh bất chính tất lời nói không
thuận. Lời nói mà không thuận tất việc chẳng thành… Cho nên người quân
tử quan niệm được danh ắt nói ra được, mà nói ra được tất làm được.
Người quân tử nói ra điều gì nên dè dặt không cẩu thả được!” [Học thuyết
Chính Danh — Khổng tử trong Luận Ngữ]
[2] Mường Giang “Ba Mươi Lăm Năm Sau 30-4-1975 : Kissinger Xác Nhận “ Hoa Kỳ Tự Trói Tay Để Thua CSVN Chứ Không Do VNCH”
[4] Kort, Michael (2001). The Columbia Guide to the Cold War. Columbia University Press.
[5]
Referring to communism in Indochina, U.S. President Dwight D.
Eisenhower put the theory into words during an April 7, 1954 news
conference: Finally, you have broader considerations that might follow
what you would call the “falling domino” principle. You have a row of
dominoes set up, you knock over the first one, and what will happen to
the last one is the certainty that it will go over very quickly. So you
could have a beginning of a disintegration that would have the most
profound influences.
[6]MacArthur, North Korea. Truman’s No-win policy.
[7]Nixon, Richard (1978). RN: The Memoirs of Richard Nixon. Simon & Schuster. Also
Text of President Nixon’s radio and television broadcast announcing the
initialing of the Paris ‘Agreement on Ending the War and Restoring
Peace in Vietnam’.
[8]Effect
of the containment: The solution, Kennan suggested, was to strengthen
Western institutions in order to render them invulnerable to the Soviet
challenge while awaiting the eventual mellowing of the Soviet regime.
[9]Pursell, C. (1972). The military-industrial complex. Harper & Row Publishers, New York, New York.
[10]President Dwight Eisenhower, farewell speech to the nation, January 17, 1961
[11] “Television
brought the brutality of war into the comfort of the living room.
Vietnam was lost in the living rooms of America — not on the
battlefields of Vietnam.” MARSHALL MCLUHAN, Montreal Gazette, May 16, 1975
[13] GS. Nguyễn
Ngọc Bích, “30/4 Năm Nay, Virginia Đi Đầu Trong Việc Công-Nhận Ngày Nam
Việt-Nam” [Bản dịch sang Tiếng Việt] & 2013 SESSION, SENATE JOINT
RESOLUTION NO. 455 Designating April 30, in 2013 and in each succeeding
year, as South Vietnamese Recognition Day in Virginia [Original text,
English].
0 comments:
Post a Comment