Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa
Monday 4 November 2013
Phạm Bá Hoa : Thư số 25 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
Monday, November 04, 2013
No comments
Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam
Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có
tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản
Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà
họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3
tháng. Tuy tên Quốc Gia và
Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ
nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong
tôi. Tôi không hận thù lãnh đạo Các Anh, nhưng tôi không bao giờ quên quá khứ
đau thương tàn bạo mà họ gây ra cho Tổ Quốc, Dân Tộc! Vì vậy mà
tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có
một chế độ dân chủ tự do thật sự.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt
Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình
bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người
lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng,
Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”,
Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân
Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm
quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh
được đặt trên căn bản đó.
Nội
dung thư này, tôi giúp Các Anh nhận ra chân dung cố Đại Tướng Võ
Nguyên Giáp của Các Anh từ một nét nhìn khác. Tôi nghĩ, từ nét nhìn đó sẽ giúp
Các Anh phải suy nghĩ về vị Tướng mà khi ông chết đã tạo nên những cảm nghĩ khác
nhau về ông ấy. Cố Đại Tướng Các Anh, nhìn từ góc cạnh lịch sử là vị Tướng có
công hay có tội với Tổ Quốc Nhân Dân?
Thứ nhất. Thân
thế ông Võ Nguyên Giáp.
Ông Võ Nguyên
Giáp chào đời ngày 25/8/1911
tại Quảng Bình, trong gia đình nghèo. Học xong lớp 3
trường làng An Xá, ông Giáp học tiếp tại trường Đồng Hới, tỉnh lỵ
Quảng Bình. Tốt nghiệp bậc sơ đẳng tiểu học. Năm 1925, vào trường quốc
học Huế. Năm 1927, học sinh trường Quốc học Huế
có cuộc bãi khóa, Nguyễn Chí
Diểu bị đuổi học vì tội tổ
chức. Ọng Giáp cùng với Nguyễn
Khoa Văn, tiếp tục tổ chức bãi khóa để phản
đối việc Diểu bị đuổi học. Cuộc bãi khóa từ trường quốc học Huế lan rộng
đến các trường ở
Huế, trở thành cuộc
tổng bãi khóa. Kết quả là ông Giáp bị
bắt và bị đuổi học.
Ông trở về quê.
Ít
lâu sau, Nguyễn Chí Diểu đến làng An Xá tìm Võ Nguyên Giáp. Diểu
mang theo một tập tài liệu về “Liên đoàn các dân
tộc bị áp bức trên thế giới” và một số
tài liệu của “Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội”
ở Quảng Châu, trong đó có 2 bài phát
biểu của ông Nguyễn Ái
Quốc
(tức Nguyễn Tất Thành, tức Hồ Chí Minh). Đọc xong,
ông Giáp nói: "Bài luận
văn của Nguyễn Ái Quốc đã gây cho tôi một lòng căm phẫn sâu sắc như một luồng
điện giật". Đó là sợi giây đầu tiên nối liền Võ Nguyên Giáp
với Hồ Chí Minh.
Năm 1928, ông Võ Nguyên Giáp vào
Huế làm báo và hoạt động
chính trị. Năm 1930, vì liên quan đến
sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, Võ
Nguyên Giáp bị bắt. Cuối năm 1931, nhờ
Hội Hồng Thập Tự của Pháp can thiệp, ông được tự do, nhưng không được ở Huế. Ông
Giáp ra Hà Nội, vào học trường Albert Sarraut. Sau đó, ông vào đại học với khoa
Kinh Tế Chính Trị, nhưng vì tham gia hoạt động chính trị nên bỏ học. Trong
khoảng thời gian 1936-1939, ông Giáp thành lập “Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương”,
cùng lúc giữ chức “Chủ Tịch Ủy Ban Báo Chí Bắc Kỳ” trong
phong trào Đông Dương đại
hội. Ông tham gia báo tiếng Pháp Notre Voix (Tiếng
Nói
Của
Chúng Ta), Le Travail (Lao Động), biên tập
báo Tin Tức, và báo
Dân Chúng. Từ năm
1939, ông dạy môn lịch sử tại trường tư thục Thăng Long, Hà Nội
Thứ hai. Ông Võ Nguyên Giáp trong chiến
tranh 1945-1954.
Tháng
5/1940, ông Giáp với bí danh
Dương Hoài Nam, cùng ông Phạm Văn Đồng, trốn sang Trung Hoa tìm gặp ông Hồ Chí Minh.
Chẳng bao lâu sau đó, lẽ ra ông học quân sự tại căn cứ Diên An của Trung Cộng,
thì ông Hồ bảo ông chuẩn bị về Việt Nam vì tình hình thế giới đang thuận lợi.
Ông Giáp vào đảng cộng sản cuối năm 1940, và hoạt động trong “Việt Nam Độc Lập
Đồng Minh Hội”, gọi tắt là “Việt Minh”. Đầu năm 1941, ông theo ông
Hồ về Cao Bằng, ẩn trong hang Pắc Bó. Tháng 12/1944, theo lệnh ông Hồ, Võ
Nguyên Giáp thành lập đội “Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân” với quân số 34
người, tiền thân của quân đội Nhân nhân dân Việt Nam ngày nay. Tháng
8/1945, ông Giáp trở thành Ủy Viên Ban Chấp Hành Trung Ương, rồi Ủy Viên
Thường Vụ Trung Ương. Cũng thời gian này, khai sinh tên nước “Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa”, ông Giáp lần lượt giữ chức Bộ Trưởng Nội Vụ, rồi Bộ Trưởng Quốc
Phòng, và Tổng Chỉ Huy Quân Đội, kể cả Dân Quân. Ông Giáp còn là Đại Biểu Quốc
Hội từ khóa 1 đến khóa 6.
Về
phần “bác” Các Anh. Dưới tên Nguyễn Ái Quốc, ông Hồ đã dự đại hội “Quốc
Tế Cộng Sản” lần thứ 4 năm 1923, và lần thứ 5 năm 1924
tại Liên Xô. Trong đại hội, “bác” Các Anh được cử làm “Ủy Viên
Ban Phương Đông”. Năm 1930, theo chỉ thị của Quốc Tế
Cộng Sản, ông Hồ thành lập “Đảng Cộng Sản Đông Dương”, tiền thân
của đảng cộng sản Việt Nam ngày nay. Theo tài liệu
trong Wikipedia, “bác” Các Anh kết hợp tư tưởng cộng sản của
Karl Marx & Friedrich
Engels với tư
tưởng của Lenin vào chủ trương cuộc cách mạng vô sản tại Việt Nam
trong mục đích cuối cùng là lực lượng vô sản thống trị thế
giới. (ông Karl Marx và ông Engels ra bản Tuyên Ngôn Cộng Sản ngày
21/2/1848)
Năm 1952, để thực hiện cuộc cách mạng vô
sản đó, “bác” Các Anh viết 2 thư gởi cho lãnh đạo Quốc Tế Cộng Sản là ông
Stalin.
Thư
số 1 đề ngày 30/12/1952 với nội dung xin thuốc kí-ninh và súng đạn.
Thư
số 2 đề ngày 31/12/1952 với nội dung ngắn gọn như sau: “Xin gửi Ngài
chương trình “Cải Cách Ruộng Đất” của đảng Lao Động Việt Nam. Chương trình
hành động được lập bởi chính tôi, với sự giúp đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi
và Văn Sha San. Đề nghị Ngài xem xét và cho chỉ dẫn” (kèm theo thư là chương
trình Cải Cách Ruộng Đất).
Các
Anh thấy sự kiện thật rõ ràng và chắc chắn, là “bác” Các Anh và lần lượt là
những nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị, liên tục thi hành lệnh của cộng sản quốc
tế. Nếu Các Anh hỏi tôi “lệnh đó là lệnh gì?” thì tôi sẽ trả lời Các Anh cũng rõ
ràng và chắc chắn vào cuối cuộc chiến 1960-1975, vì đó là mục đích mà tôi
viết thư số 25 này.
Ngày 19/12/1946, chiến tranh giữa thực
dân Pháp với Việt Minh cộng sản bùng nổ. Ông Võ Nguyên Giáp với chức vụ Tổng Chỉ
Huy và Tổng Chính Ủy -đứng đầu quân sự với chính trị- và từ năm
1949 là Tổng Tư Lệnh Quân Đội kiêm Bí Thư Tổng Quân Ủy.
Ông Võ Nguyên Giáp không
được đào tạo tại bất kỳ trường quân sự nào trước đó, cũng
không trải qua các cấp bậc từ
thấp lên cao, nhưng với Sắc Lệnh số 110 ngày
20/1/1948, ông trở thành Đại Tướng của “quân đội nhân dân” khi ông 37
tuổi. Cùng đợt “trở thành” cấp tướng với ông Giáp, cấp Trung Tướng có: Nguyễn
Bình, Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến
Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, và Trần Tử Bình.
Trong
dịp trả lời phóng viên ngoại quốc sau đó, Đại Tướng Giáp nói: “Theo Chủ Tịch
Hồ Chí Minh, nếu đánh (trận) thắng đại tá thì phong cấp Đại Tá, đánh thắng thiếu
tướng thì phong cấp Thiếu Tướng, đánh thắng trung tướng thì phong cấp Trung
Tướng, đánh thắng đại tướng thì phong cấp Đại Tướng”.
Các
Anh có buồn cười không vậy? Tư tưởng “bác” Các Anh thật lạ lùng, nếu không nói
là quái đản. Cứ đánh trận mà chiến thắng, thì căn cứ vào cấp bậc của cấp chỉ huy
thực dân Pháp thua trận mà thăng cấp tương đương.
Ông Võ Nguyên Giáp chủ trương kết hợp tư tưởng quân sự của “bác” Các Anh với lý luận
quân sự Mác-Lênin, lấy ít đánh
nhiều. Trong 9 năm
đánh Pháp (1945-1954), phái
đoàn quân sự Trung Cộng
gồm 30.000 cán bộ sang huấn luyện quân
đội dưới quyền ông Giáp.
Điện Biên
Phủ
cách Hà Nội khoảng 300 cây số, dài 15 cây số và rộng 5 cây số, với sông Nậm Rồm
giữa khu lòng chảo phì
nhiêu đối với người Thái. Một sân bay nhỏ do
quân đội Nhật xây cất năm 1944 (?) dọc
theo sông Nậm Rốm. Rừng già và núi cao bao
quanh, khống chế khu lòng chảo.
Ngày 2/11/1953, Tướng
Navarre, Tổng Tư Lệnh quân viễn chinh Pháp, được lệnh thành lập căn cứ chiến
lược khu lòng chảo Điện Biên Phủ, để án ngữ trục giao thông liên lạc của quân
Việt Minh cộng sản trong vùng Thượng Lào với tây bắc Hà Nội. Ngày
20/11/1953, Trung Đoàn 1 Nhẩy Dù chiếm xong khu lòng chảo, với tổn thất không
đáng kể. Vài ngày sau đó, được tăng cường 6 Tiểu Đoàn Nhẩy Dù nữa, và tính đến
ngày 15/12/1953, căn cứ này có 11 Tiểu Đoàn Dù phòng thủ.
Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, sử dụng 15 trung Đoàn gồm Bộ Binh, Công Binh, Pháo Binh,
và Cao Xạ tấn công Điện Biên Phủ, do 12.000 quân trú phòng dưới
quyền chỉ huy của Đại Tá De Castries. Ít lâu sau, ông thăng cấp
Thiếu Tướng. Chiến trường này với những trận đẫm máu!
Năm 1954.
Điện Biên Phủ bị tấn công từ ngày 13/3/1954, dữ dội và liên tục,
đến ngày 7/5/1954 thì kết thúc với tổn thất
nặng nề cho cả hai bên:
Tổn thất của quân Pháp: Từ 1.747 tới 2.293 người chết + từ 5.240 tới
6.650 người bị thương + 1.729 người mất tích + 11.721 bị bắt
làm tù binh.
Tổn thất của quân Việt Minh cộng
sản: 4.020 người chết + 9.691 người bị thương + 792 người
mất tích.
Với bản chất dối trá -hơn hết là dối
trá trong truyền thông- những con số về tử vong trong các trận chiến mà lãnh đạo
cộng sản Việt Nam đưa ra, không thể nào có được con số chính xác hoặc gần gủi
với con số thật, nhưng quân của Đại Tướng Giáp tổn thất trong trận Điện Biên Phủ
nêu ở trên là tin được, vì ít nhất cũng là con số đó. Các Tướng Trần
Canh, Lã Quý Ba, và Vi Quốc Thanh của Trung Cộng, là cố vấn vĩ đại bên cạnh
Tướng Võ Nguyên Giáp. Vì vậy mà cứ đợt xung phong này gục ngã thì đợt xung phong
kế tiếp tràn lên. Đại Tướng Giáp nói “lấy ít đánh nhiều”, nhưng trận địa
đã thể hiện ngược lại là ông Giáp “dùng sinh mạng thay vũ khí” mà Trung
Cộng gọi là “chiến thuật biển người” trong chiến tranh xâm lăng Đại Hàn
năm 1950-1953 nhưng họ thảm bại.
Trận chiến Điện Biên Phủ đã dẫn đến Hiệp Định Geneve ngày 20/7/1954 chia dãi đất
hình cong chữ S làm hai quốc gia: Từ vĩ tuyến 17 trở lên Bắc là nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo, theo chế độ cộng sản độc
tài. Từ vĩ tuyến 17 trở xuống Nam là nước Việt Nam Cộng Hòa do ông Ngô
Đình Diệm lãnh đạo, theo chế độ dân chủ tự
do.
Tóm lại. Rõ ràng và chắc chắn là
“bác” Các Anh cùng nhóm lãnh đạo mà Đại Tướng Võ Nguyên Giáp là
cánh tay phải của ông Hồ, đã dùng chiến thuật thí
quân, không phải giải phóng như ông Hồ tuyên truyền mà là nhuộm đỏ một
nửa nước Việt Nam theo lệnh của cộng sản quốc tế.
Thứ ba. Đại Tướng Võ Nguyên Giáp trong
chiến tranh 1960-1975.
Cuối năm 1960, ông Võ Nguyên Giáp thành
lập tổ chức có tên là “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam” làm
bình phong cho quân cộng sản hoạt động ngay trong lãnh thổ Việt Nam Cộng
Hòa.
Ngày 28/1/1968 (Tết Nguyên Đán).
Chen lẫn trong tiếng pháo mừng Xuân là tiếng súng của quân cộng sản Võ
Nguyên Giáp tấn công vào thủ đô Sài Gòn, cố đô Huế, và 30 tỉnh lỵ. Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa phản công mạnh mẽ và chiến thắng trên các chiến trường, riêng chiến
trường Huế kéo dài 21 ngày. Sau đó, thủ đô Sài Gòn lại bị tấn công lần 2 vào
ngày 12/5/1968. Kết quả hai đợt tấn công trên khắp chiến trường từ Quảng Trị tới
Cà Mau:
Tổn thất của Việt Nam cộng sản:
58.373 quân chết + 10.000 quân bị bắt + 6.000 quân buông
súng đầu hàng + 17.000 vũ khí các loại bị ta tịch thu + Hơn 100 xác
chiến xa do Nga sản xuất.
Tổn thất của Việt
Nam Cộng Hòa: 4.954 quân nhân hy
sinh + 14.300 đồng bào bị giết + 1.946 đồng bào mất tích. Quân cộng sản đã đốt
khoảng 60.000 nhà dân để gây hỗn loạn mà chạy.
Riêng tại thành phố Huế. Theo tác giả David T.
Zabecki trong quyển “The Vietcong Massacre at Hue” ấn hành năm 1976, số hài
cốt tìm được do cộng sản Việt Nam đã giết trong 21 ngày chiếm giữ một phần thành
phố Huế, và chôn tập thể trong các hầm là 2.810 người, trong tổng số hơn 5.000
người dân bị cộng sản giết chết. Theo sử gia Trần Gia Phụng, số người tìm
được trong 22 mồ chôn tập thể là 2.326 xác trong tổng số
dân bị giết là 5.800 người. Những con số của hai tác giả không hoàn toàn giống
nhau, nhưng quá đủ để chứng minh bản chất dã man tàn bạo của quân
cộng sản do lệnh của “bác” Các Anh và Võ Nguyên Giáp.
Năm 1972. Tướng Giáp sử dụng 6 Sư Đoàn
tấn công vào Quàng Trị, Dakto (Kon Tum), và An Lộc (Bình Long) của Việt Nam Cộng
Hòa.
Riêng mặt trận Quảng Trị. Cuối tháng 3/1972, khoảng 40.000
quân của Võ Nguyên Giáp tấn công Quảng Trị, và 2 tháng sau chiếm đóng phân nửa
tỉnh này, kể cả Cổ Thành. Ngày 28/6/1972, quân lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu
phản công, lần lượt chiêm lại các vị trí, và dồn quân của Tướng Giáp vào Cổ
Thành. Ngày 7/9/1972, tấn công dữ dội vào Cổ Thành, và đến 8 giờ sáng ngày
16/9/1972 thì quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ được kéo lên đỉnh cột cờ Cổ
Thành Quảng Trị.
Sau 4
tháng 16 ngày chiếm giữ Quảng Trị, hồi ký của Tướng cộng sản Lê Tự Đồng,
Tư Lệnh mặt trận Quảng Trị, phổ biến năm 1997 tại Hà
Nội, thừa nhận tổn thất hơn 50% quân của 4 Sư Đoàn tham chiến.
Riêng tại Cổ Thành với hơn 10.000 quân phòng thủ đã tổn thất chưa từng thấy.
Báo Tuổi Trẻ ngày 26/7/1998 tại Sài Gòn, tường thật lời kể của cựu chiến binh
Trung Đoàn 27 sống sót, khi vào Cổ Thành với hơn 1.500 quân, nhưng khi
thoát ra khỏi Cổ Thành chỉ còn 1 tiểu đội!
Năm 1973. Hội nghị Paris bắt
đầu từ tháng 5/1968, giằng co đến ngày 27/1/1973 các bên mới
ký “Hiệp Định chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình”. Hiệu lực
ngay sau đó.
Căn
cứ Tống Lê Chân do Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân trú
phòng, án ngữ trục liên lạc và chuyển quân của cộng sản qua lại giữa
“trung ương cục Miền Nam” với “khu tam giác sắt” ở ranh tỉnh Phước Long-Bình
Dương. Trong trận chiến “Mùa hè 1972”, căn cứ này bị quân cộng sản
bao vây từ tháng 5/1972, và liên tục tấn công ngay cả khi
Hiệp Định Paris có hiệu lực cho đến ngày 11/4/1974 là 702 ngày,
được lệnh rút bỏ căn cứ để hành quân lưu động. Trận
chiến Tống Lê Chân, là sự kiện chứng minh lãnh đạo Các Anh không
tôn trọng chữ ký của chính họ trong Hiệp Định, cũng là dối
trá trong bang giao quốc tế.
Năm 1975. Lãnh đạo cộng sản Hà Nội thật
sự xóa bỏ Hiệp Định Paris khi xua toàn lực từ nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa, đánh chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa vào ngày
cuối tháng 4/1975! Trong bang giao quốc tế, quân của quốc gia này đánh chiếm
quốc gia kia, ngoài hai chữ “xâm lăng” ra không còn chữ nào đủ nghĩa để
chỉ hành động đó.
Tóm tắt. Rõ ràng và
chắc chắn là “bác” Các Anh và lần lượt những
nhóm lãnh đạo mà cánh tay phải là Đại Tướng Võ Nguyên Giáp đứng đầu
quân đội, đã đẩy vào cõi chết ít nhất là 4.000.000 quân
của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, để
“phanh thây uống máu quân thù” là quân và dân nước Việt Nam Cộng Hòa.
Tuyệt nhiên không phải giải phóng như lãnh đạo Các Anh
tuyên truyến, mà là nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo lệnh của Đệ Tam Quốc Tế
trong mục đích cuối cùng là thống trị toàn thế giới! (“phanh thây uống máu quân
thù” là trích trong bài Tiến Quân Ca của quân đội ông Giáp, cũng là quốc ca của
cộng sản Việt Nam)
Hãy
nhớ, lúc đương thời trong chức Tổng Bí Thư, ông Lê Duẫn cũng nói theo ý
nghĩa như vậy: “Ta đánh đây là đánh cho Nga, đánh
cho Tàu...”
Đây
là lời của lãnh đạo cộng sản quốc tế giúp Các Anh hiểu được tận gốc của củ nghĩa
cộng sản: Ông Lenine khẳng định: “Nói láo
nhiều lần, chuyện láo sẽ thành chuyện thật” Ông Gorbachev, người
đã đưa chủ nghĩa cộng sản vào sụp đổ, đã nói: “Tôi đã bỏ nửa cuộc đời cho lý
tưởng cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng, đảng cộng sản chỉ
biết tuyên truyền và dối trá”. Ông Boris Yeltsin, khi là Tổng
Thống nước Nga thời hậu cộng sản, đã nói: “Cộng sản là không thể nào sữa chửa,
mà cần phải đào thải nó”.
Đó là
câu trả lời mà tôi đã hứa ở phần 2.
Nhận định về Tướng Võ Nguyên Giáp.
Năm 1977 (?) Tại Hà Nội, một phóng viên
ngoại quốc nêu câu hỏi với Tướng Giáp: “Đại Tướng có hối tiếc gì về hơn 4
triệu người Việt Nam đã chết vì cuộc nội chiến ý thức hệ Cộng Sản?…”
Đại Tướng Giáp của Các Anh điềm nhiên trả lời bằng tiếng Pháp: “Non,
pas du tout”. “Không hối tiếc gì cả”. (con số 4 triệu quân
mà ông Giáp đã thí trong chiến tranh do Đại Hội 4 CSVN năm 1976 đúc kết sơ
khởi)
Năm 1987. Tướng Peter Mac Donald trong Quân đội Hoàng Gia Anh 32 năm, sang Việt Nam
gặp Tướng Võ Nguyên Giáp để viết cuốn “GIAP, les deux guerres
d’ Indochine” “Giáp, hai cuộc chiến tranh Đông Dương” và ấn
hành năm 1992. Tác giả nhận định: “Những tư tưởng của tướng Giáp được ghi lại
trên giấy thường là chán ngán đến chết người”..... Để Kết luận P. Mac Donald
viết: “Từ khi còn trẻ, tướng Giáp đã thấm nhuần lý thuyết Cộng Sản. Thật đáng
tiếc là trải qua mấy chục năm dài, lẽ ra trí thông minh của ông đã có thể mách
bảo ông rằng, cái chế độ mà ông tham gia xây dựng là sai lầm tệ hại, để từ đó
tìm ra con đường khác bảo đảm hạnh phúc cho đồng bào của ông. Nhưng, ông Giáp
đã mù quáng phục vụ đường lối Marx – Lénine theo như Hồ Chí Minh dẫn
giải...”.
Năm 1996. Với bài viết “Đại Tướng Võ Nguyên Giáp là danh tướng hay hèn tướng?” của
tác giả Phạm Trần Anh, ông kể chyện: “... Trong cuộc hội thảo tại trụ sở
Quốc Hội Hoa kỳ, cựu Đại Tướng Westmoreland nói với tác giả rằng:
“Tôi công nhận tài năng của tướng Giáp, phải có tài mới ở lâu đến hơn 30 năm
chiến tranh trên cương vị tư lệnh quân sự cao nhất; nhưng phải nói thật là nếu
như Tướng Giáp là viên Tướng Hoa kỳ thì ông đã bị mất chức từ lâu rồi, vì Quốc
Hội và xã hội oa Kỳ không thể chấp nhận những tổn thất sinh mạng của quân đội
cao đến như vậy”.
Thứ tư. Thật sự Việt Nam có cần cuộc
chiến tranh 1945-1975 không?
Tôi có nét nhìn khác với nét nhìn của những người khóc lóc thảm thiết
khi ông Võ Ngyên Giáp từ trần. Xin nhắc để Các Anh nhớ rằng, “bác” Các Anh là Chủ Tịch đảng, mà đảng cộng sản Việt Nam
là “một chi bộ” của cộng sản quốc tế, cũng gọi là Đệ Tam Quốc Tế. Từ đó,
“bác” Các Anh cùng nhóm đàn em tin cậy mà ông Võ Nguyên Giáp là cánh tay phải
của ông Hồ, tuyệt nhiên không phải giải phóng quê hương như họ tuyên truyền, mà
là từng bước đưa dân tộc Việt Nam vào thế giới cộng sản độc tài nghiệt
ngã, vì
Đệ Tam Quốc Tế do ông Lenin thành lập năm 1919 sau khi cướp chính
quyền ở Nga. Năm 1920, đại hội quốc tế quy định 21 điều cho
các đảng cộng sản hội viên. Ủy Ban Chấp Hành Đệ Tam Quốc Tế (ECCI), từ 10
đến 12 ủy viên, mỗi đảng lớn được hai ghế, các đảng nhỏ chỉ có
quyền tham khảo chớ không có ghế. Liên Xô đương nhiên chiếm 5 ghế,
cùng với chức Chủ Tịch Ủy Ban Chấp Hành, vì Liên Xô là quốc gia tiếp nhận tổ
chức. Trên Ủy Ban Chấp Hành là một Chủ Tịch Đoàn, và Chủ Tịch của Chủ Tịch Đoàn
có quyền hạn rộng lớn mà ông Lenin nắm giữ từ năm 1920 đến năm
1924, sau đó là ông Stalin. Dưới đây là 5 Điêu, liên quan trực tiếp đến các đảng
hội viên:
Điều 9. “Liên hệ giữa các đảng
hội viên với các cơ quan trung ương của Đệ Tam Quốc Tế, theo nguyên tắc thống
nhất và kỹ luât vô sản. ECCI là cấp trên, các đảng hội viên là cấp dưới.
ECCI có quyền đòi một đảng hội viên trục xuất một nhóm, hay một đảng viên vi
phạm kỹ luật, hoặc trục xuất một đảng vi phạm quyết định của Đại Hội Đệ Tam Quốc
Tế”.
Điều 12: "Tất cả các đảng
thuộc Đệ Tam Quốc Tế phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ".
Điều 15: "Các đảng phải lập
chương trình thích ứng với điều kiện của nước, và đúng với những nghị
quyết của Đệ Tam Quốc Tế".
Điều 16: "Tất cả quyết nghị
của các đại hội thế giới Đệ Tam Quốc Tế, cùng các quyết nghị của Ủy Ban Chấp
Hành của Đệ Tam Quốc Tế, đều ràng buộc các đảng
hội viên thi
hành".
Điều 17: “Các đảng hội viên,
chỉ là những chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế, vì Đệ Tam Quốc Tế không phải là
một tập hợp của những chi bộ quốc gia, mà là một tổ chức quốc tế thống nhất".
Ông Lênin giải thích rằng, Đệ Tam Quốc Tế là "một đội quân vô sản
quốc tế" mà nhiệm vụ là "thực hiện cách mạng vô sản quốc tế, thiết lập
một Cộng Hòa Sô Viết Quốc Tế".
Để thi hành lệnh của cộng sản quốc tế,
“bác” Hồ Các Anh dẫn dắt các nhóm lãnh đạo qua từng thời gian –trong đó Đại
Tướng Võ Nguyên Giáp đứng đầu quân đội- thực hiện bằng được một nước Việt Nam vô
sản, cho dù thiệt hại bao nhiêu triệu sinh mạng con người cũng chấp nhận. Khi
nhuộm đỏ được Việt Nam, áp đặt một chế độ độc tài tàn bạo và khắc nghiệt phũ
trùm toàn xã hội xã hội chủ nghĩa: (1) Bịt mắt bịt tai người dân, bằng hệ
thống truyền thông của đảng. (2) Bóp nghẹt tư tưởng và trói chân trói tay
bịt miệng người dân, bằng những điều luật vi phạm Hiến Pháp. (3) Bị khủng
bố tinh thần bất cứ ai có suy nghĩ khác và hành động khác với đảng, bằng một lực
lượng Công An Nhân Dân và thành phần côn đồ nhân dân, cộng với hệ thống nhà tù
mà họ gọi là “trại cải tạo”
Song song đó, là xã hội xã hội chủ
nghĩa được lãnh đạo buông thả cho mọi người ăn chơi sa đọa, để không quan tâm
đến những quyền tự do căn bản của chính mình và của mọi người mà Công Ước quốc
tế công nhận.
Thật đáng mừng cho Tổ Quốc Dân Tộc, vì một thành phần đông
đảo công dâ đã thức tỉnh, gồm: Trí thức, sinh viên học sinh, giới trẻ, đảng
viên, cựu đảng viên, thật sự dũng cảm tranh đấu cho quyền con người. Còn đại đa
số không có điều kiện tiếp xúc với sinh hoạt hải ngoại ngang qua hệ thống
internet với vô số tin tức. Đó là những tin tức liên quan trực tiếp đến Việt
Nam, nhất là những tin tức ghi nhận những sự thật tồi tệ của lãnh đạo cộng sản
“dội lại” từ hải ngoại. Chẳng hạn như: Năm 1953-1956,
cải cách ruộng đất đã đấu tố 172.008 người. Năm 1954-1956, cuộc “bỏ
phiếu bằng chân” vĩ đại lần 1 của 971.533 người chạy khỏi đất Bắc xã hội
chủ nghĩa đề vào đất Nam dân chủ tự do sinh sống. Năm 1958, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi
Công Hàm công nhận Biển Đông thuộc chủ quyền Trung Cộng. Năm 1975,
dùng phi cơ chớ 16 tấn vàng gồm 1.234 thoi của Việt Nam Cộng Hòa ra Hà Nội. Năm
2010 tại Đà Lạt, ông Trường Chinh trả lời nhà báo Đại Tá Bùi Tín rằng: “Tôi có
biết chuyện này, nhưng đến nay thì hết sạch rồi...”. Năm 1975-2000, cuộc
“bỏ phiếu bằng chân” vĩ đại lần 2 của 989.200 người Việt Nam Cộng Hòa cũ
chạy trốn cộng sản bằng cách vượt biên vượt biển, sau khi để lại
khoảng 450.000 xác chết trong rừng sâu và trên biển cả. Năm 1988, 8 đảo
thuộc quần đảo Trường Sa vào tay Trung Cộng. Ngày 3-4/9/1990, tại
hội nghị Thành Đô, ông Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh và Thủ Tướng Đỗ Mười,
đã thỏa thuận với ông Tổng Bí Thư Giang Trạch Giang và Thủ Tướng Lý Bằng của
Trung Cộng, sẽ từng bước đưa nước Việt Nam trở thành một Tỉnh của Trung Cộng từ
năm 2020. Ngày 30/12/1999, ký văn kiện giao 789 cây số vuông dọc theo biên
giới cho Trung Cộng. Ngày 31/12/2000, ký văn kiện giao 11.362 cây số
vuông trong Vịnh Bắc Việt cho Trung Cộng. Tính đến cuối năm 2011, có từ
150.000 - 200.000 công nhân Trung Cộng tràn ngập khắp miền đất nước dưới dạng
xây dựng 90% công trình của Việt Nam. Cùng năm 2001, các tỉnh biên giới
đã cho Trung Cộng mướn 300.000 mẫu rừng đầu nguồn mà không biết họ sử dụng làm
gì. Và ..v..v...
Dưới nét nhìn của tôi, tất cả gộp lại
là tội ác. Chỉ riêng hành động giao một vùng đất dọc biên giới và một
vùng biển trong Vịnh Bắc Việt cho Trung Cộng, đã là tội ác đối với Tổ
Quốc và Dân Tộc. Mà khi đã là tội ác với Tổ Quốc và Dân Tộc, nếu còn sống
phải bị luật pháp trừng phạt, nếu đã chết phải ghi vào sử sách để lưu truyền mãi
mãi trong dân gian. Xin nhớ rằng, được người đời vinh danh, hay bị
người đời nguyền rủa và lưu mãi trong sử sách truyền mãi trong dân gian, là
chính mỗi người trong xã hội tự tạo cho mình chớ không ai khác. Riêng với đảng
cộng sản Việt Nam, cho dẫu họ có thần thánh hóa "bác" Các Anh hay nhân vật lãnh
đạo nào bằng cách nào bất cứ phương cách nào đi nữa, lịch sử vẫn dành bóng tối
nhầy nhụa cho cộng sản độc tài, và ánh sáng lúc bình minh luôn luôn thuộc về
lòng dân và bất cứ nhân vật nào hay tổ chức nào phục vụ người
dân.
Về phần Các Anh, Các Anh nghĩ sao?
Kết luận.
Tôi hy vọng là qua hình ảnh của: Hằng
trăm hằng ngàn “Đoàn Dân Oan” đòi lại công bằng liên quan đến đất đai để
ổn định đời sống của họ. Hằng trăm “Đoàn Biểu Tình” đòi thực hiện
quyền con người cho dân tộc mà lãnh đạo cộng sản đã ký vào Công Ước của
Liên Hiệp Quốc. Hằng trăm vụ “Tham Nhũng Lớn” trong những tập đoàn doanh
nghiệp nhà nước trong tay của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng dẫn đến phá sản hằng
loạt, đã gây lũng đoạn kinh tế tài chánh quốc gia. Hằng chục thành phố lớn
thường xuyên bị “Chìm Dưới Nước Đen Ngòm” do phát triển một cách hỗn
loạn, nhưng với “nhóm lợi ích” cứ phát triển nhanh càng rửa tiền nhanh,
..v..v.., sẽ giúp người dân nói cbng và Các Anh nói riêng, thấu hiểu xã hội Việt
Nam dưới sự cai trị của đảng cộng sản độc tài tàn bạo và khắc nghiệt đến mức
nào!
Tôi thông cảm với Các
Anh, là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, sinh
ra, lớn lên, học hành, và trở thành Người Lính trong quân đội, tất cả những gì
Các Anh học ở trường văn hoá, trường quân sự, lại thường học tập chính trị tại
các đơn vị, cộng với những chính sách về các lãnh vực sinh hoạt xã hội, mà hơn
hết là toàn bộ các phương tiện trong hệ thống truyền thông chỉ là tiếng nói của
lãnh đạo đảng mà Các Anh theo dõi hằng ngày. Trôi dần theo thời gian, chính sách
độc tài của cộng sản lan tỏa đến mọi ngóc ngách trong sinh hoạt xã hội, rồi biến
thành một nếp trong đời sống thường ngày đối với người dân nói chung, với Các
Anh nói riêng từ lúc nào không ai biết.
Nhưng tôi hy vọng là Các Anh, trong một mức độ nào đó đã hiểu được
tại sao tôi viết loạt thư này gởi đến Các Anh. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh
có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường
cộng sản mà Các Anh đã và đang đi là tự mình nhốt mình trong nhà tù lớn xã hội
chủ nghĩa. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90
triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa
thế giới văn minh lịch sự, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt
Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm
trước đã lừng danh thế giới.
Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản
tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết
lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.
Hãy nhớ, “Tự do, không phải
là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Không có dân
chủ, không thể có sự trỗi dậy và phát triển bền vững. Và chính chúng ta phải
tranh đấu, vì Dân Chủ Tự Do không phải là quà tặng.
Texas, tháng
11 năm 2013
Phạm Bá Hoa
Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!
.
.
0 comments:
Post a Comment