Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa
Tuesday 29 March 2022
Home »
Sưu Tầm Thơ
» Tiếng Việt Dễ Thương - Cái mặt thì rứa, cái tề thì răng?
Tiếng Việt Dễ Thương - Cái mặt thì rứa, cái tề thì răng?
Tuesday, March 29, 2022
No comments
Cái mặt thì rứa, cái tề thì răng?
Thuở
mới sang nước Nam ta, nhiều người nước ngoài cảm nhận cách phát âm của
dân bản địa líu lo như tiếng chim. Không chỉ có thế, ngay cả người Việt
lại có phương ngữ phát âm như… tiếng Nhật.
Giật tràng vá vạt -
Chà, có phải bịa, đó không? Không hề. Tôi vừa đọc trên Facebook nọ mẩu
đối thoại này: - Mi đi ga ni? - Ga ni. Mi đi ga mô? - Ga tê. - Ga tê ga
chi?- Ga Lăng Cô tề. - Răng đông như ri- Ri mà đông chi! - Rứa mi ra ga
mô? - Ra ga Nam Ô. - Khi mô mi đi? - Chừ, chứ khi mô. - Mi lo đi mi.- Ừ,
tau đi nghe mi!
Nghe
cứ líu lo như chim. Thích lắm. Chưa hết đâu. Vẫn còn nhiều nữa. Đâu
phải chỉ lúc trao đổi thân mật, nhiều người đã đưa vào thơ, nhạc. Trước
mắt, này cô Hai ơi, ta nghe nhạc cho rộn chút xíu nhá. Vì rằng, làm nên
sự phong phú, đa dạng nhiều sắc thái trong tiếng Việt, còn phải kể đến
thổ âm, thổ ngữ của từng vùng miền. Do đó, trong sáng tác văn học nghệ
thuật, nhiều tác giả đã vận dụng một cách tinh tế, có chọn lọc khi sử
dụng khiến ca từ trở nên đắc địa hơn và phù hợp với giai điệu dân ca của
vùng đất đó. Nhờ vậy, khi phổ biến, ca khúc đó có lợi thế dễ đi vào
lòng người.
Thí
dụ, ca khúc “Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh”, nhạc sĩ Nguyễn Văn
Tý viết: “Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh. Nhớ núi Hồng Lĩnh, nhớ dòng
sông La”. Tương tự, “Mưa trên phố Huê”ë, nhạc sĩ Minh Kỳ đã viết: “Chiều
mưa, phố xưa u buồn, có ai mong đợi một người biền biệt nơi mô?”. Với
từ “mô” dù mang sắc thái địa phương nhưng có lẽ ai cũng hiểu “đâu/ đi
đâu/ ở đâu”. Không chỉ có thế, nhạc sĩ Phạm Duy viết ca khúc “Bên nớ bên
ni”, có đoạn: “Em có nghe bên ni lạnh như bên nớ. Phút giây chia lìa,
trong lòng cũng phải đèo mong”. Bên ni là “bên này”; bên nớ là “bên ấy/
bên đó”. Thế nhưng ở đoạn khác, lại có câu: “Bên tê thành phố tráng lệ,
giai nhân nằm khoe lỏa thể. Bên ni phố vắng, ôi lòng ngoại ô”. Bên tê
lại được hiểu “bên kia”. Nói cách khác, ni, nớ, tê tùy theo ngữ cảnh, ta
có thể hiểu là bên này, bên nọ, nhằm chỉ hai hướng trái ngược nhau.
Trong ca khúc “Quảng Bình quê ta ơi” của nhạc sĩ Hoàng Vân có câu: “Rằng
có đắng cay nên chừ mới có ngọt bùi” - ta hiểu “chừ” là chỉ thời gian
hiện tại như bây chừ/ bây giờ. Còn có thể kể thêm đôi từ nữa, chẳng hạn
nhạc sĩ Lê Xuân Hòa có ca khúc “Răng anh nỏ vê”ì. Răng là “sao/ tại
sao”; nỏ là “chẳng/ không” là một cách đặt câu nghi vấn v.v…
Sở
dĩ chọn thủ pháp này, nghĩ cho cùng tác giả mong muốn ca khúc của mình
mang sắc thái vùng miền rõ nét nhất, càng dễ lay động lòng người. Rõ
ràng, ta có thể xác định đây là cách nói/ giọng nói của người miền
Trung. Với mẩu trò chuyện ở ga Lăng Cô, nói tắt một lời, ta hiểu ni là
này, chỗ này, cái này; mô: đâu, ở đâu, cũng có thể hiểu là khi nào, lúc
nào? Tê là kia; tề là kìa; ri: thế này; rứa: vậy, thế; chi: gì, cái gì;
Răng: sao, sao vậy, thế nào? Nhưng răng không chỉ có thế.
Thử
nghe mẩu đối thoại này: Hai cậu học trò đến nhà rủ bạn đi học, nghe chó
sủa ran, sợ quá, không dám vào nhà. Lập tức có tiếng bạn từ nhà nói
vọng ra: “Đẩy cổng vào nhà đi, sợ chi mi, con chó không răng mô”. Có
phải con chó rụng hết răng nên không thể cắn? Răng mô: sao đâu, đâu nào.
Nghe
vậy, dù muốn vào nhưng vẫn ngần ngừ, vẫn sợ nên bạn nọ quay sang hỏi
bạn đi cùng: “Mi dám vô không?”. Nghe hỏi, bạn này bèn trả lời: “Mi
răng, tau rứa” - tức “Ai sao, tui vậy”. Còn nếu dù bạn ngần ngại, không
dám bước tiếp nhưng mình đã quyết theo ý thì cứ việc hiên ngang đẩy cổng
bước vô: “Mi rứa, tau ri”. Rồi lại hỏi: “Tao rứa, mi răng?”. Ca dao
Quảng Bình có câu: “Răng chừ cạn lạch Lũy Thầy/ Sông Gianh hết chảy, dạ
này mới hết thương”. Răng chừ: lúc nào, bao giờ. “Bỏ nhau răng rứa mà
đành?/ Nhớ khi ăn cạnh, nằm cành bên nhau”. Răng rứa” là sao thế, sao
vậy? Nghe răng rứa rứa răng trìu mến quá, phải không?
Có
trường hợp, cơm nước xong, người chồng hỏi vợ: “Dạo ni, thằng Tèo học
hành ra răng hè?”. “Hè” tương đương như “nhỉ/ nhé”, còn nhằm gợi sự đồng
tình, nhấn mạnh tùy ngữ cảnh. Cô vợ bảo: “Mình hè, hắn học chi chi lạ,
học cả đêm lẫn ngày”. Từ “hè” ở đây lại được hiểu “này/ nì”. Nghe thế,
người chồng cả cười: “Lạ chi, học rứa có chi chi mô”. Ta hiểu “chi chi”
nhằm chỉ cấp độ cao hơn “chi”.
Lại
nữa, các cô cậu học trò bảo nhau: “Đi học hè!” - chẳng dính gì đến
chuyện học thêm trong dịp hè, chỉ hàm ý rủ nhau đi học. Nếu trở thành
nghi vấn, câu trên ắt phải là “Đi học hỉ?”; hoặc “Đi học he?”. “He” cũng
tựa như “hè”. Ở Huế có câu hò đối đáp thật hay:
Tiếng đồn anh học đã thông
Con diều bay qua đó mấy cái lông anh hè?
Nếu đổi qua cách nói của người miền Bắc, ắt thành thơ… “Bút Tre” mất thôi. Câu đối lại thông minh cực:
Em về gánh cạn nước sông
Anh đây đếm được mấy cái lông con diều
Cách
đối đáp này, rõ ràng “Kẻ tám lạng, người nửa cân”. Mà, rủ nhau/ cùng
nhau làm chung một việc nặng nhọc gì đó cũng gọi là hè, chẳng hạn,
“Nhiều người hè nhau đẩy xe lên dốc”. Ới, cô Hai có nhớ đến câu hò đẩy
thuyền ở Quảng Bình? Nhớ à. Thì đây:
Hai bên đứng lại hai hàng
Người mụi, kẻ lái rập ràng cho mau
Hè, hè, hè...
Ba
từ “hè” nối tiếp nhau trở thành khẩu lệnh biểu thị sự đồng tình. Thật
ngộ cho cách phát âm của người miền Trung, nghe du dương mà cũng lạ tai
ra phết. Nếu người Huế, người Quảng Nam nói: “Rứa, tối ni đi xem hát
tuồng hè?” thì người Phú Yên lại phát âm “hè” thành “hé”: “Dẫy, tối ni
đi xem hát tuồng hé”? Nếu cùng đồng hương Núi Nhạn, nghe không rõ ắt họ
hỏi lại: “Bạn vừa nói cái gì hẽ?” - còn người Huế, người Quảng Nam, nếu
không nói “hè” thì dùng “hỉ” cũng không sao: “Bạn vừa nói cái chi hỉ?”.
“Hẽ/ hỉ” tựa như “hả”: Thế hả? Vậy hả? Mà, kể ra cũng ngộ khi nghe bạn
hỏi: “Dẫy, tối ni đi xem hát tuồng hé?”. Người bạn Phú Yên kia muốn hỏi
lại cho chắc ăn, câu nghi vấn lại là: “Dẫy na?”.
Học trò trong Quảng ra thi
Thấy cô gái Huế, chân đi không đành
Không
riêng gì người Quảng, không ít người vùng miền khác cho biết họ cũng mê
tít, bởi lẽ lúc nghe các nàng phát âm từ “ri, răng, rứa” diệu vợi quá
chừng. Có trường hợp, khi đến thăm thầy, đang lúc pha trà, thầy bày vẽ/
chỉ vẽ cho cậu học trò: “Em phải làm như ri nè”, là phải làm như thế
này, thế này. Bắt chước theo, nếu cậu học trò người Huế hỏi lại thì cách
phát âm là: “Dạ, em làm rứa có đúng không thầy?”.
Quan
sát nẫy giờ, thấy thiếu cái gì đó, thầy đưa tay chỉ: “Rứa cũng được,
nhưng em còn phải thêm cái nớ”, tức còn phải thêm cái kia. Bằng không,
cũng có thể thầy bảo: “Rứa cũng được, nhưng em còn phải thêm cái tê”. Tê
là kia. Chưa hiểu rõ ý thầy, cậu học trò hỏi lại: “Dạ, cái tê là cái
chi?”. Thầy đưa tay chỉ vào vật cụ thể gì đó rồi nhã nhặn: “Cái tê đó
tề”. Thực hiện xong, cậu học trò dò hỏi ý: “Dạ, em làm rứa, thầy thấy
răng? Có được không thầy?”. Thầy đáp: “Rứa rứa” - là cũng được, tạm
được.
Có
câu thơ của Mường Mán, vận dụng chỉn chu cách nói của người Huế: “Sáng
vàng thu trời mưa nho nhỏ/ Chờ ai răng o nớ, mưa tề”. Tề ở đây là “kìa”.
“Mưa tề” không liên quan gì đến địa danh như Quang Dũng viết: “Giăng
giăng mưa bụi quanh phòng tuyến/ Quạnh vắng chiều sông lạnh đất Tề”.
Trong lúc đóng cái tủ, cầm thanh gỗ lên đo rồi làm dấu, người cha bảo:
“Ri dài quá, con tề đi”. Tề là chặt/ cắt/ tiện bớt cho bằng, cho đều.
“Hai ta như đũa trong kho/ Không tề, không tiện, không so cũng bằng” (ca
dao).
Từ “tề” này cũng “lắm chuyện”.
Thời
kháng chiến “chín năm”, có thể là lần trước nhất xuất hiện “tề” - hiểu
theo nghĩa vùng do địch chiếm đóng, dựng lên bộ máy chính quyền theo
chúng, do đó, mới xuất hiện làng tề, hội tề, phá tề, tề ngụy… Và ngoạn
mục nhất vẫn là sự xuất hiện thành ngữ mới “Ấm ớ hội tề”, Đại từ điển
tiếng Việt (1999) giải thích: “Có thái độ không dứt khoát, việc gì cũng
tỏ ra không hẳn biết mà cũng không hẳn không biết, giống như người làm
việc ở cơ quan làng, xã vùng bị tạm chiếm thời trước (gọi là hội tề) vừa
bị sức ép của trên, vừa bị dân chống đối, nguyền rủa nên thường phải tỏ
ra không dứt khoát trong mọi chuyện để tránh sự trừng phạt trên xuống,
dưới lên”. Hiểu thế này, có lẽ câu thơ của Quang Dũng phải là “Quạnh
vắng chiều sông lạnh đất tề” - ngụ ý “đất tề” là vùng tạm chiếm, chứ
không phải “đất Tề”. Khi bàn về thái độ của người đàn ông đã có vợ, hắn
ta bị bắt quả tang lúc léng phéng mèo mỡ, Hồ Xuân Hương bèn làm thơ
trêu:
Ngoảnh mặt sang Tề, e Sở giận,
Quay đầu về Sở, sợ Tề ghen.
Thái
độ lúng búng như chó ăn vụng bột, lúng túng như thợ vụng mất kim, ấp a
ấp úng, đúng là “Ấm ớ hội tề”. Thật ngộ, một khi ai đó đang sống trong
vùng kháng chiến, vì lý do gì đó rời bỏ, quay về vùng tề thì lại gọi
“dinh tê/ rinh tê”. Do cơn cớ gì cái dấu huyền trong chữ “tề” trong đất
tề/ làng tề bị mất tiêu? Không ai có thể trả lời nổi, vì “dinh tê/ rinh
tê” là phát âm mượn từ tiếng Pháp rentrer: trở về/ quay lại nằm trong
ngữ cảnh như nhà phê bình Vũ Ngọc Ngọc Phan viết trong hồi ký Những năm
tháng ấy (NXB Văn Học-1987): “Một số anh chị em văn nghệ sĩ xuống Rừng
Thông, Cầu Bố buôn bán, và rồi họ không kiếm sống được nên đã rinh
tê”(tr. 387).
Lại
thử đọc câu ca dao xứ Huế: “O tê o tể o tề/ Cái mặt thì rứa, cái tề thì
răng?”. Tề ở câu bát đã lái sang nghĩa khác, ngon ơ bà ờ, ai muốn hiểu
sao thì hiểu. Hiểu sao? “Nhạy cảm” quá đi mất, tôi đây đành nín khe,
đành thin thít như thịt nấu đông, đành câm như hến. Cho nó lành.
Thời
kháng chiến chống Pháp, Lưu Trọng Lư viết bài thơ “O đi tiếp tế”, có
câu: “Xuân gầy ba bảy/ Da tuyết vàng khè/ O sợ chồng chê/ Nhưng o vẫn
bước/ Mình lo việc nước/ Chồng chê "mược" chồng”. O là cô gái trẻ, cũng
chỉ người phụ nữ đã có chồng, tùy vai vế mà xưng hô. Chẳng hạn, lúc đang
làm bếp, nhìn quanh không thấy, cô con dâu lễ phép: “O ơi, cái thớt đâu
hè?”. O ở đây đích thị là bà cô, tức chị hoặc em của cha chồng. Thành
ngữ có câu: “Giặc nhà Ngô không bằng bà cô bên chồng”, “Ông chú bà cô”.
Thế nhưng khi chị dâu hỏi em chồng, lại xưng bằng… cô! Chẳng hạn, “Cô Ái
ơi, cái thớt nhà mình treo ở mô?”. Oái oăm thiệt.
Ta
trở lại với mẩu đối thoại của vợ chồng nọ về chuyện học hành của con.
Sau đó, người chồng hỏi tiếp: “Thằng Tèo rứa, còn thằng Tý răng?”. Cô vợ
than phiền: “Úi chà, nỏ học hành chi, hắn đang o cái o bán bánh bèo”. O
ở đây là ve/ tán/ cua gái. Ối dào, thằng Tý mới nứt mắt, mặt búng ra
sữa, hỉ mũi chưa sạch đã ri, đã rứa, rứa ngày sau cơm cháo ra răng hé?
Tôi nói rứa, cô Hai thấy răng hè?
Lê Minh Quốc
https://nhinrabonphuong.blogspot.com/2022/03/tieng-viet-de-thuong-cai-mat-thi-rua.html
Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!
.
.
0 comments:
Post a Comment