Không khí căng thẳng đến nghẹt thở kéo dài suốt 13 ngày -từ 14 đến 28 tháng Mười 1962; căng thẳng vì từ vị trí đặt hoả tiễn đến bờ biển Hoa Kỳ chỉ có 90 miles. Ngày 10/22/1962, Kennedy lên truyền hình trình bầy với công chúng việc Nga đặt hoả tiễn, và việc ông ra lệnh phong toả Cuba, đòi người Nga phải tháo gỡ hoả tiễn xuống và đem trở về Nga, nếu không, ông sẽ tấn công để tiêu diệt mầm hiểm hoạ này.
Bất cứ lúc nào Mỹ cũng có thể dùng hải pháo tấn công hoả tiễn Nga, và bất cứ lúc nào dàn xạ thủ Nga cũng có thể nhấn nút khai hoả bắn hoả tiễn vào lãnh thổ Mỹ; hoả tiễn lại có thể chuyên chở một đầu đạn nguyên tử.
Cuối cùng, lãnh tụ Nga Nikita Khrushchev đồng ý tháo gỡ hoả tiễn để đánh đổi với việc Hoa Kỳ cũng tháo gỡ dàn hoả tiễn đã đặt sẵn tại Thổ.
Tờ báo Anh ngữ Global Times, cơ quan ngoại vận của Bắc Kinh, viết, ‘Trung Quốc đủ sức mạnh và quyết tâm để phá vỡ toan tính huyênh hoang của ông ta.’
Ngăn cấm không cho người Tầu vào Biển Đông -vào những hải đảo nhân tạo mà họ đã thiết lập phi trường, quân cảng, đã bố trí hoả tiễn phòng không, phòng duyên- dĩ nhiên không phải là chuyện dễ; nhưng lại cũng không khó đến mức vượt quá khả năng của Hải Quân Hoa Kỳ.
Để thực hiện một cuộc phong toả như vậy, chỉ cần một trong 7 hạm đội Hoa Kỳ -Đệ Thất Hạm Đội- hiện đang thả neo tại quân cảng Yokosuka cũng thừa khả năng đảm trách.
Hạm Đội 7 có khoảng 70 chiến hạm, 300 phi cơ chiến đấu, 40,000 thuỷ thủ và Thuỷ Quân Lục Chiến; tháng Ba 2016, Hạm Đội 7 đã gửi một lực lượng gồm chiếc hàng không mẫu hạm John C. Stennis, 2 khu trục hạm Chung-Hoon và Stockdale, 2 tuần dương hạm Antietam và Mobile Bay, cùng với chiếc soái hạm Blue Ridge vào Biển Đông.
Đô đốc Harry Harris -tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ trên Thái Bình Dương- trình bầy với quốc hội Hoa Kỳ là người Tầu đang công khai quân sự hoá Biển Đông.
Giáo sư Su Hao, giảng dạy tại viện đại học Ngoại Giao Trung Quốc (China Foreign Affairs University) tại Bắc Kinh nhận định, “Trung Quốc sẽ không điều chỉnh lại chính sách ngoại giao cho phù hợp với quan điểm của tân chính phủ Mỹ; chúng ta sẽ tiếp tục hành xử theo quan điểm của chúng ta và phục vụ quyền lợi của đất nước chúng ta.”
Nói cách khác, nếu ông Tillerson được Quốc Hội tấn phong vào chức vụ ngoại trưởng, và nếu ông thực hiện quan điểm của ông ‘cấm Tầu vào Biển Đông’ thì chiến tranh Mỹ-Trung Cộng sẽ xẩy ra?
Không hẳn như vậy, hoặc tối thiểu, viễn ảnh một cuộc phong toả quân sự trên Biển Đông cũng chưa đủ hiện thực để tạo ra những quan tâm, như người Mỹ đã quan tâm đến dàn hoả tiễn của Nga năm 1962.
Ông Anders Corr, giám đốc tổ chức Corr Analytics – một tổ chức nghiên cứu tình hình chính trị, cơ sở đặt tại New York – cho là, “người Tầu chỉ nói cứng để doạ các chính khách và doanh nhân Mỹ, chứ họ không đủ sức mạnh quân sự để đối phó với cuộc phong toả ông Tillerson đề nghị.
Corr chỉ đúng trong phần cuối của câu nói ‘Trung Cộng không đủ sức mạnh quân sự để đối phó với cuộc phong toả’, nhưng họ đang đối phó bằng cách bắt Việt Cộng hùa theo họ.
Trong lúc Tillerson chưa tìm được cớ để ‘cấm người Tầu vào Biển Đông’, Trung Cộng sẽ deal với Trump -bằng cách để yên cho Đài Loan và bà Thái Anh Văn, người đã điện đàm cầu cứu ông Trump.
Dù sao cũng phải nhìn nhận là, chưa nhậm chức nhưng Tillerson đã tỏ ra là một ngoại trưởng sắc bén, biết sử dụng uy thế của Hải Quân Hoa Kỳ. Ít nhất điều đó vẫn đáng mừng. Nguyễn đạt Thịnh
0 comments:
Post a Comment