Bài học tranh đấu dân chủ của Miến Điện
Đầu tháng 11 năm 2015, hai
sự kiện lịch sử đáng kể đã xảy ra ở hai nước láng giềng lớn ở Á Châu,
Trung Cộng và Miến Điện. Ngày 7 tháng 11, Tập Cận Bình đi xuống các nước
miền Nam, tái xác nhận chính sách bá quyền Trung Quốc trên vùng biển
Nam Thái Bình Dương, Trường Sa và Hoàng Sa là của Tàu. Đế quốc Trung
Cộng không thay đổi ý kiến về Đài Loan. Nền dân chủ Tây phương không có
chỗ đứng ở các quốc gia chư hầu theo mô hình Trung Quốc như Việt Nam.
Ngày hôm sau 8 tháng 11, tại Miến Điện, một quốc gia với 52 triệu dân
cạnh Trung Hoa và Thái lan, cuộc tổng tuyển cử kể từ năm 2011 khi chính
quyền bán dân sự được thành lập sau 49 năm dưới chế độ độc tài quân
phiệt, đã thành công với hơn 32 triệu dân thực hiện quyền công dân.
Những tiếng nói của người dân “thấp cổ bé miệng” đã được thực hiện qua
lá phiếu. Người dân được làm chủ vận mệnh của chính mình. Những bộ mặt
trang nghiêm, vui mừng và hạnh phúc của người dân Miến Điện đã cho thấy
ánh sáng của dân chủ trong ngày bầu cử. Tổng tuyển cử Miến Điện thành
công là kết quả tranh đấu của người dân Miến Điện dưới sự lãnh đạo của
bà Aung San Suu Kyi và sự cộng tác của chính quyền quân nhân qua những
thập niên máu lửa của lịch sử hiện đại trong khung cảnh kinh tế chính
trị toàn cầu của thế giới trong cuối thế kỷ hai mươi và đầu thế kỷ hai
mươi mốt. Miến Điện trên đường đi lên chối bỏ quá khứ lạc hậu khác với
Viêt Nam.
Cuộc tổng tuyển cử ngày 8 tháng 11 năm 2015 đánh dấu sự chuyển biến
quan trọng với 6,000 ứng cử viên của 90 đảng chính trị tranh các ghế từ
quận, tỉnh đến Quốc Hội. Miến Điện, một trong những quốc gia nổi tiếng
giàu tài nguyên thiên nhiên nhiều quặng mỏ, đã bị tàn phá qua nhiều thập
niên dưới sự cai trị của các chính quyền quân nhân độc tài từ năm 1962.
Các chính quyền độc tài quân phiệt Miến Điện, giống như các chính quyền
độc tài Cộng Sản ở các quốc gia láng giềng Đông Nam Á, đã có một chính
sách độc tài từ chính trị đến kinh tếđã làm thiệt hại cho quốc gia với
nền kinh tế kiệt quệ không theo kinh tế thị trường. Chính quyền quân
nhân đã đánh đập, nhốt đối lập trong các nhà tù nổi tiếng với những biện
pháp tra tấn vàđàn áp. Tự do báo chí bị cấm đoán với chế độ kiểm duyệt
khắt khe. Miến Điện tự cô lập, cắt đứt liên lạc với thế giới Tây phương.
Năm 1988 đánh dấu cao điểm của chế độ độc tài quân nhân dưới quyền
lãnh đạo của Tướng U Ne Win. Biểu tình đòi dân chủ bộc phát khắp nơi.
Nhà độc tài Ne Win ra lệnh tàn sát bắn vào đoàn biểu tình giết hơn sáu
ngàn người. Bà Aung San Suu Kyi về nước trong cùng năm cầm đầu phong
trào bất bạo động theo chính sách của thánh Gandhi. Bà là con của tướng
Aung San người có công dành độc lập cho Miến Điện từ Anh, đồng sáng lập
đảng Dân chủ Quốc gia (NLD) bị ám sát khi làm thủ tướng năm 1947. Trở về
Miến Điện sau nhiều năm học ở Anh, bà Aung San Suu Kyi đã được dân Miến
Điện xem là “tiếng nói của hy vọng” trong khi đảng quân nhân cầm quyền
USDP (đoàn kết phát triển) cố dập tắt tiếng nói của lãnh tụđảng đối lập
NLD. Năm 1989, bà Suu Kyi bị giam tại gia. Qua năm 1990,6 đảng Dân chủ
thắng cuộc bầu cử Quốc Hội, chính quyền độc tài quân nhân hủy bỏ kết
quả, quản thúc bà Suu Kyi tại gia thêm 15 năm mặc dù bà nổi tiếng sau
khi được giải Nobel Hòa Bình năm 1991. Hội đồng quân nhân trả đũa thế
giới sau giải Nobel, cấm tất cả hoạt động đảng phái cho đến năm 2010, bà
Suu Kyi được thả vào tháng 11 năm 2010 và sau đó thắng cử dân biểu Quốc
Hội. Sự kiện này xảy ra là một nhượng bộ của chính quyền quân nhân để
Tây phương bãi bỏ chính sách cấm vận đối với Miến Điện từ năm 1988 sau
cuộc biểu tình đẫm máu. Sự thắng cử của bà Suu Kyi là một thành công lớn
của đảng Dân Chủ NLD, chống đạo luật bầu cử của chính quyền không cho
những tội phạm về chính trị hay những người sinh sống ở nước ngoài ra
tranh cử. Sự tranh đấu của đảng NLD thành công ngoài sự cương quyết của
bà Suu Kyi còn nhờ cách mạng áo cà sa (Saffron Revolution) năm 2007. Sau
cuộc cách mạng này, chính quyền quân nhân đã thay đổi từ độc tài qua
dân chủ có giới hạn. Cách mạng mạng lưới truyền thông Internet đã đóng
góp vào cách mạng ở Miến Điện. Năm 2010, mạng lưới truyền thông lên cao
trên các quốc gia chậm tiến, chính quyền quân nhân Miến Điện không đóng
cửa được hết các quán café Internet. Báo chí phát hành gia tăng, bớt
luật “tự kiểm duyệt” đặt ra cho ký giả.
Năm 2011, Tướng Thein Sein đắc cử tổng thống, dư luận Tây phương và
bà Suu Kyi vẫn nghi ngờ thiện chí và chính sách của ông nhưng Tổng Thống
Thein Sein đã chứng tỏ sự thành thật dân chủ hóa của ông. Chính quyền
của ông có chính sách chống tham nhũng, cá nhân và gia đình của ông
Thein Sein không bị mang tiếng tham nhũng. Tiếng nói đối lập được nghe,
tù chính trị được thả vàđược tham gia hoạt động chính trị, luật cấm tội
phạm chính trị ra ứng cử được bãi bỏ. Quan trọng nhất trong năm 2011 trở
đi là Tổng Thống Thein Sein là người yêu nước đã thấy rõ cơn ác mộng và
tham vọng “mô hình Trung Quốc” của đảng Cộng Sản Trung Quốc. Ông Thein
Sein đã bỏ dự án đập nước ở Miến Điện của Trung Cộng xây cất cũng như
không cho lập hải cảng và đường cao tốc qua Miến Điện. “Mô hình Trung
Quốc” với những cám dỗ của đảng Cộng Sản Trung Quốc cho các nước láng
giềng vay không cần xem dự án như ngân hàng thế giới và qũy tiền tệ quốc
tế cũng như 30 % tiền vào túi quan chức chính quyền không cám dỗ được
Tổng Thống Thein Sein. Miến Điện nhờ vậy thân thiện lại với Tây phương
và độc lập với Trung Cộng.
Bà Aung San Suu Kyi trở lại con đường chính trị cùng Tổng Thống Thein
Sein đã làm một cuộc cách mạng không đổ máu ở Miến Điện. Trong lịch sử
chính trị thế giới, mỗi quốc gia có một khung cảnh và chân trời chính
trị riêng. Cuộc cách mạng Miến Điện không phải là cuộc cách mạng nhân
dân, đấu tranh giai cấp như cách mạng Cộng Sản đổ máu để xây dựng một
giai cấp chủ nhân mới như ở Việt Nam và Trung Cộng, mặc dù năm 2007 đã
có cuộc “cách mạng áo cà sa” của các nhà sư. Cách mạng Miến Điện giống
như cách mạng của Tổng Bí Thư Gorbachev thời Sô Viết. Cách mạng từ trên
xuống dưới chứ không phải cách mạng từ dưới lên trên. Cách mạng thành
công với cá tính mạnh mẽ của bà Aung San Suu Kyi và sự mong muốn chấm
dứt cô lập với thế giới bên ngoài để trở về với cộng đồng văn minh thế
giới của Tổng Thống Thein Sein. Cách mạng này mang màu sắc văn hóa chính
trị văn minh Tây phương sau thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai với
tinh thần tái thiết quốc gia, không giữ lòng thù hận đấu tranh giai cấp
như Cộng Sản Việt Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Trong cuộc cách mạng
thật sự, tương lai nền dân chủ mới tùy thuộc vào thiện ý của các đảng
phái chính trị để thành lập chính phủ liên hiệp. Ở Anh, nền dân chủ đã
thành công vào năm 1924, đảng lao động cộng tác với đảng cấp tiến để
thành lập chính phủ sau thế chiến thứ nhất. Ở Hoa Kỳ, Tổng Thống F.D.
Roosevelt thành lập chính phủ với hai thành phần Nam Bắc và gần đây ở
Đức sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, nước Đức thống nhất, chính phủ mới
liên kết giữa hai thành phần cấp tiến và dân chủ Thiên Chúa Giáo đãđưa
nước Đức đến tình trạng thịnh vượng như ngày hôm nay.
Trước ngày tổng tuyển cử 8 tháng 11 năm 2015, hầu hết các đạo luật
lỗi thời đã được bãi bo, trong đó có đạo luật cấm hội họp trên năm người
(đạo luật áp dụng trong 20 năm nay) và chính quyền quân nhân đã thả
hàng ngàn tù chính trị nhưng dân chủ thật sự vẫn chưa được thành lập.
Quân đội vẫn nắm quyền kiểm soát, giữ 25% ghế Quốc Hội và cố gắng của
đảng đối lập vận động bỏ luật hiến pháp “bất cứ ai hay người trong gia
đình có quốc tịch nước ngoài thì người ấy không được ứng cử tổng thống”
đã thất bại, vì vậy bà Aung San Suu Kyi không thể làm tổng thống và vì
được bảo đãm giữ 25% ghế Quốc Hội nên lần này chính quyền quân đội đã
lên tiếng chịu thua không phá rối (Bà Suu Kyi năm nay 70 tuổi có chồng
người Anh Michael Aris và hai con quốc tịch Anh).
Tháng hai năm 2016, Quốc Hội lưỡng viện sẽ bổ nhiệm tổng thống từ 3
ứng cử viên được đề cử bởi lưỡng viện và quân đội. Bà Aung San Suu Kyi
lãnh đạo đảng thắng cử, NLD, sẽ trở thành tổng thống không ngôi! Nền dân
chủ không toàn hảo sau cuộc tổng tuyển cử vì vậy được xem là nền dân
chủ kỷ luật (Disciplined Democracy) trong đó người dân Miến Điện đồng ý
không thách thức với chính quyền và tài sản của các tướng lãnh và viên
chức chính quyền cũ không bị đụng chạm. Thời hậu Xô Viết nền dân chủ Nga
được đặt tên là nền dân chủ quản trị (Managed Democracy) nay Miến Điện
có nền dân chủ mới lạ với hai đảng cầm quyền USDP (đoàn kết và phát
triển) và đối lập dân chủ cần nhiều thay đổi.
Đảng quân nhân cầm quyền USDP đã có công phát triển kinh tế trong kế
hoạch ngũ niên, tiến bộ về tự do hội họp và phát triển, chính quyền đã
biết nhận lỗi tham nhũng từ trong chính quyền ra đến các dịch vụ thương
mại, xây dựng đường xá cầu cống và vệ tinh truyền thông mặc dù vẫn mang
tiếng độc tài và hội Ân Xá Quốc Tế vẫn lên án chính quyền vào tháng 6
năm 2015, 10 ký giả bị tù vì vi phạm những “lằn ranh đỏ” không thể vượt
qua: Những chuyện có liên quan đến quân đội, phong trào Phật Giáo quốc
gia quá khích và những khốn khổ của những dân tộc thiểu số Rohingya.
Bà Aung San Suu Kyi khi trở thành lãnh tụ đảng Dân Chủ, bà đã cho
thấy bà là người thực tiễn chứ không phải là người thánh thiện như báo
chí Tây phương thường viết về bà từ năm 1991. Hồi tháng 8 năm 2015, bà
đã trục xuất 10 đảng viên Dân Chủ ra khỏi đảng vì họ phản đối các ứng cử
viên của bà chọn ra tranh cử tháng 11. Bà cũng ngăn cấm các ứng cử viên
đảng không được tiếp xúc với giới truyền thông! “Tiếng nói của hy vọng”
năm 1991 nay dập tắt các tiếng nói khác? Trầm trọng nhất là hai sự kiện
đã làm ký giả Tây phương chú ý đến. Thứ nhất là bà đã loại 88 cựu tù
nhân chính trị ra khỏi danh sách ứng cử viên. Thứ hai là vụ dân thiểu số
Hồi Giáo Rohingya, sống gần biên giới Miến Điện và Bangladesh, ở Miến
Điện nhưng không được mang quốc tịch Miến Điện. Năm 2012, nổi loạn đã
xảy ra khi có tin đồn nguời Hồi đã hiếp dâm một phụ nữ Phật Giáo. Những
tu sĩ Phật Giáo quá khích giết hơn 100 người Hồi Giáo và chủ trương tàn
sát chủng tộc kết quả là 140,000 người Hồi vào trại tập trung, 100 ngàn
người vượt biển bằng thuyền qua Thái và Mã Lai với hơn ngàn người chết
trên biển. Phong trào Phật Giáo Quốc Gia cực đoan 969, chủ trương giết
hết Hội Giáo, cầm đầu bởi ông sư Ma Ba Tha. Hiến Pháp Miến Điện năm 2008
cấm tu sĩ làm chính trị nhưng sương Ma Ba Tha tấn công Hồi Giáo và gọi
bà Suu Kyi là kẻ chống Phật Giáo. Bà Suu Kyi đã im lặng vì lý do chính
trị không lên tiếng binh vực những người Hồi Giáo thế cô vì sợ bị gọi là
“yêu người Hồi” trong xứ 90% Phật Giáo.
Lỗi nặng khác của bà Suu Kyi kà bà đã đứng về phe chính quyền quân
nhân trong vụ tranh chấp giữa dân nghèo với chủ nhân mỏ đồng do Trung
Cộng làm chủ mặc dù mỏ đồng vi phạm môi sinh và theo chính sách của
Trung Cộng không mướn nhân công bản xứ, không tạo công ăn việc làm cho
Miến Điện, can đảm của lãnh tụ đảng chính trị khác với can đảm của nhà
tranh đấu nhân quyền Aung San Suu Kyi. Bà đã đồng ý với chính quyền
không để 1 triệu 300 ngàn dân Hồi thiểu số trong đó có 500 ngàn người ở
tuổi đi bầu không được ứng cử và bầu cử.
Cuộc tổng tuyển cử tự do ngày 8 tháng 11 năm 2015 ở Miến Điện thành
công hy vọng sẽ đưa đến một nền dân chủ thật sự trong đó những đại biểu
có can đảm phát biểu và tranh đấu cho sự thật và quyền lợi của người
dân. Quốc Hội dân chủ ấy sẽ khác hẳn với Quốc Hội Cộng Sản Việt Nam với
những đại biểu bù nhìn “phường tuồng” vui cười vỗ tay đồng ý với Hoàng
Đế Trung Hoa Tập Cận Bình du Nam Phương đọc diễn văn tuyên bố Hoàng Sa
và Trường Sa là của Tàu.
Nhìn cảnh các đại biểu Quốc Hội Việt Nam hèn nhát trước mặt Hoàng Đế
Trung Hoa Tập Cận Bình, người ta không thể không nhớ cảnh triều đình
thời quân chủ chuyên chế ở Anh vào thế kỷ 17 khi Shakespeare viết vở
kịch King Lear: “Ngay cả những người mù cũng nhìn thấy thế giới diễn ra
như thế nào: đặt một con chó lên ngồi trên ngai vàng rồi sẽ thấy tất cả
bọn quan trong triều sẽ đứng cúi đầu lạy nó!”
Việt Nguyên
---------
"Cộng sản Việt Nam 'chuyển sang đánh võ mồm"
Bàn về cuộc Hội
thảo Quốc tế lần thứ 7 với chủ đề "Biển Đông : Hợp tác vì an ninh và
phát triển khu vực" của Việt Nam được tổ chức tại thành phố Vũng Tàu
Việt Nam, giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng nói "để gở gạt, CSVN chuyển sang ...
đánh võ mồm"
Bài viết trên BBC Vietnamese cách nay vài tiếng:
Việt Nam không 'đánh võ' được trên thực tế, nên đã chuyển sang 'đánh võ
mồm' để quốc tế hóa vấn đề Biển Đông và cuộc hội thảo quốc tế mới tổ
chức ở Vũng Tàu là một 'thành công', theo một một học giả của Mỹ từ
Singapore.
Trao đổi với BBC từ Vũng Tàu, Việt Nam hôm 24/11/2015,
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên gia bang giao quốc tế của Đại học
George Mason, Mỹ nói:
"Tôi nghĩ họ (Việt Nam) không đánh nhau bằng võ được thì họ đánh võ mồm thôi.
"Họ tìm cách quốc tế hóa vấn đề Biển Đông ra, thì họ làm đến lần thứ bảy rồi đó.
"Những người mà trẻ mà họ tổ chức thì bây giờ cũng khá lắm rồi, có căn bản, kiến thức luật pháp, rồi ngoại giao họ đều khá.
"Và bởi vì lâu rồi, thành ra họ biết những người nào nói như thế nào, thành ra họ tổ chức như thế này."
Đạt được mục đích
Theo Giáo sư Hùng, người hiện cũng đang là chuyên gia khách mời cao cấp
tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) tại Singapore, nói thêm về điều
mà ông cho là thành công của cuộc Hội thảo quốc tế do Việt Nam vừa tổ
chức.
Ông nói: "Họ đạt được mục đích là thứ nhất quảng bá, quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, làm mọi người phải để ý đến vấn đề đó.
"Và thứ hai, nó củng cố lập trường của họ và nó làm cho lập trường của Trung Quốc tương đối là không được coi là chính thống."
Bình luận về điểm đáng chú ý từ các ý kiến tại chia sẻ tại Hội thảo
Vũng Tàu, đặc biệt liên quan tới các quan điểm đến từ Trung Quốc, Hoa
Kỳ, Nhật Bản, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng nói thêm:
"Mỹ thì tôi thấy
tòa Đại sứ đi nhiều nhưng họ không mời lên nói, về phía học giả Mỹ tôi
thấy Patrick Cronin có giải thích quan điểm của Mỹ.
"Ở đây người
ta cho rằng quan điểm của Mỹ tương đối không rõ ràng, không biết là cái
gì và có đủ cứng rắn, mạnh mẽ hay không, thì ông Patrick Cronin giải
thích rất rõ rệt chính sách của Mỹ. Đấy là một quan điểm về phía Mỹ.
"Còn mấy ông học giả Trung Quốc có dịp để giải thích cho các ông. Và tôi thấy một số người tôi cũng gặp nhiều nơi rồi.
"Tôi gặp cả Trung Quốc nữa, thì nói chuyện vui vẻ thôi, nhưng mà có mấy
cô là những người mới, tôi thấy họ thoáng và có tính cách 'flexible'
(uyển chuyển, linh hoạt) hơn.
"Tôi cũng có hỏi mấy ông Trung Quốc, họ nói với tôi những cô đó, có người luận án về vấn đề luật pháp như vậy.
"Và cô nói khá là 'flexible' (uyển chuyển), bởi vì người ta là academic
(hàn lâm). Nó có cả những người học giả là những người thân chính phủ
hơn.
"Nhưng mà những người học giả trẻ, tương đối họ linh hoạt
hơn... Nếu chỉ căn cứ vào những người học giả trẻ, thì tôi thấy thay đổi
của Trung Quốc đã hơi linh hoạt. Vấn đề là con đường lưỡi bò."
Chín đoạn - một 'sai lầm'
Nhân nói về bản đồ đường chín đoạn trên Biển Đông do Trung Quốc đơn
phương lập ra và công bố, Giáo sư Nguyễn Quốc Hùng, nhân dịp này cũng
bình luận về một quan điểm đến từ Anh của tác gia, nhà báo Bill Hayton
đang làm việc tại BBC.
Ông Hùng nói: "Tôi thấy bài hội thảo của ông Bill Hayton rất hay.
"Bill Hayton có quyển sách về vấn đề Biển Đông rồi, nhưng ông cũng đưa
ra một số văn bản, tài liệu in màu sắc đàng hoàng, tử tế, thì họ cũng
chứng minh rằng là chuyện Trung Quốc vẽ đường chín đoàn là một sự sai
lầm.
"Nó căn cứ vào một tài liệu sai lầm, ông (Trung Quốc) nhầm, ông viết như vậy.
"Và những tài liệu đó là những tài liệu gốc, thì ông (Hayton) có những tài liệu gốc - không có những chuyện đó.
"Về sau này, là nó (TQ) cứ bịa thêm, chẳng hạn như có một hòn đảo gọi là James Shoal, thì cái đảo đó không bao giờ có cả...
"Nói tóm lại thì ông (Hayton) bảo rằng đường lưỡi bò là chuyện không có. Ông nói một câu mà nhiều người buồn cười, ông bảo:
"Cái tuyên bố đòi chủ quyền (claim) của Trung Quốc là một tuyên bố dựa
trên cảm xúc (emotional claim), chứ không phải là tuyên bố có căn cứ
lịch sử (historic claim)," Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng thuật lại với BBC.
Trong hai ngày 23-24/11/2015, cuộc Hội thảo Quốc tế lần thứ 7 về Biển
Đông với chủ đề "Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển khu vực"
của Việt Nam đã được tổ chức tại thành phố Vũng Tàu ở miền Nam Việt Nam.
Hội thảo này do Học viện Ngoại giao thuộc Bộ Ngoại Giao Việt Nam, Quỹ
Hỗ trợ Nghiên cứu Biển Đông (FESS) và Hội Luật gia Việt Nam (VLA) đồng
tổ chức.
Cuộc Hội thảo có hơn 200 đại biểu, trong đó có trên dưới
bảy mươi học giả và đại biểu Việt Nam cùng 30 đại biểu và nhiều cơ quan
đại diện nước ngoài, đoàn ngoại giao tại Việt Nam và truyền thông trong
và ngoài nước tham gia, theo Ban Tổ chức.
Đã có trên 30 tham
luận được trình bày qua hai ngày Hội thảo, chưa kể các trao đổi bên lề,
với sáu nhóm chủ đề là: tình hình thế giới và tác động đến vấn đề Biển
Đông, các diễn biến gần đây trên Biển Đông, quan hệ nước lớn ở Biển
Đông, luật pháp quốc tế, triển vọng tương lai, tình huống giả định: giải
quyết, phân định và hợp tác ở Biển Đông, vẫn theo Ban tổ chức Hội thảo
0 comments:
Post a Comment