Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa
Thursday 20 February 2014
ĐỊNH MỆNH TỰ HỦY DIỆT CỦA MÔ HÌNH KINH TẾ XHCN
Thursday, February 20, 2014
No comments
Mô
hình Kinh tế dựa trên Tập quyền Chỉ huy như ở Trung quốc và Việt Nam, gọi là
định hướng XHCN, để lộ cái bệnh hoạn của mình từ những năm 2010-2011 khi mà
cuộc Khủng hoảng Tài chánh/Kinh tế Thế giới làm tụt giốc mãi lực của những Thị
trường tiêu thụ lớn như Hoa kỳ và Liên Au. Từ đó, cái bệnh hoạn mỗi ngày mỗi
trở thành trầm trọng cho đến hiện tình tác hại lên đời sống của quần chúng dân
nghèo. Cái bệnh hoạn này tự phát sinh từ chính chủ trương Kinh tế Tập quyền Chỉ
huy đã là định mệnh tự hủy diệt mà chính Lý Luận của Karl Marx hé cho thấy.
Thực vậy, Mô
hình Kinh tế Tập quyền Chỉ huy đã cáo chung với Nga và Đông Âu. Trung quốc và
Việt Nam vẫn bấu víu lấy nội dung của mô hình, mà chỉ thêm cái đuôi “định hướng
XHCN“ vào Kinh tế Thị trường để đánh lừa thiên hạ. Nội dung vẫn giữ chủ trương
độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế mà chúng tôi gọn lại là Mô hình Kinh tế
XHCN.
Đã từ cuối năm 2011, Chủ tịch Ngân Hàng Thế giới, Ông Robert ZOELLICK,
cũng như Tổng Giám Đốc Quỹ Tiền Tệ Quốc tế, Bà Christine LAGARDE, đều họp báo
tại chính Bắc Kinh thôi thúc Trung quốc phải cấp bách Cải tổ từ căn nguyên Mô
hình Kinh tế XHCN bởi vì với Khủng hoảng Tài chánh/Kinh tế Thế giới hiện nay,
Kinh tế XHCN đã bước xuống một cái giốc
mà không thể cưỡng lại và Mô hình Kinh tế ấy đang làm phá sản Kinh tế quốc dân
để có thể đi đến bạo loạn Xã hội và lan sang Chính trị .
Tại
Trung quốc, chính Thủ tướng On Gia Bảo, từ năm 2010, đã nói trước Quốc Hội, về
những bất ổn Chính trị như hậu quả Kinh tế:
“L’inflation,
plus une redistribution inéquitable des revenus et la corruption pourraient
affecter la stabilité sociale et même la stabilité du gouvernement” (Lạm phát,
thêm vào đó là một sự phân phối không đồng đều những thu nhập và tham nhũng có
thể tác hại đến sự ổn định xã hội và ngay cả đến sự ổn định nhà nước” (Le Monde 16.03.2010, trang 16).
Bản Tin của AFP,
từ Hà Nội ngày 11.12.2012, đã nói về nhận định của Bà Victoria KWAKWA , Giám
đốc Ngân Hàng Thế Giới, về việc xuống giốc của Kinh tế XHCN Việt Nam:
“HÀ NỘI,
11.12.2012 (AFP) – Việt nam có nguy cơ rơi vào lâu dài trong “cái bẫy thu nhập
rất kém“ nếu nhà nước không cải cách hệ thống ngân hàng và những xí nghiệp nhà
nước, vừa không có hiệu quả vừa chất chồng những nợ nần.
Độ phát
triển Kinh tế của xứ cộng sản này vào năm 2012 là ở mức độ thấp nhất kể từ năm
1999. đó là lời nhận định của Bà Giám đốc Ngân Hàng Thế giới trong cuộc Họp
thường niên cuối năm nay tại Hà Nội.
Kinh
tế mất đi nặng nề về tính sinh động và những ràng buộc thuộc Cơ chế càng ngày
càng nặng nề gây thụt lùi trầm trọng tính cạnh tranh và độ tăng trưởng, Bà
Victoria KWAKWA thẳng thắng nói như vậy trong bản công bố vào chiều tối thứ Hai
10.12.2012.
Việt Nam
đã được coi như một quốc gia nhiều hy vọng vào những năm 90. Một số người còn
coi đây là con rồng tương lai Á châu. Nhưng tiếc thay, Chế độ đã không bao giờ
muốn hay thành công, dù muốn, trong việc cải cách MÔ HÌNH KINH TẾ, nhất là
không rời bỏ những phương pháp sản xuất từ thời cũ nát KINH TẾ CHỈ HUY HOẠCH
ĐỊNH. (ceb/ltl/dla/abl--AFP
110734 GMT DEC 12)
Bài viết này
nhằm cắt nghĩa những lý do đưa đến tụt giốc Kinh tế và tan rã của Mô hình Kinh
tế XHCN. Có những lý do thuộc nội tại của Mô hình. Có những lý do từ sự mất tin
tưởng và từ sức ép của nền Kinh tế Tự do Thị trường nước ngoài. Những lý do ấy
được trình bầy qua những điểm sau đây:
=>
Đối lực làm tan rã mô hình như một định mệnh theo lý luận của Marx
=>
Sự xâu xé giữa những nhóm lợi ích quyền lực trong đảng cầm quyền
=>
Hiện tình suy thoái của Kinh tế Việt Nam và những biện pháp vá víu
Đối lực làm
tan rã mô hình như
một định
mệnh theo lý luận của Marx
Lý luận của Karl Marx: TƯ BẢN tự hủy diệt
Ý thức hệ
Cộng sản dựa trên lý luận của Karl Marx về Định mệnh Kinh tế Tư bản (Fatalité
Economique Capitaliste). Kinh tế Tư bản đặt Tiền đề là TƯ HỮU. Vì tư hữu
(Propríeté Privée) mà phải có Tự do kinh
doanh (Liberté d’Entreprise) và rồi Tự do Trao đổi ở Thị trường (Libre Echange
au Marché).
Karl Marx lý
luận rằng nền Kinh tế Tư bản Tự do và Thị trường gồm những bóc lột của giới Tư
bản đối với giới Lao động. Nền Kinh tế ấy vô sản hóa giới Lao động (Prolétarisation
des Travailleurs) đến độ giới này chịu không nổi mà phải đứng lên làm Cách Mạng
Vô sản đòi lại những Tư sản cho giới vô sản của mình. Dựa trên cách đo lường
bằng sức Lao động cho những Giá trị sản phẩm Kinh tế mà nhà đại Kinh tế gia cổ
điển Anh, David RICARDO, đã có sáng kiến đặt ra, Karl Marx nói đến việc đấu
tranh của giới Lao động. Theo David RICARDO, Giá trị của một sản phẩm Kinh tế
được đo lường bằng sức Lao động hội nhập vào sản phẩm. Tư bản vì vậy được coi
là sự chiếm hữu sức Lao động từ giới Thợ thuyền để làm sở hữu của giới Tư bản.
Giới này quay lại dùng Tư bản để bóc lột thêm giới Thợ thuyền nữa. Karl Marx
gọi đây là vông thân Kinh tế (Alíenation Economique), nghĩa là Tư bản thuộc Thợ
thuyền, nhưng Thợ thuyền đưa tặng cho giới Tư bản để rồi giới Tư bản quay lại
bắt Thợ thuyền làm đầy tớ cho Tư bản.
Lénine lấy Lý
luận này của Karl Marx làm ý thức hệ cho Cách Mạng Vô sản và kêu gọi đấu tranh
giai cấp: NHỮNG NGƯỜI VÔ SẢN HÃY ĐỨNG LÊN ĐÒI LẠI TƯ BẢN CHO ĐOÀN NGŨ THỢ
THUYỀN, dù bằng những biện pháp đẫm máu (Lutte des Classes sanglante). Nhưng
giới Vô sản là đám đông, phải có một Nhóm người đứng ra quản trị những Tư sản
vừa thu hồi được. Nhóm người này là đảng Cộng sản. Những Tư hữu trở thành Công
hữu và do đảng Cộng sản nắm giữ, chỉ huy và làm Kinh tế. Đó là nền Kinh tế Chỉ
huy (Economie Dirigiste) với Công hữu (Propríeté Collective) và với những Hoạch
định Kinh tế của Nhà Nước (Plans Economiques Etatiques).
Theo dòng Lý luận của Karl Marx,
TƯ BẢN ĐỎ bóc lột cũng theo Dịnh Mệnh tự hủy diệt
Nếu Karl Marx
gọi việc Vô sản hóa là một tiến trình tự động (Processus automatique) và việc
sụp đổ của nền Kinh tế Tư bản là một Định Mệnh của chính Tư bản (Fatalité
d’auto-destruction du Capitalisme), thì Lịch sử sự sụp đổ của Thế giới Cộng sản
cũng cho thấy một Định mệnh tự hủy diệt của TƯ BẢN ĐỎ bóc lột giới vô sản, đó
là việc tự sụp đổ của Cộng sản do chính giới Vô sản thiếu ăn đến cùng cực
(Fatalité d’auto-destruction du Communisme/du Capitalisme rouge).
Thực vậy,
trong lúc nền Kinh tế Tư hữu Tự do và Thị trường tiếp tục phát đạt và Tư sản
hóa dần dần giới Lao động, thì nền Kinh tế Công hữu và Chỉ huy lại càng vô sản
hóa giới Lao động đến cùng cực. Đến lúc mà giới Lao động này quá đói khổ trong
một nền Kinh tế do đảng Cộng sản chỉ huy, thì họ đứng lên lật đổ nền Kinh tế
chỉ huy này và đảng Cộng sản độc tài chỉ huy.
Nga và các
nước Đông Aâu đã bỏ độc tài độc đảng và lấy lại nền Kinh tế tư sản Tự do và Thị
trường.
Viet Nam và
Trung quốc vẫn cố tình ngụy biện bám víu Ý thức hệ đã sai lầm lịch sử ấy. Dù cố
tình ngụy biện vì quyền hành cho độc đảng của mình, nhưng cái Định mệnh tự hủy
diệt vẫn lạnh lùng diễn ra.
Sau khi Nga
và Đông Âu từ bỏ mô hình Kinh tế Tập quyền Chỉ huy, Trung quốc và Việt Nam khép
kính của để cố thủ giữ lấy nội dung mô hình Kinh tế Cộng sản cũ khiến dân chúng
đói nghèo đến cùng cực với việc khép kín. Trung Cộng và Việt Nam đành phải
tuyên bố MỞ CỬA cho Thế giới Tư bản với nền Kinh tế tư sản Tự do và Thị trường.
Cái Định Mệnh
Tự Hủy Diệt (Fatalité d’auto-destruction) cứ lù lù tiến tới và tăng tốc khi
giai đoạn MỞ CỬA cho dân thấy sự thành công của Thế giới tư bản. Giai đoạn MỞ
CỬA có những phát triển Kinh tế do sự làm ăn với Thế giới tư sản Tự do Thị
trường. Đảng cố tình tuyên truyền rằng đó là công của đảng. Nhưng Dân chúng
khám phá ra những tham nhũng và lãng phí có hệ thống của đảng, đó là kẻ thù của
phát triển. Phải nói rằng sự phát triển hiện nay là do sự nhẫn nại làm ăn của
Dân chúng Việt Nam, do nguồn vốn cung cấp hàng năm của khối người Tỵ nạn Cộng
sản ở nước ngoài, do tiếp cận hạn hẹp làm ăn với Thế giới Tư bản. Chính đảng
Cộng sản làm thất thoát và trì hoãn việc phát triển này mới đúng. MỞ CỬA và HỘI
NHẬP với nền Kinh tế Thị trường tư bản, Kinh tế Trung quốc và Việt Nam có những
thu nhập, nhưng những thu nhập này lại lọt vào tay những đảng viên cầm quyền
khiến hố sâu Giầu—Nghèo mỗi ngày mỗi khơi rộng. Thu nhập Kinh tế nằm trong tay
một thiểu số nhóm lợi ích TƯ BẢN ĐỎ, còn quần chúng thì bị bóc lột đến đói
nghèo. Quần chúng đói nghèo này trở thành lớp VÔ SẢN mà lý luận của Karl Marx
đã coi như giai cấp nồng cốt lật lại giai cấp TƯ BẢN dù XANH trước đây hay ĐỎ
hiện nay. Việc đứng lên của giới VÔ SẢN lật lại TƯ BẢN XANH hay ĐỎ là một Định
mệnh Tự hủy diệt (Fatalité d’autodestruction).
Xin nhắc lại
là đã từ năm 2010, chính Thủ tướng ÔN GIA BẢO, trước Quốc Hội Trung quốc họp
ngày 14.03.2010, đã báo trước về Định mệnh tự hủy diệt này:
“L’inflation,
plus une redistribution inéquitable des revenus et la corruption pourraient
affecter la stabilité sociale et même la stabilité du gouvernement” (Lạm phát,
thêm vào đó là một sự phân phối không đồng đều những thu nhập và tham nhũng có
thể tác hại đến sự ổn định xã hội và ngay cả đến sự ổn định nhà nước” (Le Monde 16.03.2010, trang 16).
Sự xâu xé
giữa những nhóm lợi ích quyền lực
trong đảng
cầm quyền
Cái Mô hình
chủ trương Độc tài Chính trị nắm Độc quyền Kinh tế làm phát sinh và lan tràn
THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ trong hàng ngũ đảng cầm quyền. Nếu cái Định mệnh tự hủy
diệt, theo lý luận của Karl Marx, đến từ giới VÔ SẢN do TƯ BẢN XANH hay ĐỎ tạo
ra, thì việc làm tan rã Mô hình Kinh tế XHCN hiện hành còn đến từ chính giới
Lạnh đạo xâu xé nhau về THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ.
Trong Hội
nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản khóa XI được tổ chức
tại Hà Nội vào đầu tháng 5 vừa qua, Nguyễn Phú Trọng nói chính yếu về vấn đề
tham nhũng. Đó cũng chính là một trong những vấn đề quan trọng nhất được Ban
chấp hành Trung ương đảng thảo luận trong suốt cuộc hội nghị kéo dài đến chín
ngày. Trước đây, nhiệm vụ Phòng chống Tham nhũng được giao cho Nguyễn Tấn Dũng
(Nhà Nước), nay việc đó được chuyển về chính Bộ Chính trị (Đảng). Khi nói đến
việc chống Tham nhũng thì cả người trách nhiệm Đảng cũng như Nhà Nước đều lấy
“Tinh thần Cách Mạng “ làm phương tiện để diệt Tham nhũng. Nhìn như vậy thì
việc chống Tham nhũng không đi vào thực tế của vấn đề. Thực vậy, “Tinh thần
Cách Mạng“ đã chết nghoẻo từ lâu rồi. Đảng (Bộ Chính trị) và Nhà nước (Nguyễn
Tấn Dũng), từ thằng trên xuống thằng dưới đều THAM NHŨNG, thì làm thế nào đứng
giữ trách nhiệm Phòng Chống Tham nhũng được. Đừng nói đùa để bịp bợm. Hãy vào
sự thực căn gnuyên của THAM NHŨNG.
Nhân chi sơ, Tính tham lam
Năm 1964,
cách đây gần nửa Thế kỷ, tôi bắt đầu hội nhập đời sống Chính trị Sinh viên tại
Sài gòn, chống lại HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC của Bác sĩ Lê Khắc Quyến khởi
xướng từ Huế tràn vào Miền Nam. Một Vị lão luyện trong Chính trường đã khuyên
tôi: “Khi cậu hoạt động Chính trị, thì phải tránh hai điều: (i) đừng động chạm
đến những vấn đề lăng nhăng đàn bà con gái; (ii) đừng liên hệ đến những điều không
sáng tỏ về tiền bạc. Khi tránh được hai vấn đề ấy thì quần chúng sẽ tha thứ,
cho dù cậu có dốt về Chính trị “.
Ngày nay, suy
nghĩ về hai vấn đề này, tôi thấy đây là hai vấn đề thuộc về thể xác từ khi chào
đời, nghĩa là thuộc bẩm sinh. Có thể nói là “Nhân chi sơ, tính Dâm dục và Tham
lam!”. Cuộc sống thân xác của một con người mang hai tính đó. Freud đã khẳng
định rằng mọi hành động của một con người có thể cắt nghĩa từ tính Dâm dục.
Tính Dâm dục là sự thỏa mãn thân xác cho xung động ham thích. Còn tính Tham lam
của cải vật chất là để trước hết bảo toàn sự sống còn thân xác. Hai tính đó có
ngay từ lúc con người mới sinh ra va mang cái xác con người. Khi lớn lên với
Giáo dục, từ Văn Hóa đến Tôn Giáo, người ta dậy cho những GIÁ TRỊ thuộc phạm vi
Tinh thần nhằm kềm chế hai cái Tính bẩm sinh thuộc Thân xác là Dâm dục và Tham
lam vật chất. Vì vậy khi một đảng viên Cộng sản không còn Tinh thần Tôn Giáo,
Văn hóa hay Cách Mạng, thì không còn phương tiện kềm chế hai tính bẩm sinh Dâm
dục và Tham lam vật chất. Phòng chống Tham nhũng được trách nhiệm bởi Nhà Nước
(Nguyễn Tấn Dũng) hay bởi Đảng (Nguyễn Phú Trọng), rồi cả hai lấy “Tinh thần
Cách Mạng “ ra để chống, thì đều là chuyện mây gió bịp bợm.
Phải diệt cái Hoàn Cảnh làm Phát sinh và Lan tràn
Tính Dâm dục và tính Tham lam
Hai cái Tính Dâm dục và Tham lam vật
chất thuộc bẩm sinh con người, thì ở Xã hội nào cũng có giống nhau. Điều hệ
trọng là Tổ chức Xã hội khả dĩ ngăn chặn sự phát sinh và triển nở hai cái Tính
bẩm sinh ấy. Chúng tôi xin kể ra đây một vài tỉ dụ cho thấy rằng phải diệt cái
HOÀN CẢNH làm nẩy sinh và phát triển tính Dân dục và tính Tham lam, chứ không
phải diệt hai Tính bẩm sinh ấy.
Tỉ dụ thứ
nhất về Tính dâm dục. Chúng tôi còn nhớ lại rằng khi sống tu trì trong Chủng
viện, mỗi lần gặp khách đến thăm, nhất là phái nữ, thì phải gặp ở Phòng Khách
mở cửa sổ quang đãng, mọi người có thể nhìn thấy. Thực vậy, cho dù một Thánh
nhân, đã trải qua nhiều năm “diệt dục“, nhưng khi Thánh nhân bị nhốt trong
phòng tối cùng với một mỹ nhân, không ai nhìn thấy, thì có ngày lòng Dục bẩm
sinh nổi lên và Thánh nhân có thể hú hí với mỹ nhân.
Tỉ dụ thứ hai
về Tính Tham lam vật chất. Một người được giáo dục và thực hành Công lý nhiều
năm. Nếu lúc này cho người đó Quyền hành độc đoán sinh sát người khác và đặt
bên cạnh người ấy một đống vàng, thì có lúc người đó cũng lượm mấy thỏi vàng
vào túi làm của riêng bảo đảm cho cuộc sống thân xác của mình. Nếu ai nghi ngờ,
thì người có quyền và đã biển thủ vàng sẽ dùng quyền độc tài mà bịt miệng kẻ
khác. Điều quan trọng là đã tạo cho con người biển thủ trên đây cái HOÀN CẢNH
vừa có quyền độc tài, vừa ngồi bên cạnh đống vàng. Xin nhắc lại rằng ở thời Mao
Trạch Đông, quyền độc tài còn mạnh hơn thời nay, nhưng THAM NHŨNG ít hơn vì
thời Mao Trạch Đông, không có đống vàng ở bên cạnh mà biển thủ, chứ không phải
thời Mao Trạnh Đông được giáo dục về Công lý kỹ càng hơn.
Dứt bỏ Cơ chế CSVN là diệt HOÀN CẢNH làm
nẩy sinh và phát triển THAM NHŨNG
Cơ chế CSVN
chủ trương độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế. Đó là HOÀN CẢNH làm nẩy
sinh tham nhũng, lãng phí. Không cần phải đưa Phòng chống tham nhũng từ Nguyễn
Tấn Dũng về cho Nguyễn Phú Trọng. Cả hai đều không chống nổi tính Tham lam bẩm
sinh tự con người, mà PHẢI TÁCH RỜI ĐỘC TÀI CHÍNH TRỊ RA KHỎI ĐỘC QUYỀN KINH TẾ
thì mới có thể kềm chế được THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ. Nó giống như việc đừng nhốt
chung trong Phòng tối một Thánh nhân và một Mỹ nhân, cũng như đừng cho một nhà
Độc tài quyền hành Chính trị có toàn quyền về đống Vàng ở bên cạnh.
Chống THAM
NHŨNG, LÃNG PHÍ không phải là diệt tính bẩm sinh THAM LAM VẬT CHẤT của cá nhân,
mà là diệt cái HOÀN CẢNH làm phát sinh và tràn lan tinh THAM LAM. Bãi phân là
HOÀN CẢNH để nẩy sinh và lan tràn giòi bọ. Giao bãi phân cho Nguyễn Phú Trọng
hay Nguyễn Tấn Dũng săn sóc, thì bãi phân vẫn là bãi phân, nghĩa là vẫn một
HOÀN CẢNH, mà giòi bọ vẫn nhung nhúc. Phải HỐT ĐI BÃI PHÂN, thì giòi bọ mới hết
chỗ (HOÀN CẢNH) nẩy sinh và lan tràn vậy.
Mô hình Kinh
tế XHCN tạo ra THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ để tự đánh nhau giữa cấp Lãnh đạo làm suy
thoái Kinh tế quốc dân. Phải đập tan cái Mô hình Kinh tế XHCN ấy vậy.
Hiện tình
suy thoái của Kinh tế Việt Nam
và những Cải
tổ không đi vào căn nguyên
Từ cuối năm
2011 và nhất là đầu năm 2012, Ngân Hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Hội
những Nhà Đầu tư đều lên tiếng thôi thúc Việt Nam cũng như Trung quốc phải Cải
tổ tận căn nguyên mô hình Kinh tế đang tụt giốc trầm trọng đà phát triển của
hai nước. Tìm hiểu căn nguyên của tụt giốc Kinh tế, chúng tôi đã viết nhiều bài
nói rằng đó chính là THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ phát sinh và lan tràn như giòi bọ
trong Cơ chế chủ trương độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế. Cải tổ tận căn
nguyên, tức là dứt bỏ chủ trương Cơ chế như vậy. Nếu Cơ chế vẫn còn chủ trương
độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế thì giòi bọ vẫn lan tràn ăn ruỗng Kinh
tế. Nếu không dứt bỏ Cơ chế, thì tất cả những biện pháp Chính trị Kinh tế
(Politiques Economiques) chỉ là vá váy đụp hời hợt.
Chúng tôi chờ
đợi việc cải tổ mô hình Kinh tế Việt Nam xem có đi vào tận căn nguyên hay
không. Trong tuần này, chúng tôi đọc được Bản Tin về việc hạ Lãi suất ngân hàng
ở Việt Nam như biện pháp Chính trị Kinh tế cứu vãn việc tụt giốc. Theo phân
tích tình trạng khủng hoảng Kinh tế không những tại Việt Nam mà còn toàn cầu,
chúng tôi thấy rằng việc giảm Lãi suất của Việt Nam không những không phải là
biện pháp cứu nguy Kinh tế, mà còn đạp thêm ga để chiếc xe Kinh tế mục nát CSVN
đang tụt giốc lao nhanh hơn vào tử huyệt.
Tình trạng mục nát, tụt giốc Kinh tế hiện nay.
Bản Tin của
VietBao tuần này tóm tắt tình trạng mục nát, tụt giốc Kinh tế trầm trọng của
Việt Nam. Bản Tin viết:
“HANOI — Kinh
tế khủng hoảng, dân cạn tiền tới mức nước mắm cũng không mua nổi.
Trang báo
chuyên về kinh doanh VEF loan bản tin nêu rõ trên tựa đề: “Kinh doanh sụt giảm:
Từ ôtô đến nước mắm.”Bản tin VEF cho biết, hàng tồn kho đang là mối đe dọa lớn
nhất đến các DN. Vấn nạn lan tràn từ các ngành công nghiệp lớn như ô tô, xe máy
đến những mặt hàng thiết yếu như… nước mắm. Sản xuất kinh doanh đang bế tắc và
kinh tế chưa thể sớm thoát khó khăn.
“Trao đổi mới
đây, ông Cao Sỹ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội DN nhỏ và vừa nhấn mạnh, vấn đề khó
khăn nhất của các DN hiện nay là bí đầu ra. Bây giờ với nhiều mặt hàng thiết
yếu người dân cũng không có tiền mua.”
Thê thảm
là nước mắm cũng ứ đọng.
Bản tin VEF
ghi nhận từ Hiệp hội nước mắm Nha Trang cho biết, các DN sản xuất nước mắm tại
Nha Trang cũng đang phải giảm sản xuất. Cho dù phải thắt chặt chi tiêu, người
tiêu dùng cũng phải mua nước mắm cho bữa ăn hàng ngày. Vậy mà trên thực tế, mặt
hàng này cũng không tránh khỏi tình trạng tiêu thụ giảm sút. Tại Nha Trang, có
nhiều DN nước mắm phải sản xuất cầm chừng từ đầu năm đến nay, nguyên nhân không
gì khác là sức tiêu thụ chậm, sản phẩm ứ đọng.
Bản tin cho
biết, theo bản khảo cứu của Ngân hàng HSBC, kinh tế VN đang cọ cụm, vì chỉ số
PMI đã thấp hơn 50 điểm. Con số trên 50 điểm là tăng.
Bản tin viết,
Chỉ số PMI (nhà quản trị mua hàng – Purchasing Managers Index) tháng 5/2012 do
Ngân hàng HSBC công bố cho thấy điều kiện kinh doanh của ngành sản xuất tại
Việt Nam vẫn đang xấu đi. Theo báo cáo này, chỉ số PMI ngành sản xuất đã giảm
từ mức 50 điểm vào tháng 3 xuống còn 49,5 điểm vào tháng 4 và tiếp tục giảm
xuống còn 48,3 điểm trong tháng 5/2012.
HSBC cho
biết, những DN tham gia khảo sát cho rằng, nhu cầu trên thị trường đã giảm khá
mạnh do người dân thực hiện tiết kiệm, thắt chặt chi tiêu. Bắt đầu từ các siêu
thị, doanh số giảm đi vì người dân giảm sức mua, siêu thị hạn chế nhập hàng,
khiến cho các nhà sản xuất hàng tiêu dùng cũng phải giảm năng lực sản xuất,
nguồn cung phải giảm nếu không muốn lượng hàng tồn kho tăng lên.
“Hiện nay, tình trạng sản xuất đang giảm được ghi nhận ở hầu hết các
ngành hàng từ dệt – may, giấy, da giày, nhựa, ô tô, xe máy, thép điện tử… Ngành
dệt may, dù bước vào mùa cao điểm trong năm nhưng phần lớn các DN vẫn đang gặp
khó khăn trong việc tìm kiếm đơn hàng. Hiệp hội Dệt may Việt Nam được biết,
trước đây khi vào mùa vụ, các DN có thể thoải mái lựa chọn đối tác để làm nhưng
nay thì ngược lại. Nhiều DN dệt may lớn, lượng đơn hàng giảm khoảng 5-10% so
với cùng kỳ, còn DN nhỏ có thể thiếu hụt trên 10% đơn hàng.
Các ngành sản
xuất khác như: xi măng, thép, ô tô, xe máy, thiết bị điện, thiết bị xây dựng…
thì sản xuất đã giảm quá mạnh từ đầu năm tới nay. Nhiều ngành hàng giờ chỉ còn
sản xuất chừng 50-60% công suất. Những ngành có lượng hàng tồn kho cao là đường
ăn, sắt thép, xi măng, ô tô và xe máy… Đến xăng dầu cũng tồn kho là 106.000
tấn, cho dù Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã tạm ngừng hoạt động để kiểm tra.
Thực tế đang
cực kỳ bi thảm, theo lời một nhà quan sát, rằng đây là lần đầu tiên kể từ thời
kỳ đổi mới, dân nghèo tới mức không có
tiền mua nước mắm. Nghĩa là thất nghiệp đã trở thành hiện tựơng quan ngại.
(VietBao)
Phân tích những lý do tụt giốc
CSVN ngoài lý
do căn bản tụt giốc Kinh tế của Cơ chế CSVN hiện hành mà chúng tôi luôn luôn
nhấn mạnh trong nhiều bài viết, đó là THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ ăn ruỗng những Tập
đoàn Kinh tế quốc doanh, chúng tôi muốn phân tích những lý do đang làm độ phát
triển Kinh tế chỉ còn 5.2% và tình trạng tồn đọng hàng hóa sản xuất khiến các
xí nghiệp, cả quốc doanh lẫn tư doanh, phải từ từ đóng cửa.
Kinh tế Việt Nam cũng như Trung quốc lệ thuộc vào xuất cảng. Tình trạng
co cụm sản xuất và và hàng hóa ứ đọng tồn kho là do luật CUNG và CẦU. Chính
phía CẦU là động lực cho sản xuất (CUNG). Phía CẦU lệ thuộc chính yếu vào Mãi
lực tiêu thụ. Nhìn như vậy, chúng ta thấy những lý do trực tiếp sau đây làm tụt
giốc Kinh tế VN và TQ:
=>
Tình trạng khủng hoảng Kinh tế của hai Thị trường lớn như Hoa kỳ và Liên
Aâu làm cho Thất nghiệp tăng vọt. Mãi lực của dân chúng Hoa kỳ và Liên Aâu giảm
hẳn xuống. Do đó việc đặt mua hàng Trung quốc và Việt Nam tất nhiên giảm xuống và làm cho
hàng hóa TQ và VN không xuất cảng nổi để
phải tồn đọng. Thêm vào đó, Nợ công của Hoa kỳ và Liên Aâu khiến hai khối Thị
trường này phải đưa ra những biện pháp tiết kiệm, nghĩa là giảm tiêu thụ. Thất
nghiệp làm Mãi lực dân chúng giảm và Nợ công khiến các quốc gia phải tiết kiệm.
Tất cả trong chiều hướng cắt đi phía CẦU những hàng hóa sản xuất từ Trung quốc
và Việt Nam.
=> Mãi lực dân chúng nội địa của Trung quốc
và Việt Nam rất ít ỏi để có thể trợ lực cho
phía CẦU nội địa. Trong khi ấy, vì muốn bảo vệ danh dự của Cơ chế, Trung quốc
và Việt Nam gồng mình giữ độ phát triển và mức
CUNG dồi dào. Mãi lực quốc tế giảm và Mãi lực nội địa không có, thì khó lòng
giữ thăng bằng được giữa CUNG và CẦU. Do đó hàng tồn kho là hậu quả.
=> Các Thị trường lớn Hoa kỳ và Liên Aâu
nay đã ý thức rằng tình trạng Thất nghiệp tại nước họ là do hậu quả của việc
lan tràn hàng hóa Trung quốc. Chính vì vậy, để bảo vệ cho sản xuất của chính
mình, Hoa kỳ, nhất là Liên Aâu đưa ra những Biện pháp Bảo Hộ Mậu dịch. Đây là
việc càng làm giảm thiểu đi phía CẦU nhập cảng hàng từ Trung quốc và Việt Nam.
=> Đặc biệt Việt Nam, ngoài việc giảm CẦU
do Mãi lực tiêu thụ quốc tế và quốc nội, Việt Nam còn bị hàng tồn đọng từ Trung
quốc tràn xuống để giết chết sản xuất tại sân nhà. Để cứu sản xuất nội địa, các
quốc gia phải ngăn cản nhập cảng hàng nước ngoài, trong khi ấy, Việt Nam bị
tràn ngập hàng Trung quốc để cạnh tranh với chính hàng sản xuất nội địa.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN,
Kinh tế
Geneva, 20.02.2014
Web: http://VietTUDAN.net
Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!
.
.
0 comments:
Post a Comment