Hồi ức về ngày 30 tháng Tư 1975
“Chúng nó đến rồi! Chúng nó đến nơi rồi!” Bà hàng xóm – nhà ở tận cuối ngõ – vừa chạy từ đầu ngõ vào, vừa hớt hải gào không ra hơi.
“Đến đâu rồi?” Bà cụ nhà bên ngóng cổ ra khỏi cửa, hỏi.
Một tràng súng liên thanh lốp đốp nổ. Tiếng đạn chiu chíu bay, nghe như tiếng ai dùng móng tay tuốt sợi dây cước.
Bà hàng xóm đứng sựng lại, trợn tròn con mắt, hai tay ôm chặt lấy ngực, miệng há hốc ra thở, “Gần lắm rồi! Gần lắm rồi!”
Con bé em vừa chạy ra tới cửa, thụt ngay lại nhưng cũng cố ngóc cổ ra, “Gần lắm là ở đâu vậy bác?”
Người đàn bà lắc đầu quầy quậy, “Hết rồi! Hết cả rồi!”
Mẹ ở tận dưới bếp, gọi với ra, “Có vào phụ mẹ một tay hay không, con bé kia?”
Bố đi ra đi vào. Cái radio cầm chắc trong tay như sợ nó sẽ biến đi bất cứ lúc nào. Dưới bếp tiếng nồi niêu bát đũa chạm vào nhau lanh canh. Mấy đứa em luống cuống không biết làm gì. Tôi cũng đi ra đi vào. Rồi tôi đứng. Tôi cũng không biết làm gì. Tôi nhìn mẹ, nhìn qua bố, rồi nhìn lũ em. Qua cánh cửa mở toang. Tôi thấy những con ruồi bay vòng vòng. Vẫn những con ruồi của mọi ngày. Nắng vẫn lên cao trên khóm tre trước nhà. Con mèo vàng lại vừa bắt được một con gián từ rãnh nước trước nhà, nó tha con gián vào bậc thềm, thả cho đi, rồi vồ bắt lại. Bà hàng xóm vẫn đứng trước sân, cúi gập thân người xuống để thở. Miệng lẩm bẩm. “Hết thật rồi!”
Bà cụ nhà kế bên vẫn lom khom chờ câu trả lời của bà hàng xóm cuối ngõ. Con bé em cũng nóng ruột, đầu vẫn thò qua khung cửa, “Chúng nó đến đâu rồi bác?”
“Đến ngã tư chợ rồi! Chúng nó bắt…”
“Bắt ai hở bác?” Con bé em xớn xác.
Một tiếng nổ vang làm rung rinh những cành tre đang đu đưa trong nắng, phá vỡ cái lao xao buổi sáng. Người đàn bà ngồi thụp xuống sân. Hai tay kéo cái nón, che vội lấy đầu.
Con bé em chạy ra kéo người đàn bà, “Vào đây đi bác ơi.”
Người đàn bà đổ xuống trong cánh tay yếu ớt của con bé. Tôi chạy ra phụ với nó kéo người đàn bà vào nhà. Tôi nhìn lướt thật nhanh thân thể bà ta. Chỉ thấy lớp da nhăn nheo. Và mớ áo quần nhăn nhúm. Không chỗ nào loang đỏ. Không lạc đạn. Vậy là mừng. Nhưng thân hình gầy guộc của người đàn bà bỗng dưng nặng như cối đá. Chúng tôi ì ạch kéo bà vào nhà.
Cửa đóng sập lại. Bóng tối ập lấy căn nhà. Bố đứng ở góc nhà, loay hoay rà đài trên cái máy thâu thanh. Bố bảo cái đài bố đang nghe tự nhiên bị cắt mất. Tôi với con bé em đỡ người đàn bà ngồi xuống chiếc ghế đẩu.
“Chúng nó bắt ai hở bác?” Mẹ ngẩng đầu lên khỏi chỗ cơm đang vắt thành nắm, hỏi.
Người đàn bà vẫn ôm chặt lấy ngực, “Thanh niên. Chúng nó bắt thanh niên đi trước…”
“Để làm gì hở bác?” Con bé em tròn mắt.
“Để làm bia đỡ đạn chứ còn làm gì nữa!” Người đàn bà trừng mắt nhìn con bé.
Tôi chờ cái câu kế tiếp. Nhưng bà hàng xóm không nói thêm cái câu cửa miệng bà vẫn dùng để mắng thiên hạ. “Sao mà ngu thế!” Giờ phút này ngu hay không thì cũng cùng chung số phận. Tôi nghĩ.
Mẹ bỏ vội nắm cơm xuống đĩa, “Bắt thanh niên à bác?”
“Bắt thanh niên đi trước, chúng nó đi sau để lính mình không dám bắn…”
Ngực tôi thắt lại. Tôi nhìn bố. Bố nhìn tôi. Tôi đọc trong mắt nhìn của bố niềm tuyệt vọng của con bệnh trong phút lâm chung không nói lên được một lời trăn trối. Tôi nhìn mẹ, bắt gặp trong ánh mắt mẹ chao chao nỗi sợ hãi.
“Anh phải trốn đi thôi,” con bé em nói.
Mẹ lẩm bẩm, “Biết trốn đi đâu bây giờ?”
“Vào nhà thờ. Hồi Mậu Thân mình cũng vào nhà thờ đấy, có Chúa, có Đức Mẹ…” Con bé em nhanh nhảu. Dù hồi chạy loạn Tết Mậu Thân, mẹ còn bế đứa bé gầy như que củi là nó trên tay.
“Chúng nó mới pháo kích sập tháp chuông nhà thờ dưới ngã tư đấy!” Bà hàng xóm cảnh báo, tay vẫn chèn cái lồng ngực lép kẹp.
Tiếng rột roạt tĩnh điện phát ra từ chiếc máy thâu thanh của bố. Và giọng xướng ngôn viên xớn xác, ngột ngạt như người ngạt mũi. Rồi giọng ai đó đều đều như tiếng đứa con hoang đàng vừa mới trở về, đang lẩm nhẩm những lời tạ tội với mẹ cha.
Bố ép sát tai vào cái máy sắp hết bin.
Rồi bố bỏ cái máy thâu thanh quý giá của bố xuống bàn. “Bà ấy nói đúng. Hết rồi! Đầu hàng rồi!”
Và bố thở dài.
Mẹ nhìn tôi. “Phải đi thôi con à.”
Hồi nãy, trên đường chạy về nhà, tôi thấy người ta đổ xô ra đường. Chạy tới chạy lui, chạy xuôi, chạy ngược. Toàn người là người. Kẻ chạy hướng bắc, người chạy phía nam. Đông tây nam bắc chả còn đâu là phương hướng. Người ta réo gọi nhau trong tiếng súng lẻ tẻ vung vãi, trong tiếng đạn pháo kích bất kể nơi nào, trong tiếng động cơ gào rú của những chiếc xe nhà binh mà trên ấy chất đầy những người không mang áo lính; giữa khói đen mịt mù, trong mùi khét của nhà cửa bị cháy thiêu, của thịt người bị đốt.
Tôi cắn môi, “Biết đi đâu bây giờ?”
Biết đi đâu bây giờ! Câu hỏi chạy vòng quanh trong đầu.
Nhưng rồi chúng tôi cũng tìm được câu trả lời.
Mẹ chèn nắm cơm trong cái hộp nhựa. Gói giấy nhỏ đựng muối mè nhét một bên. Một cuốn sách giáo khoa, The Merck Manual; sách gối đầu giường của sinh viên trường Y. Và mẹ làm dấu Thánh Giá lúc tôi đẩy chiếc xe gắn máy ra khỏi cửa. Tôi vừa đạp máy, sắp sửa sang số thì mẹ gọi giật lại, “Còn quên cái này!”
Con bé em chạy ra quàng cái ống nghe lên vai tôi. Nó vẫn thích hình ảnh anh mình mặc áo blouse trắng, ống thính chẩn vắt ngang vai. “Cẩn thận nhé anh!” Con bé dặn. Tôi thoáng thấy tia nhìn đục ngầu lo âu trong mắt nó. Tôi gật đầu, gỡ cái ống nghe xuống, nhét vội vào cái túi vải. Và tôi lao mình vào cái hỗn loạn chưa từng thấy.
Sài Gòn của tôi đang hấp hối. Việt Nam của tôi đang đổ xiêu vào phút sinh thì.
Người và người. Trước mặt đầy người. Sau lưng cũng chật cứng những người. Tôi luồn lách trên đường phố chật cứng những người và xe cộ. Những chiếc xe hung hãn leo cả lên lề đường, cán nát những khóm hoa. Những chiếc xe cuồng nộ lủi vào những chiếc xe gắn máy chạy chậm phía trước. Người ngã gục. Những vòi máu phun tung tóe mặt đường tráng nhựa. Máu tuôn vào những ổ gà trên phố. Máu kéo thành những vệt dài đến những khung cửa đóng chặt. Những chiếc xe phóng như bay trên phố, với bọn rừng rú đeo băng vải màu đỏ ở cánh tay này, và súng AR-15 hay AK-47 ở tay kia. Những tràng đạn bắn lên trời. Tiếng súng lẫn vào tiếng hò hét của những con thú sổng chuồng.
Tôi vào bệnh viện. Bao nhiêu người bị thương, bao nhiêu chết ở giờ phút cuối cùng của chiến tranh. May ra tôi có thể cứu được một vài người. Những con người vô tội. Tôi vội vã khóa cổ, khóa chân chống chiếc Honda Dame bố mẹ mua cho ngày thi đậu vào trường Y trong bãi đậu khu sinh viên thực tập, và tất tả băng qua sân bệnh viện. Một tràng đạn nổ dòn. Tôi cúi đầu tuông chạy. Tiếng đạn xé gió trên cao. Lũ lâu la nhặt được súng, chuyền tay nhau bóp cò. Tôi len lỏi, luồn lách giữa đám người xớn xác trong hành lang bệnh viện, chạy vào phòng cấp cứu. Tôi trượt chân trên vũng máu loang cửa phòng cấp cứu, loạng choạng vung tay đập vào thành cửa đau nhói.
Một dãy xác người nằm nghiêng ngả trên nền nhà loang lổ. Tôi trợn tròn mắt nhìn. Những thân người nhúc nhích. Không phải là xác chết. Không có ai chết. Hay đúng hơn là chưa có ai chết. Những hình người đứng, ngồi nhấp nhổm trên những thân xác co quắp hay duỗi dài trên nền gạch hoa lấm lem. Tiếng rên rỉ, tiếng la hét, tiếng réo gọi, tiếng khóc trộn lẫn nhau thành một khối kinh hoàng.
Một người đàn ông khoác áo choàng trắng đang loay hoay trên một xác người. Những dây truyền nước biển đan vào nhau rối mắt. Người đàn ông khoác áo choàng trắng ngước lên. Chúng tôi nhìn nhau. “Vào tìm thêm nước biển, mau lên!” Người đàn ông nói như gào.
Tôi cuống cuồng luồn lách giữa những thân người.
Kéo vội cái ống nghe, quăng đại cái tủi vải vào góc phòng, tôi cuống cuồng khoác chiếc áo blouse lên người.
Một cô gái khoác áo blouse trắng loang máu đỏ hình dạng bàn tay với những ngón dài vạch trên lưng áo. Cô đang xớn xác mở tung những ngăn tủ đựng thuốc và dụng cụ y khoa. Tôi chạy đến bên cạnh. “Còn nước biển không?”
“Hết sạch rồi!” Cô gái quay lại nhìn tôi, cánh tay buông thõng hai bên thân người. Tôi nhìn vào từng ngăn tủ trống trơn. Bao nhiêu là chai đựng nước biển, bao nhiêu là bọc plastic chứa dịch truyền, tất cả đều đã hết sạch.
Tôi chạy ra chỗ người đàn ông, cố tránh để không dẵm lên những thân người vặn vẹo, “Hết sạch rồi!”
Người đàn ông vẫn loay hoay làm hô hấp nhân tạo cho một bà cụ. Tiếng khóc tiếng la xớn xác từ hành lang đổ vào cửa phòng cấp cứu. Hết thuốc, hết nước biển, hết tất cả mọi thứ mà bệnh nhân càng lúc càng đông.
Tôi ngồi xuống bên cạnh người đàn ông áo trắng. Tôi đọc vội cái tên thêu bằng chỉ đỏ trên túi áo anh. Bác Sĩ Phước. Bà cụ mà anh làm hô hấp nhân tạo vẫn trợn trừng hai con mắt, và thân thể cứng đờ.
“Em đi tìm thật nhiều vỏ viết BIC nhé. Mình làm tracheotomy!” Bác sĩ Phước nói.
Tôi đứng bật dậy. Cô gái khoác áo blouse trắng chạy tới bên chúng tôi, “Hết sạch rồi!”
Hết rồi; hết sạch rồi! Điệp khúc ấy vang vọng suốt phần đời còn lại của tôi.
Tôi nhìn ngôi sao thêu bằng chỉ đỏ trên ngực áo cô gái. Cô sinh viên năm thứ nhất. Tôi nhìn qua anh bác sĩ đang vuốt mắt cho bà cụ. Giờ này người ta chạy ra bến tàu, chạy vào Tòa Đại Sứ Mỹ. Anh với cô sao lại ở đây? Và tôi nữa, cậu sinh viên y khoa với ba ngôi sao trên túi áo, sao lại chạy vào đây?
Chúng tôi lục lọi tất cả hộc tủ, chúng tôi chạy lên các trại bệnh. Nhân viên y tế đi đâu hết cả thế này! Chúng tôi mở banh những hộc tủ và lục soát hung hăng như hai đứa cướp cạn. Gom tất cả những cây bút nguyên tử, chúng tôi tháo ruột bút bỏ lại, chỉ lấy cái vỏ ngoài. Bao nhiêu là bệnh nhân bị thương tích ở mặt, ở cổ, ở ngực… đường hô hấp bị tắc nghẽn. Để vậy nạn nhân sẽ chết ngạt. Chúng tôi dùng dao mổ khoét một lỗ ở cuống họng, chúng tôi nhét cái vỏ bút BIC vào khí quản. Bệnh nhân (hay nạn nhân) thở khì khọt qua cái vỏ bút BIC. Biết đâu rồi họ sẽ sống sót, qua cái thời khắc ngặt nghèo.
Chúng tôi chạy tới chạy lui, chạy lên chạy xuống. Chúng tôi quên thời gian, chúng tôi không biết đói, chúng tôi không còn thấy mệt. Áo blouse của chúng tôi đỏ lòe đỏ loẹt. Chúng tôi nói bằng giọng khao khao không còn hơi hướm. Chúng tôi không còn thuốc men, không còn nước biển. Nạn nhân mất máu chúng tôi khâu vết thương cho máu thôi chảy; hết chỉ để khâu, chúng tôi dán mép vết thương bằng băng keo; hết băng keo, chúng tôi xé áo, xé quần họ làm băng; nhưng không có nước biển chúng tôi đành truyền cho nạn nhân và thân nhân họ niềm hy vọng.
Một trái đạn pháo kích nổ đâu đó thật gần. Đất cát và mảnh đạn ném rào rào vào kính cửa sổ phòng cấp cứu. Tai tôi điếc đặc không biết bao lâu. Tiếng khóc bên ngoài nghe mịt mù xa xăm như vọng lại từ cõi khác. Lại những thân người được kéo lê trên nền nhà nhơm nhớp máu.
Tôi nhìn khu vườn kinh dị của những vỏ cây bút BIC mọc tua tủa lên từ những cổ họng con người. Khi cơn điếc đặc đã loãng đi, tôi thấy tôi chìm vào vùng âm thanh khọt khẹt tiếng thở đọng đầy đàm nhớt và máu từ những lồng ngực rạn nứt, qua những khúc cây nhựa màu trắng mọc lên từ những cổ họng khẳng khiu chen chúc giữa những bàn tay co quắp, cạnh những thân người tay xuôi tuyệt vọng.
Tiếng khóc rộn rã. Tiếng khóc của một cô gái nhỏ ùa vào phòng cấp cứu. Một người đàn ông và một người đàn bà kéo lê một thân người đã rũ xuống như hình nộm nhồi bông mà bông gòn bên trong ai đó đã moi ra hết. Cô gái – đầu tóc rối bù – lếch thếch bám theo cái hình nhân ấy.
Tôi nhìn quanh. Anh bác sĩ đang lúi húi cạnh một thân người. Cô sinh viên năm thứ nhất đang kiểm soát rừng cây bút BIC mọc trên cổ những thân người. Tôi nhìn cái hình người mà thân nhân vừa đẩy hai thân người nằm trên nền nhà sang hai bên lấy chỗ đặt xuống nền gạch bông loang máu. Tôi vạch mắt ông cụ. Con mắt trắng đục. Đồng tử dãn hết rồi. Tôi đặt ống nghe lên những chiếc xương sườn. Không có tiếng động nào ngoài tiếng đạn réo từng chặp bên ngoài, tiếng khò khè từ rừng cây bút BIC và tiếng khóc sụt sùi của cô gái. Tôi tìm động mạch cổ, tôi tìm mạch cổ tay. Tất cả lạnh băng và tĩnh mịch. Cái im lặng đáng sợ của Tử Thần.
Tôi ngước lên nhìn người nhà của ông cụ. Tôi không biết nói gì với họ. Rồi tôi lại nhìn xuống cái thân người khô khốc. Rồi tôi lại đặt tay lên cái lồng ngực trần trụi. Băng giá xoáy vào bàn tay tôi, len vào từng lỗ chân lông, buốt lạnh. Muộn rồi. Hết rồi!
Và tôi chống tay đứng dậy, hai mắt hoa đi trong giây lát. Cô gái lại khóc òa. Tôi nhìn cái bóng nhòe nhoẹt của cô. Khuôn mặt mếu xệch thảm thương. Chợt hai bàn tay mỏng mảnh vồ lấy hai mép cổ áo blouse tôi, giằng giật như người đi đòi nợ. “Bác sĩ cứu giùm Ông Ngoại em! Bác sĩ phải cứu Ông Ngoại em!”
Rồi hai bàn tay mỏng mảnh ấy buông cổ áo tôi ra, cái dáng nhỏ ấy ngồi thụp xuống bên xác ông cụ, “Ngoại ơi, hòa bình rồi mà Ngoại chết chi dzậy! Hòa bình rồi mà!” Và tiếng khóc nức nở ấy loang ra, bồng bềnh như con sóng, tràn ngập không gian phòng cấp cứu.
Tôi đứng đó. Tôi biến thành tượng đá. Tôi muốn hỏi cái hình người đang nằm trên nền nhà phòng cấp cứu, kế bên chỗ tôi đang đứng, và bao nhiêu người đang ngổn ngang trên nền gạch bông loang máu rằng hòa bình rồi, sao lại bỏ đi như thế!
Bất chợt cô gái đứng dậy, và lại vồ lấy hai mép cổ áo blouse tôi, giằng giật và nhìn thẳng vào mắt tôi, con mắt đen tròn tung tóe những tia lửa hận, “Bác sĩ tàn nhẫn lắm! Bác sĩ hổng cứu Ngoại tui! Ngoại tui chết là tui bắt thường bác sĩ cho coi!”
Tôi không cưỡng lại đôi cánh tay con gái. Tôi nín thở. Tôi lắc lư như gã bù nhìn quăng quật trong gió chướng. Người đàn ông có hai con mắt sâu hoắm tần ngần nhìn những thân người xếp lớp dưới chân. Những nếp nhăn chợt mọc đầy vầng trán. Người đàn bà để mặc nước mắt lăn dài trên má. Khi cơn gió thôi quăng quật, gã bù nhìn tôi lặng lẽ đứng nhìn. Cô gái buông tôi ra, quay qua người đàn bà, “Đưa Ngoại về cho rồi! Ở đây làm chi nữa!”
Ba người lại nhùng nhằng với cái thân thể gầy guộc của ông cụ. Họ len lỏi giữa những thân người la liệt trên nền gạch bông trơn trượt. Hai bàn chân đen đúa của ông ngoại cô gái kéo lê trên nền gạch, để lại một vạch màu nâu nhợt.
“Hòa bình rồi Ngoại ơi, hòa bình rồi, mắc mớ chi Ngoại chết Ngoại ơi!” Giọng con gái loãng ra và chìm dần vào vũng âm thanh hỗn độn cuối ngày.
Vài ống bút BIC bị nghẹt vì máu đọng, cô sinh viên tất tả đem vào nhà vệ sinh để thông cho hết nghẹt. Tôi nhìn những thân người sắp lớp cạnh nhau rồi quay qua anh bác sĩ, thì thầm, “Những người chết, mình phải làm sao đây?”
Anh bác sĩ khẽ lắc đầu. Và tôi biết mình hỏi cho có hỏi, thế thôi. Đừng để người đang chiến đấu với Tử Thần phải nằm cạnh những người đã chết. Tinh thần của họ bị ảnh hưởng và họ sẽ suy sụp nhanh chóng. Ai mà chẳng biết điều đó. Nhưng biết làm sao bây giờ. Ngày Sài Gòn hấp hối. Chúng tôi đếm không hết những người đã chết ngoài hành lang, trong phòng cấp cứu bệnh viện. Và phố xá ngoài kia. Và ở khắp nơi trên miền Nam nước Việt. Ngoài những tiếng cầu kinh rời rạc của thân nhân, không Linh Mục nào có mặt để xức dầu thánh cho họ, không Thượng Tọa, Đại Đức nào hiện diện để đọc cho họ một câu niệm Phật cuối đời, không bác sĩ nào có mặt để ký cho họ mảnh giấy khai tử. Chúng tôi ở đó. Một bác sĩ, một sinh viên y khoa năm thứ ba, một sinh viên y khoa năm thứ nhất. Chúng tôi sắp kiệt sức, sắp ngã gục vì kiệt sức, cũng có thể chúng tôi sẽ chết banh xác vì một trái hỏa tiễn 122 ly người ta bắn vào thành phố để dằn mặt những ai kháng cự.
Chập tối, tôi ra trước sân, tò mò nhìn những chiếc T-54 rầm rộ cày nát đường phố. Toàn thân nhức mỏi, tôi đi vào bãi đậu xe, bởi tôi không biết phải đi đâu. Hai gã thanh niên đang lẩn quẩn bên chiếc Honda Dame. Chúng làm gì với xe tôi thế này. Một đứa đỡ nghiêng chiếc xe qua một bên, đứa kia chĩa mũi súng M-16 vào ổ khóa. Rồi chúng dắt xe của tôi đi. Tôi thản nhiên đứng nhìn. Và tôi lủi thủi lẫn vào đám đông đang lũ lượt đi lên, đi xuống, đi qua, đi lại.
Phòng cấp cứu tanh nồng. Tiếng rên đan lẫn vào nhau, như tiếng côn trùng, tiếng giun dế sau cơn mưa. Cái ống nghe ban nãy để trên bàn làm việc, bây giờ mất đâu rồi. Một người đàn ông lảo đảo bước vào, dẵm lên cả những thân người xếp lớp trên nền nhà. Anh ta mặc độc một chiếc quần lính trận, bàn chân trần trụi lấm lem bùn đất. Cái thân người ấy áp chặt bàn tay lên một bên má đã lõm sâu, máu ứa qua những kẽ ngón tay. Máu đỏ loè trên ngực. Tôi đỡ vội lấy thân người ấy.
Tôi không biết tên người thanh niên ấy. Tôi không kịp hỏi anh ta câu nào hết. Vậy mà anh ta cũng cố lết được vào tới phòng cấp cứu. Chắc anh ta nghĩ bệnh viện là chỗ an toàn. Như hồi sáng mẹ tôi nghĩ vậy.
Tôi về nhà để bố mẹ và bầy em yên lòng. Xe tăng đã vào thành phố nghĩa là bọn họ không cần ai làm bia đỡ đạn nữa. Hơn nữa ở lại bệnh viện tôi cũng chẳng còn sức để làm bất cứ thứ gì. Tôi đón xe lam về nhà. Không dám nói cho bố mẹ biết là đã mất xe và mất cả ống nghe. Nhưng chuyện mất xe thì không giấu được. Tôi nhớ mãi những tiếng thở dài của bố mẹ. Bố mẹ chắc cũng nghĩ như tôi rằng những mất mát của mình có thấm vào đâu so với cái mất mát của của bao nhiêu con người trên nửa quê hương này.
Và tôi cũng không dám kể lại rằng có người nhà bệnh nhân níu áo tôi, bắt đền.
Buổi sáng hôm sau tôi cọc cạch xe đạp trở lại bệnh viện. Tôi vào chỗ giữ xe cho sinh viên thực tập. Một cô gái chặn tôi lại. Giọng nói hằn học, “Đi đâu vậy?”
Tôi nhanh nhảu, “Tôi đi thực tập. Tôi là sinh viên Y Khoa.”
“Đem xe đi chỗ khác.”
“Chị là ai vậy? Cái anh mọi khi vẫn giữ xe ở đây đâu rồi?”
“Tôi là sinh viên chi đoàn Văn Khoa.” Cô ta nói và giơ tay lên cho tôi thấy băng vải đỏ viền quanh cánh tay. Chi đoàn Văn Khoa. Tôi lạc hậu quá rồi. Cái tên chưa bao giờ bắt gặp.
Tôi nhì nhằng, “Lúc trước tôi vẫn gửi xe ở đây.”
“Bây giờ khác rồi!”
Tôi lầm lũi bỏ về. Tôi nhớ mãi câu nói ấy.
Tôi nhớ mãi cái giọng gầm gừ của một sinh vật vừa mới gỡ bỏ cái vỏ
duyên dáng của nữ sinh viên Văn Khoa Sài Gòn. Bây giờ khác rồi!
Mấy mươi năm qua, tôi vẫn không quên chốn ấy. Cái bệnh viện mà tên mới Trung Tâm Thực Tập Y Khoa luôn phải kèm theo tên cũ Nguyễn Văn Học khi chỉ đường cho ai đó. Tôi cũng nhớ hoài anh bác sĩ với cái tên vỏn vẹn một chữ Phước và cô sinh viên Y Khoa năm thứ nhất – mà hôm ấy – tôi không có thời gian và không còn tâm trí để đọc tên.
Ơi, những con người có tấm lòng nhân ái ấy! Mong họ được bình yên.
Và tôi vẫn tự hỏi sẽ nói gì với cô gái níu cổ áo tôi năm xưa, nếu như tình cờ gặp lại? Còn cái cô sinh viên Văn Khoa đeo băng đỏ ở chỗ gửi xe bệnh viện ngày cuối tháng Tư năm ấy, giờ này cô ấy ở đâu? Và dây băng đỏ đeo trên cánh tay có còn cất kỹ trong một ngăn ký ức?
Hoàng Chính
https://vietbao.com/p301414a312027/hoa-binh-roi-sao-ngoai-chet-chi-dzay-
0 comments:
Post a Comment