SỐNG ĐỜI VÔ ĐẠO ĐỨC CÓ DI HẠI CHO CON CHÁU QUA HỆ DI TRUYỀN KHÔNG?
Con
cái nhận 50% bộ di truyền từ cha và 50% từ mẹ. Nếu tính từ ông bà, đứa
cháu nhận 25% từ ông nội, 25% từ bà nội, 25% từ ông ngoại và 25% từ bà
ngoại. Tương tự như vậy, cháu cố nhận 12,5% bộ di truyền từ mỗi trong 8
thành viên của ông bà cố của hai bên nội ngoại. Như vậy, con cháu đều
nhận di truyền trực tiếp nhiều từ cha mẹ và ít dần đến các bậc ông bà,
tổ tiên. Các đặc tính di truyền cho thế hệ sau được thể hiện thấy được
qua ngoại hình (hình dáng, gương mặt, dáng đi, v.v.), tính tình (thông
minh, tư cách, cách cư xử trong xả hội, v.v.), và một số bệnh di truyền
(1).
Đặc
tính di truyền do gen đính trên nhiễm thể quy định. Gen là chuỗi DNA
cấu tạo bởi một dãi gồm bốn bases A (Adenine), C (Cystosine), G
(Guanine), T (Thymine) mã hóa sản xuất các protein riêng biệt cho mỗi
loại tế bào, ở thời điểm tăng trưởng nào đó, để mô tế bào sinh trưởng và
phát huy chức năng sinh học của nó. Bộ di truyền của con Người chứa
khoảng 3 tỷ chữ (A, C, G, T), và có khoảng vài triệu giao-điểm-thần-kinh
trong bộ não lúc mới sanh. Giao điểm thần kinh là nơi tiếp xúc giữa hai
tế bào thần kinh lân cận, có một khoảng trống rất hẹp để các xung mạch
dẫn truyền tín hiệu thần kinh xuyên qua. Các giao điểm thần kinh là căn
bản của mọi hoạt động trí não của đời sống. Khi mới sinh ra, một số giao
điểm không hoạt động, không bền vững và cũng không chuyên biệt (3).
Khi
phát triển lớn dần theo tuổi tác, trí óc đứa bé tiếp cận với môi
trường, gen trong bộ di truyền, tức DNA, được kích hoạt và mã hóa để sản
xuất hóa chất tương ứng với các kích thích của môi trường, tùy theo
giai đoạn tuổi tác. Nói tóm lại, gen DNA chính là “bộ máy học tập”
(learning machine). Bộ máy học tập rất phức tạp, đòi hỏi hơn 50% số gen
trong hệ thần kinh của não bộ phải hiện diện ở trạng thái hoạt động
(thức). Gen được mã hóa tạo ra hóa chất gì để phát huy chức năng là tùy
khả năng của các giao điểm thần kinh qua kích hoạt hay áp chế hoạt động
của gen trong tế bào thần kinh. Sau khi sanh ra đời, bộ máy học tập bắt
đầu hoạt động, gen được kích hoạt bởi các tín hiệu thu nhận bởi các giác
quan, trí óc đứa bé dần dần xuất hiện, qua bắt chước người lớn mà đứa
bé được tiếp xúc học hỏi hay tương tác. Kinh nghiệm vì vậy được tích tụ
trong hai năm đầu tiên, trước khi đứa bé biết nói, làm nền tảng bền vững
cho bộ não biết suy nghĩ sau này. Trong những năm trí óc được thành
hình cho tới trưởng thành, não bộ không bao giờ mất khả năng liên kết
kinh nghiệm trong quá khứ với hiện tại qua các giao điểm thần kinh. Vì
vậy kinh nghiệm được tích tụ và biến đổi thành cảm giác, nhận thức, trí
nhớ. Khả năng giảng dạy và học tập của bộ óc được duy trì liên lục suốt
đời (trừ trường hợp não bộ bị hư hại).
Đạo đức có được di truyền không?
Đạo
đức (morality) là một pha trộn giữa bản chất thiên phú và môi trường
nuôi dưỡng. Đạo đức được tiến hóa từ bản năng sinh tồn từ thời loài
người được tạo sinh. Để sinh tồn (survival), con người bảo vệ chính cá
nhân mình, gia đình, hay cộng đồng cho sự sống còn. Cá nhân nào gây tai
hại cho người trong cộng đồng thì bị trừng phạt, từ hình phạt nhỏ cho
tới tử hình, tùy tội trạng do cộng đồng lập ra. Trong hoàn cảnh đó, xã
hội công nhận việc giết kẻ thù là chính đáng. Từ thưở bán khai con người
ăn tươi nuốt sống kẻ thù, rồi “thề phanh thây uống máu quân thù” (Tiến
quân ca, quốc ca), hay “tiêu diệt kẻ tà đạo”, hay “tiêu diệt kẻ thù giai
cấp”, v.v. thì vẫn được coi là hợp đạo lý trong những xã hội chấp nhận
điều giết người đó. Càng tiến dần đến xã hội văn minh, con người biết
phân biệt phải trái, cái đúng cái sai, cái thiện cái ác, đạo đức nhờ vậy
càng lúc càng minh bạch hơn. Lúc chiến tranh, quân lính hai bên bắn
giết nhau, hành vi này khác với chiến tranh diệt chủng cố tình tiêu diệt
cả dân vô tội bên phía thua trận. Cũng vậy, tội giết người cũng được
tòa án ngày nay phân biệt “tội cố ý giết người” (murder), hay “làm chết
người không chủ ý” (manslaughter), và tòa án xem kẻ giết người có bịnh
tâm thần, có bị say rượu hay thuốc phiện ảnh hưởng, hay con người tỉnh
táo.
Đạo
đức thuộc phạm trù triết học, không phải sinh học. Các nhà khoa học từ
lâu đã tự hỏi là hệ di truyền có đóng vai trò gì trong việc di truyền
đạo đức. Ngày nay, các
nhà khoa học chứng minh qua ngành di truyền học rằng cá tính (tư cách
hay nhân cách, personality), hành vi chống báng xã hội (anti-social
behaviour), hành vi tội ác (criminal behaviour), và lòng trắc ẩn từ tâm
có tính di truyền (1). Hơn
nữa và mới đây, nhóm nghiên cứu thuộc Đại Học Wayne State University
(Hoa Kỳ) tường trình trong tạp chí Plos One rằng phán xét hành vi đạo
đức được chi phối bởi một gen đa hình (genetic polymorphism) có tên SLC6A4 , nghĩa
là gen chi phối đạo đức được biểu hiện qua nhiều hình thức (2). Đây là
gen quy định hoạt động sản xuất chất serotonin, là chất quan trọng nhất
trong nghiên cứu ngành tâm lý học và khoa thần kinh học vì nó giữ vai
trò trong lý luận đạo đức và hành vi cư xử trong xã hội. Việc phán xét
một hành vi có đạo đức hay không còn tùy theo cá tính (yếu tố di
truyền), và văn hóa, tôn giáo v.v. (yếu tố môi trường). Chẳng hạn, bạn
bắt buộc lái chiếc xe lửa không có thắng với vận tốc cao trên đường rầy,
tới nơi đường rầy phải rẽ đôi, một đường rầy có cột một người, và đường
rầy kia có cột 5 người. Nếu là một người có đạo đức, giết người, dầu 1
hay 5 người, đều là hành vi tội ác, vô đạo đức. Trong trường hợp bắt
buộc phải chọn một (vì xe hư thắng nên phải lái xe vào một trong hai
đường rầy) thì đa số chọn lái xe vào đường rầy giết một người chứ không
vào đường rầy giết 5 người. Tuy nhiên, đem cảnh tượng quyết định giết
người này để thử nghiệm tính đạo đức của nhiều người, kể cả người bệnh
tâm thần, thì có nhiều câu trả lời khác, có người do dự trả lới, cho
rằng giết 1 hay 5 người đều có tội như nhau, nhưng cũng có người khát
máu, bệnh tâm thần lại chọn giết cả 5 người hơn giết một người.

Nhóm Đại học Wayne State University chọn 65 người khỏe mạnh tình nguyện thử nghiệm gen SLC6A4
chi phối đạo đức. Phân tích DNA từ mẫu nước miếng để phân loại nhân
hình chứa cặp allele dài L (chứa 146 cặp base, bp = base pair) và nhân
hình có allele ngắn S (chứa 103 cặp base, bp) chứa trong gen DLC6A4.
Trong số 65 tình nguyện thử nghiệm này, 22 người có gen với nhân hình
LL, 13 người với nhân hình SS và 30 người với LS. Tất cả các người trong
các nhóm được trắc nghiệm với hàng trăm câu hỏi tâm lý liên quan đến
phán xét hành vi đạo đức của thí dụ lái chiếc xe lửa nói trên.
Kết
quả cho thấy rõ ràng là người có mang gen nhân hình dạng LL phán xét
rằng nếu phải bắt buộc giết người thì họ chọn cán chết một người và cứu
sống 5 người kia. Cách chọn này theo họ phải đạo hơn, vì bắt buộc phải
làm chứ không do tâm muốn giết người. Còn nhóm có chứa gen nhân hình
dạng S (tức LS hay SS) thì chuyện cán chết 1 người hay cán chết cả 5
người cũng như nhau, chọn cái nào cũng được, không cần quan tâm về khía
cạnh đạo đức hay vô đạo đức. Nhóm nhân hình SS này phán xét hay hành
động thiếu đức từ bị, tính tình thường nông nỗi, không biết thương xót
người khác. Công cuộc nghiên cứu cho thấy nhóm LL sản xuất nhiều chất
serotonin hoạt động trong não bộ. Ngược lại nhóm SS sản xuất rất ít
serotonin vì gen SLC6A4 bị kiềm chế sản xuất serotonin.
Hoạt
động của serotonin giữ vai trò quan trọng trong việc phán xét đạo đức
và các hành vi ứng xử trong xã hội. Serotonin được ghi nhận chi phối tư
cách và cách cảm ứng tình cảm của con người. Số lượng serotonin thấp thì
liên quan đến trầm cảm và buồn bã. Ngược lại, lượng serotonin càng cao
thì con người càng cảm thấy sảng khoái và hạnh phúc.
Hành vi chống báng xã hội (Anti-social behaviour)
Hành
vi chống báng xã hội được định nghĩa là hành động xâm phạm quyền sống
của người khác, gây khó chịu, phiền muộn, tạo hiểm nguy đến tài sản hay
tánh mạng của một hay nhiều người. Tựu chung, luật pháp đều kết tội
người có hành vi chống báng xã hỗi là phạm pháp.

Nghiên cứu
ở Đại học King’s College London cho biết những đứa bé có mang gen chống
báng xã hội có thể sẽ trở nên tội phạm, nhất là khi chúng bị ngược đãi,
bị đánh đập ở thời thơ ấu. Đó là gen kiểm soát hoạt động của enzyme
MAOA (monoamine oxidase A). Công cuộc nghiên cứu một nhóm thanh niên,
trong số này có 33 em bị ngược đãi trầm trọng trong số 154 đứa bị bạc
đãi. Kết quả cho thấy người nào có chứa gen liên kết với sản xuất ít
chất MAOA thì thuộc loại chống báng xã hội nặng nề như tội phạm bạo lực.
Ngược lại nhóm thanh niên có gen sản xuất nhiều chất MAOA thì hiếm khi
có hành vi chống báng xã hội. Khi bị ngược đải trong thời thơ ấu, gen
này bị kiềm chế nên tạo ít chất MAOA làm con người trở nên bạo ngược và
bạo động. Trong não bộ, thiếu MAOA ảnh hưởng đến hệ thần kinh tạo các
hành vi chống phá, hiếu chiến và thích bạo động (4).
Để
xác định vai trò di truyền trong hành vi chống báng xã hội, các nhà
khoa học Anh nghiên cứu 3687 cặp song sinh 7 tuổi (5). Cặp song sinh thì
có chứa bộ di truyền y hệt nhau, tức có cùng gen.
Trong
số 10% trẻ em đứng đầu có hành vi chống báng xã hội được chia làm 2
nhóm, một nhóm có khuynh hướng bệnh tâm thần, và nhóm kia thuộc bình
thường.
Kết
quả nghiên cứu cho thấy chứng hành vi chống báng xã hội được di truyền
rất mạnh ở nhóm trẻ bị rối loạn tâm thần (Psychopaths). Chứng rối loạn
tâm thần ở đây là thiếu đồng cảm (empathy), thiếu cảm thông với người
khác và thiếu lương tâm, không biết ăn năn hối hận khi làm điều xấu.
Nhóm trẻ có hành vi chống báng xã hội do tính di truyền, coi như là một
tật bẩm sinh, thì không thể chữa trị được và chứng hành vi chống báng xã
hội duy trì suốt đời.
Những
đứa trẻ khác, không có triệu chứng tâm thần, cũng có ít hành vi chống
báng xã hội, nhưng không thuộc loại di truyền, mà chính là do môi trường
tạo nên, vì vậy dễ dàng chữa trị (5).
Nhân cách được di truyền
Nhiều
gen chi phối nhân cách con người, và môi trường giáo dục cũng như xã
hội cũng đóng vai trò quan trọng (6). Theo nghiên cứu của phân khoa Tâm
Lý học ở Đại Học California, thì nhân cách con người được di truyền 40%,
phần còn lại là do môi trường chi phối, gồm văn hóa, kinh nghiệm trải
qua các biến cố thời thơ ấu.
Mặc
dầu trong bộ di truyền có chứa sẳn (nhiều) gen nhân cách, nhưng nhân
cách con người được biểu lộ khi được sống trong môi trường thích ứng,
môi trường tốt sản sinh nhân cách tốt, môi trường xấu tạo con người xấu.
Vì chi phối bởi nhiều gen, có gen được kích hoạt (thức), có gen còn
ngủ, nên nhân cách cũng biến thiên mặc dầu có cùng bộ di truyền giống
hệt nhau. Bộ di truyền con người có khoảng 50.000 cặp alleles. Các
allele này hoặc đều ưu tính, hoặc đều liệt tính, hoặc một ưu một liệt,
vì vậy làm ảnh hưởng đến lượng hóa chất dẫn truyền serotonin và dopamine
khác nhau. Chính các hóa chất này ảnh hưởng đến thần kinh não bộ và chi
phối nhân cách con người khác nhau.
Chẳng
hạn, ai ai cũng có mang gen chi phối chất serotonin, nhưng chỉ những
đứa trẻ bị ngược đãi ở thời niên thiếu (ảnh hưởng của môi trường sống)
thì dễ bị bệnh trầm cảm và chống báng xã hội khi lớn lên.
Ngay
cả anh chị em sinh đôi cũng không có cùng nhân cách mặc dầu chúng có
cùng bộ di truyền giống hệt nhau. Tuy nhiên anh chị em sinh đôi có chung
nhiều tính nhân cách giống nhau hơn anh chị em ruột không sinh đôi
khác, bởi vì các anh chị em này chỉ san sẽ 50% số lượng gen chi phối
nhân cách. Các nghiên cứu trẻ con trong một nhà nuôi trẻ mồ côi cho thấy
các anh chị em song sinh có cùng chung 30% tính nhân cách giống nhau,
các anh chị em ruột không song sinh có cùng chung 20% nhân cách, trong
lúc các trẻ em khác không có liên hệ máu mủ chỉ giống nhân cách với nhau
7% (6).
Bệnh hành vi rối loạn (Behavioral Disorders)
Các
nhà nghiên cứu cho biết nhiều chứng bệnh hành vi rối loạn như chứng tâm
thần phân liệt (schizophrenia), trầm cảm (depression), rối loạn lưỡng
cực (Bipolar disorder) là do di truyền, nhưng không phải tất cả những ai
mang gen này đều bộc phát các bệnh kể trên. Nếu cặp anh chị em song
sinh có chứa gen bệnh tâm thần phân liệt, có thể một em lộ chứng bệnh,
đứa kia bình thường. Nếu một trong cha hay mẹ có gen bệnh tâm thần phân
liệt thì 5-10% số con có thể lộ chứng bệnh này (6).
Hành vi tội ác có tính di truyền?
Các
nghiên cứu ngày nay cho biết là cả hai yếu tố di truyền và môi trường
xã hội quy định hành vi tội ác (criminal behaviour) của con người. Nhiều
nghiên cứu đã thực hiện với anh chị em sinh đôi (giống nhau về bộ di
truyền), liên hệ gia đình và con nuôi, nhà nuôi trẻ mồ côi, cũng như các
nghiên cứu ở phòng thí nghiệm chứng minh ảnh hưởng của cả hai yếu tố
này. Ngoài ra, hai yếu tố di truyền và môi trường còn có ảnh hưởng tương
tác với nhau, nên có thể tiên đoán hành vi tội ác của một người qua
hành vi tội ác của cha mẹ và môi trường của đứa con được nuôi dưỡng.
Đặc
tính di truyền của hành vi tội ác qui định bởi gen đột biến MAOA
(monoamine oxidase A) trong não bộ. Gen đột biến này gây giảm sút nồng
độ chất 5-HIAA trong não thùy. Chất 5-HIAA có nhiệm vụ kiểm soát thăng
bằng hành vi bình thường của con người. Việc giảm nồng độ chất này làm
mất thăng bằng hành vi và làm tăng bản chất hung dữ bốc đồng đưa tới
hành vi tội ác.
Ngoài
chất nói trên, còn 4 enzymes khác trong hệ thần kinh cũng ảnh hưởng tới
hành vi tội ác. Đó là epinephrine, norepinephrine, serotonin và
dopamine. Các chất epinephrine, norepinephrine và dopamine quy định cá
tính của bệnh thần kinh. Còn serotonin có vai trò quan trọng cho các
chứng trầm cảm (depression), âu lo, hung dữ bốc đồng một khi nồng độ
serotonin thấp. Dopamine thì liên hệ tới khoái lạc và bản chất hung
hăng.
Vì
vậy, một khi cha hay mẹ hay cả hai có gen bạo động này thì con cái có
nhiều cơ hội tạo hành vi tội ác, nhất là được nuôi dưỡng trong môi
trường nhiều bạo lực.
Chức năng serotonin trong phạm trù đạo đức
Serotonin
hay 5-hydroxytryptamine (5-HT) là chất dẫn truyền tín hiệu
(neurotransmitter) từ nơi này đến nơi khác trong bộ não. Serotonin hiện
diện trong bộ tiêu hóa và trong máu, và trong trung khu thần kinh ở bộ
não. Trung bình cơ thể một người trưởng thành chứa 5-10 mg serotonin.
95% serotonin được sản xuất từ tế bào trong cơ thể như trong bộ tiêu
hóa, và chỉ 5% được sản xuất trong não bộ. Chỉ serotonin sản xuất ở não mới ảnh hưởng đến thần kinh não bộ. Còn serotonin sản xuất ở cơ thể thì không đưa được lên não.
Vì dẫn truyền được đến mọi nơi nên serotonin ảnh hưởng đến tâm thần và các chức năng của cơ thể.
Não
bộ có khoảng 40 triệu tế bào, tất cả đều bị trực tiếp hay gián tiếp ảnh
hưởng bởi serotonin sản xuất trong não bộ: kiểm soát trạng thái tinh
thần, ham muốn tình dục, ăn ngon, giấc ngủ, trí nhớ, khả năng học tập,
kiểm soát thân nhiệt, và hành vi đối xử.
95%
serotonin sản xuất trong tế bào cơ thể, và chỉ lưu thông trong phần
thân thể. Thiếu serotonin thì ảnh hưởng đến chức năng của tim mạch, bắp
thịt, hệ thống nội tiết, đưa đến tất cả các bệnh từ tim mạch đến các nội
tạng suy nhược. Các nghiên cứu còn cho biết thiếu serotonin còn ảnh
hưởng đến việc điều hành sản xuất sữa ở vú, hư hại hệ thống này đưa đến
đột tử trẻ sơ sinh (SIDS, sudden infant death syndrome).
Luật nhân quả qua di truyền học.
Quả
báo – Ác giả ác báo. Làm điều thất đức, điều ác sẽ nhận hậu quả xấu
ngay trong đời mình (quả báo nhãn tiền), hay ở đời con cháu. Người xưa
cho rằng “Nhân chi sơ tánh bổn thiện” (Kinh Thi). Còn Tuân Tữ cho rằng
“Nhân chi sơ tánh bổn ác”. Thuyết tiến hóa cũng cho rằng nguyên thủy con
người mang tánh ác, bắt nguồn từ bản năng sinh tồn. Để sống còn, trong
thời cổ đại khi lương thực còn hiếm hoi, con người phải làm mọi cách để
sống còn, như đi cướp thực phẩm, chém giết và ăn thịt lẫn nhau, tàn sát
bộ lạc khác v.v. Bản năng sinh tồn đó được mã hóa trong gen, và di
truyền từ đời này sang đời khác. Theo dòng thời gian, với khám phá lửa,
công cụ trồng trọt, chăn nuôi, cuộc sống cải thiện hơn, và xã hội tiến
dần đến văn minh hơn, cùng luật pháp và tôn giáo phát triển, con người
càng ngày càng đối xử tử tế hơn, nhưng gen bản năng sinh tồn – tính ác –
vẫn duy trì.
Trong nghiên cứu của nhóm đại học Wayne nói trên cho thấy ai cũng có gen SLC6A4 chi phối đạo đức (thiện
và ác). Trong số 65 người khỏe mạnh thể xác và tinh thần được thử
nghiệm, thì có 22 người mang gen Thiện LL (34%), 13 người mang gen Ác SS
(20%), và 30 người có gen vừa Thiện vừa Ác LS (46%). Không phải ai mang
gen nhân hình S (66% số người) đều làm chuyện ác, mà họ kiềm hãm được
hành vi tội ác xảy ra vì văn hóa, luật pháp, tôn giáo ràng buộc. Tuy
nhiên nếu họ sống trong một xã hội suy đồi về văn hóa, pháp luật không
được tôn trọng, có thể trong số này có tiềm năng làm chuyện thất đức,
bất đạo hay hành vi phạm pháp.
Quả báo nhản tiền.
Hành vi có đạo đức hay không đạo đức, phạm pháp đều do chất serotonin,
hay MAOA chi phối. Chỉ cần có ý đồ tội lỗi (ý nghiệp, tâm nghiệp) hay
khi thực hiện điều tội lỗi (thân nghiệp), hay khi lương tâm cắn rứt,
trung khu thần kinh kiềm chế sản xuất serotonin, hậu quả của thiếu
serotonin làm tinh thần bất ổn, ăn mất ngon, mất ngủ, nhức đầu kinh niên, trí nhớ kém đưa đến bệnh mất trí nhớ (dementia và Alzheimer’s),
hành vi đối xử trở nên cộc cằn, khó tính, dễ nổi giận, quạu quọ, chán
đời, mất tính tự trọng, và nhận thức kém. Thiếu serotonin ảnh hưởng chức
năng của nhiều cơ quan nội tạng, như bộ tiêu hóa rối loạn (táo bón),
thính giác rối loạn (ù tai), tim mạch, bắp thịt, hệ thống nội tiết, hệ
miễn nhiễm suy thoái, đưa đến tất cả các bệnh từ tim mạch đến các nội
tạng suy nhược và có thể ung thư.
Khi não bộ sản xuất ít serotonin một cách bất thường thì tiến đến diễn trình của 3 bệnh tâm thần chính là trầm cảm và lo âu (depression & anxiety), bệnh rối loạn ám ảnh và hành vi cưỡng bức (obsessive-compulsive disorder, OCD) và nghiện ngập (addiction) (7).
Chứng
trầm cảm kinh niên đưa đến chứng đau tim, vì trầm cảm gây sản xuất
nhiều adrenaline làm hư hại hệ thống tim mạch, dễ bị đột tử do đau tim.
Người bị trầm cảm thường có tuổi thọ thấp.
Bệnh
rối loạn ám ảnh và hành vi cưỡng bức OCD là hội chứng rối loạn tâm
thần, làm bệnh nhân không kiểm soát được dòng tư tưởng của mình, nên bị
ám ảnh mãi về vấn đề gì đó của quá khứ, và đưa đến hành động lập đi lập
lại nhiều lần. Bệnh nhân OCD có khuynh hướng tự tử.
Nghiện
ngập là hậu quả và cũng là nguyên nhân của rối loạn tâm thần. Các
nghiên cứu của cơ quan NBER (National Bureau of Economic Research) (Hoa
Kỳ) cho biết có sự liên hệ mật thiết giữa bệnh rối loạn tâm thần với
nghiện ngập: 69% bệnh nhân nghiện rượu, 81% nghiện ma túy, 68% ghiền
thuốc lá (8). Lý do chính là bệnh nhân tưởng rằng xử dụng các chất
nghiện này xoa dịu được nỗi đau đớn cơ thể, giúp an thần giảm phiền
muộn. Tuy nhiên, mức độ nghiện ngập càng ngày càng gia tăng thêm, vì
phải chích hay uống hay hút số lượng nhiều hơn mới đủ “phê”. Vì vậy, rối
loạn tâm thần càng gia tăng thêm. Khi bị tâm thần mà xử dụng chất
nghiện thì sinh ra thêm nhiều loại bệnh tâm thần khác nặng hơn, như
chứng hoang tưởng (paranoia), ảo giác (delusion) và trầm cảm. Người
nghiện ngập không kiểm soát được ý chí nên dễ phạm tội lưu thông, gây
tai nạn hay án mạng, dễ tiêm nhiễm bệnh HIV, v.v. Người bị stress có
khuynh hướng ăn uống thái quá nên mập phì và bịnh tiểu đường. Stress
càng trầm trọng hơn nếu hút nhiều thuốc lá, uống rượu, hay thuốc phiện
vì tưởng để quên sầu, thật sự là gia tăng thêm.
Trầm
cảm và stress không trực tiếp gây ung thư, nhưng gián tiếp qua các bệnh
nó gây nên vì hệ miễn nhiễm bị suy đồi, nhất là bệnh nhân nghiện thuốc
lá gây ung thư phổi, nghiện rượu gây bịnh xơ gan, ung thư thực quản
(oesoophageal cancer), ung thư vú ở đàn bà, và nhiều loại ung thư khác.
Quả báo đời con cháu. Trong kho tàng tục ngữ Việt có những câu xác định tính di truyền tính cách hay hành vi cư xử ở đời, như “Cha mẹ hiền sanh con thảo”, hay nhân quả báo ứng như “Đời cha ăn mặn đời con khát nước”.
Ai ai cũng đều có gen chi phối đạo đức trong bộ di truyền. Đó là SLC6A4 dưới dạng đa hình với hai alleles LL, LS hay SS. Khi
mới sanh ra, các alleles này ở dạng ngũ (off), đứa bé thơ ngây, trong
trắng, không phân biệt được thiện hay ác, mà chỉ hành động theo bản năng
sinh tồn. Đói thì khóc đòi bú, thấy người lạ, thú lạ thì khóc thét,
v.v. Nó có thể vô tình giết con kiến bò trước mặt mà chưa có một ý niệm
gì. Sau khi sanh ra đời, bộ máy học tập bắt đầu hoạt động, gen được kích
hoạt bởi các tín hiệu thu nhận bởi các giác quan, trí óc đứa bé dần dần
phát triển, qua bắt chước người lớn mà đứa bé được tiếp xúc học hỏi.
Gen trong não được kích hoạt, từ trạng thái “ngủ” sang “thức”, mã hóa để
sản xuất các hóa chất dẫn truyền (serotonin, dopamine, epinephrine,
norepinephrine, adrenaline, monoamine oxidase A, v.v.). Chính các hóa
chất này tác động lên hệ thần kinh, ra lệnh tạo hành vi.
Ông
bà, cha mẹ là tấm gương của con cháu bắt chước. Cha mẹ có đời sống đạo
đức là gương tốt cho con cái noi theo. Cha mẹ có đạo đức, gen SLC6A4 dạng LL sản
xuất nhiều serotonin, MAOA, có tâm hồn sảng khoái, thân tâm an lạc, bộ
di truyền không bị biến đổi do đột biến, nên con cái nhận đầy đủ bộ gen
tốt của cha và mẹ.
Ngược
lại, cha mẹ sống cuộc đời vô đạo đức thì khó có đứa con đạo đức, nhất
là khi môi trường đạo đức trong xã hội suy đồi. Người vô đạo đức có gen
dạng SS (hay LS), không sản xuất đủ lượng serotonin và MAOA, thường có
cuộc sống bê tha, ăn nhậu, rượu chè, bài bạc, hút xách là nguyên nhân
làm đột biến (mutation) gen trong bộ di truyền của mình. Chứng
trầm cảm và stress, hậu quả của cuộc sống bê tha và lương tâm cắn rứt
sau khi làm điều tội lỗi, có khả năng cao làm đột biến gen, và truyền
gen đột biến vào đời con cháu.
Ở đứa con của người cha và mẹ không đạo đức, gen SLC6A4 bị kiềm chế không sản xuất đủ serotonin và MAOS nên thường có hành vi chống báng xã hội hay hành vi tội ác.
Nghiên
cứu ở Đại Học Edinburgh (UK) cho biết khi người mang thai có quá nhiều
stress thì bào thai trong bụng mẹ tiếp cận với nhiều hormone stress sẽ
gây đứa bé yếu đuối, và đầu óc bất bình thường sau này. Đó là enzyme
11ß-HSD2 có nhiệm vụ “chương trình hóa” sự phát triển bào thai. Khi
người mang thai bị stress trầm trọng thì cơ thể sản xuất nhiều
glucocorticoids chất này sẽ tác động xấu lên bào thai. Cortisol làm giảm
sự sinh trưởng của tế bào hài nhi, làm biến đổi thời gian phát triển mô
tế bào, và có ảnh hưởng lâu dài đến biểu hiện của gen (gene
expression). Enzyme 11ß-HSD2 hiện diện trong não bộ đang phát triển của
hài nhi, phá hủy hormone stress cortisol thành dạng không hoạt động và
như vậy là cái khiêng bảo vệ hài nhi không bị tác động xấu của cortisol.
Ví vậy, cha mẹ hung ác sống vô đạo đức không sản xuất đủ enzyme
11ß-HSD2, có tiềm năng sinh con quái thai, tật nguyền, hay đần độn.
Tánh
ghiền nghiện cũng di truyền qua đời con. Rượu là một trong các nguyên
nhân ngoại giới chánh sinh ra con dị tật (birth defect) với các chứng
học hành khó khăn, dễ cảm xúc, mặt mày dị dạng khờ khạo, ít thân thiện ở
đứa con nhất là do người mẹ say xỉn lúc mang thai.
Thuốc
phiện và các loại tương cận (cần sa, thuốc lắc, v.v.) thì hoàn toàn độc
hại cho hệ thần kinh và sức khỏe tổng quát. Nghiện ngập cũng di truyền
các tác hại đến đời con cháu: Sinh con dị dạng, hay cơ thể không cân
bằng các hormone, rõ ràng dễ thấy là chứng đần độn, trí óc chậm phát
triển của đứa bé.
Trung
tâm McGill University Health Center ở Montreal đã dày công nghiên cứu
về ảnh hưởng của yếu tố ngoại giới đến biến thể của tinh trùng đàn ông,
và như vậy di truyền dị tật lại đời con cháu. Người cha nghiện hút thuốc
lá thường sinh con với hội chứng Down syndrome (mặt khờ khạo) vì khói
thuốc làm biến đổi DNA của tinh trùng.
Sống cuộc đời đạo đức và giữ thân tâm an lạc là điều tốt nhất cho cá nhân mình và cho thế hệ con cháu.
Trần-Đăng Hồng, PhD
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÁNH
1. Trần-Đăng Hồng (2016). Ai cũng có số. Khoahocnet 2016
2. Abigail A. Marsh , Samantha L. Crowe, Henry H. Yu, Elena K. Gorodetsky, David Goldman, R. J. R. Blair (2011). Serotonin Transporter Genotype (5-HTTLPR) Predicts Utilitarian Moral Judgments. PloS One, 5/10/2011. http://dx.doi.org/10.1371/ journal.pone.0025148
4. BBC (2002). Bad behaviour linked to gene. http://news.bbc.co.uk/1/hi/ health/2165715.stm
Reading, 12/2016
0 comments:
Post a Comment