Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (1967-1975) từng nói “Ðất nước còn thì còn tất cả”.
Bởi vậy sau ngày 1-5-1975, đồng bào Miền Nam đã mất hết mọi thứ kể cả quyền được
làm người bình thường, khi chính phủ và quân lực VNCH không còn tồn tại, để bảo
vệ họ như hồi Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972 và trăm ngàn cuộc chiến khắp
mọi nẽo đường đất nước, cho tới ngay 30-4-1975 bị rã ngủ theo lệnh buông súng
đầu hàng.
Nói về sự hy sinh của Người Lính VNCH, tác giả Ý Dân đã đem hai lực
lượng quân sự của hai miền Nam-Bắc VN so sánh và kết luận rằng: “ Cuộc chiến
khốc liệt do Cộng sản Bắc Việt phát động bởi lệnh của Liên Xô và Trung Cộng nhằm
cưỡng chiếm Miền Nam VN, bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản đệ tam quốc tế kéo dài
đến 20 năm, với những hậu quả tang thương cho quê hương và dân tộc Việt “. Cộng
sản Bắc Việt đã cho hàng triệu bộ đội xâm nhập vào tàn phá miền Nam. Chính phủ
VNCH vì phải bảo vệ lãnh thổ và sinh mệnh đồng bào, nên đã chống trả hết sức
dũng cảm và mãnh liệt. Người Việt mấy ngàn năm chung gốc nguồn, huyết thống,
lịch sử và tổ tiên cha me, bổng dưng oan nghiệt bị ngoại bang áp đặt đứng về hai
phía đồi nghịch hận thù, bôi mặt tàn sát lẫn nhau, trong hàng nghìn trận đánh
lớn nhỏ suốt cuộc chiến này.

Sau ngày 30-4-1975 mọi xảo trá lần lượt bị phơi bày từ mọi phía, cho
thấy cuộc chiến VN hoàn toàn do Hồ Chí Minh và đảng CSVN làm theo lệnh của QTCS
gây ra. Cũng vì vậy, Bắc Việt đã được viện trợ vũ khí ồ ạt của Khối CSQT mà đứng
đầu là Liên Xô và Trung Cộng.. nên được trang bị từ vũ khí cá nhân tới cộng
đồng. Trong khi đó, QLVNCH được Hoa Kỳ trang bị phần lớn quân dụng đã lổi thời
và nhỏ giọt (kể cả chiến hạm, phi cơ, trọng pháo) nhưng Họ vẫn can đảm chiến đấu
để bảo vệ hữu hiệu được miền Nam VN cho đến ngày đau thương mất nước
Cũng nhờ tinh thần chiến đấu phi thường và sự hy sinh vô bờ bến của
Người Lính, qua các trận đánh lừng danh trong quân sử mà điển hình là Tết Mậu
Thân năm 1968, Bắc Việt bất ngờ đồng loạt tấn công 44 tỉnh lỵ của miền Nam VN,
vẫn bị thảm bại ê chề, bỏ lại hơn 60.000 xác trên trận địa khi tháo chạy. Mùa hè
đỏ lửa năm 1972, người lính QLVNCH vẫn kiêu hùng đẩy lui được nhiều sư đoàn bộ
đội Bắc Việt khi mưu toan thôn tính các tỉnh Quảng Trị, Kon Tum, Bình Ðịnh, Bình
Long. Tất cá các trận đánh trên đều ác liệt, đẳm máu, nói lên sự thiện chiến của
người lính QLVNCH phải đương đầu với quân số đông gấp bội và trang bị vũ khí tối
tân của giặc. Kết quả nhiều sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt phải rút lui, bỏ lại nhiều
chục ngàn tử thi và hằng trăm xác chiến xa bị bắn cháy, tại mặt trận.

Nhưng số phận của người lính VNCH đã không may mắn bởi sự sắp đặt oan
nghiệt của các thế lực quốc tế, qua bàn tay lông lá của đồng minh Mỹ. Rồi trong
lúc chiến thắng gần kề, họ đã bị bức tử và đầu hàng. Ðưa ra lời nhận xét về
người lính VNCH, nhà báo nổi danh Peter Kahn viết rằng “người lính miền Nam VN
đã chiến đấu cho lý tưởng tự do, nhưng rất tiếc họ đã bị trói tay, buộc chân,
cắt giảm viện trơ..”. Tóm lại, không có quân đội nào, khi gặp hoàn cảnh cay
nghiệt trên mà vẫn giữ được lòng trung thành tuyệt đối với Tổ Quốc và sự chịu
đựng một cuộc chiến đấu lâu dài, tàn khốc như vậy. Còn nhà báo Denis Warner thì
lên án gay gắt quốc hội Mỹ cắt giảm viện trợ quân sự cho QLVNCH vào lúc cần phải
gia tăng. Sau cùng, để vinh danh người lính QLVNCH,nhà báo Peter Kahn đã đưa ra
lời kết luận: “Rốt cuộc người lính QLVNCH đã tài giỏi hơn sự ước lượng của các
chuyên gia quân sự trên thế giới. Phía mạnh hơn chưa hẳn là phía tốt hơn.”.
Bộ đội CS Bắc Việt, nhà văn gái Dương Thu Hương viết rằng “mục tiêu mà
bộ đội Bắc Việt theo đuổi trong suốt cuộc chiến chỉ đem lại kết quả tai hại, là
biến đổi xã hội văn minh VN bằng một mô hình xã hội man rợ”.
Tự ngàn xưa, quân đội Việt Nam luôn nổi tiếng kiêu hùng, nên đã đạt
được nhiều chiến công hiển hách trong suốt dòng lịch sử của dân tộc, qua sứ mạng
ngăn chống các cuộc chiến xâm lăng của giặc phương Bắc lẫn phương Nam, trong đó
có cả Lào-Thái, bọn thực dân da trắng Pháp, Tây Ban Nha, Hòa Lan.
Là con cháu của Tổ Tiên Hồng-Lac, chúng ta dù được sinh vào thế hệ nào chăng
nữa, ra đời trong nước hay hải ngoại, vẫn luôn có bổn phận ngưỡng mộ và hãnh
diện, về công đức vĩ đại “dựng và giữ nước” của tiền nhân, trong đó “Quân Ðội VN
bao đời” là lực lượng chính yếu bảo vệ Tổ Quốc Hồng Lạc, khác hẳn với Bộ Ðội
Cộng Sản Bắc Việt trước sau, trên dưới chỉ biết “trung với đảng, hiếu với lãnh
tụ” và yêu nước là “nước Xã Hội Chủ Nghĩa” mà thôi!
Với ý nghĩa thiêng liêng và cao quý trên, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
được hình thành trong giai đoạn đất nước tạm chia (1955-1975), chống lại cuộc
xâm lăng bằng quân sự của khối cọng sản đệ tam quốc tế, do Cộng Sản Bắc Việt đảm
nhận. ÐÂY LÀ MỘT CUỘC CHIẾN SINH-TỬ của quân dân MIỀN NAM chống lại cuộc xâm
lăng của bộ đội MIỀN BẮC, để giữ lại phân nửa gấm vóc giang sơn của Tiền-Nhân,
không lọt vào gông cùm nô lệ của giặc đỏ.
Ðây không phải là một cuộc chiến riêng của CỌNG SẢN BẮC VIỆT VÀ NGƯỜI
MỸ, như giới truyền thông phương Tây thời đó và ngay cả bây giờ, đã bóp méo sự
thật với mục đích đầu độc dư luận thế giới để làm giảm uy tín của QLVNCH. Làm
như vậy, Cộng Sản và thành phần ham sống sợ chết, đám con ông cháu cha, quan
quyền nhà giàu được du học ngoại quốc, mới có cơ hội vừa ăn chơi trác táng, vừa
chửi Mỹ, vừa tô son vẽ mặt cho đạo quân tiền phong cong sản tại Ðông Nam Á tức
Bắc Việt, mới có được một chính nghĩa lý tưởng “đánh đuổi Mỹ-Ngụy cứu nước”.Còn
bọn phản chiến Miền Nam VN mới có chính danh “để khước từ trách nhiệm và bổn
phận” đối với đất nước mình trong thời loạn, mà “giặc đến nhà, đàn bà cũng phải
đánh”.

Ðây mới chính là nổi thãm thê chất ngất của người Lính Miền Nam, trong hai mươi
năm khói lửa. Vì định kiến, vì buông xuôi, vì thủ đoạn con buôn quốc tế. Tất cả
đã dồn ép QLVNCH vào chân tường trong cuộc chiến đấu đơn độc, không hậu phương,
không một chút tình quân-dân, cá-nước... Trong đó thiệt thòi nhất, không phải là
những đơn vị chính qui mà là những người lính cô đơn Nhân Dân Tự Vệ, Cán Bộ Xã
Ấp, Xây Dựng Nông Thôn, Cảnh Sát Dã Chiến, Nghĩa Quân và Ðịa Phương Quân.. luôn
phải sống chết với đất, với nhà, trực diện từng giây phút với Việt Cộng để bảo
vệ ruộng đồng, làng xóm, đình chùa nhà thờ, những di tích lịch sử của tổ tiên
bao đời tạo dựng và sinh mệnh trân quý của đồng bào.
Hai mươi năm chiến đấu đời lính buồn ơi là buồn, trước mặt phải đối
mặt với một kẻ thù gian xảo độc ác, mất hết thiên lương nhân tính vì đã bị chủ
nghĩa nhồi sọ, cho nên chỉ biết có giết người để đạt mục đích được khắc sâu
trong da thịt. Còn sau lưng bị đâm lén bởi hậu phương vô tình bạc bẽo và cuối
cùng trên đầu là đồng minh Mỹ “con buôn chính trị” cùng với đại bàng trên thượng
tầng cao ngất “chia xương, bán máu lính” để vinh thân phì gia. Xin được cảm ơn
những Bộ Ðội VC Nguyễn Thùy,Vũ Ngọc Tiến, Nguyễn Hòa.. đã trung thực vẽ lên “bức
tranh vân cẩu” của cuộc chiến VN, qua những hồi ký, tạp ghi, truyện dài, truyện
ngắn.. kể cả những bức thư tâm tình rất cảm động. Tất cả hầu hết, đều thẳng
thừng xác nhận hay nói đúng hơn đã lên án “chỉ có Bộ Ðội Bắc Việt hay Việt Cộng,
vì thiếu thốn tình dục, thèm khát đàn bà, nên chỉ có chúng mới hãm hiếp phụ nử,
chứ người lính VNCH đâu có lý do gì, để mà cuồng dâm cả xác chết của nử cán bộ
VC? như một vài kẻ khùng điên ngẩu hứng, muốn cho đời biết tên tuổi, đã bịa
chuyện để làm hoen ố thanh danh của chính đồng đội mình.
CẢM TẠ MIỀN NAM
Cảm tạ Miền Nam phá màn u tối
Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh
Biết được nhân quyền, tự do, dân chủ
Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình.
Cảm tạ Miền Nam soi đường chỉ lối
Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng
Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên
Chớ không phải Các Mác và Lê Nin ngoại tộc.
Cảm tạ Miền nam mở lòng khai phóng
Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu
Mà trước đây tôi có biết gì đâu
Ngoài Trung quốc và Liên xô đại vĩ
Cảm tạ Miền Nam một thời làm chiến sĩ
Chống lại Cộng nô cuồng vọng xâm lăng
Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỉ
Dù không thành công cũng đã thành nhân.
(Phan
Huy)
Cảm nhận đựợc thân phận nhược tiểu của đất nước và sự bất hạnh của dân
tộc, nên người lính chấp nhận hy sinh đời trai, để làm tròn bổn phận cùng trách
nhiệm của một con người có tim óc, cho tới trưa ngày 30-4-1975, khi TT.Dương Văn
Minh bắt buông súng đầu hàng.
Sau đó, cọng sản Hà Nội thẳng tay cướp bóc, chẳng những mọi chiến lợi
phẩm của chính phủ VNCH từ công ốc, ngân khố, quân trang dụng, trong đó có mười
sáu tấn vàng y của quốc gia, được Nguyễn văn Hảo giữ lại để nạp dâng công cho
Bắc Bộ Phủ. Tệ nhất là VC táng tận lương tâm, cướp luôn tài sản mồ hôi nước mắt
của đồng bào, mà trong số này có nhiều “mẹ chiến sỉ VC” đã từng nuôi dấu cán
binh bộ đội, ủng hộ vàng bạc lúa gạo cho chúng sống còn để “quậy nát đất nước”
trong suốt thời gian chiến tranh 1945-1975.
Bao nhiêu bi kịch do Hà Nội đã tạo ra sau ngày Miền Nam VN bị cưởng
chiếm, từ hành động cầy mồ người chết để trả thù đã bị thua VNCH trên chiến
trường, tới việc VC cướp bóc tài sản, cưởng bức vợ con Người Lính Miền Nam ngã
ngựa, hành hạ những phế binh, cô nhi quả phụ tử sĩ bị kẹt trong nước, với đủ thủ
đoạn học được từ KGB, mà mới nhất là chiến dịch ‘đuổi tận, giết tuyệt’ các thành
phần trên, đang sống tại các chòi, dựng trong Nghĩa Ðịa Phước Bình, Sài Gòn và
những nơi khác khắp mọi miền đất nước. Nơi nào VC cũng hung hăng tàn ác không hề
thay đổi.
Bốn mươi mốt năm tan hàng rã ngũ, quân-dân Miền Nam đã lần lượt đồng
hành, qua hết chín tầng địa ngục trần gian nơi thiên đàng xã nghĩa. Nhưng người
lính Miền Nam sinh ra trong khói lửa, trưởng thành chốn chiến trường, nên thể
xác dù đã bị bầm giập tan nát, tinh thần của người lính vẫn nguyên vẹn và không
ai có thể thay đổi hay ngăn cản lý tưởng của họ. Công cuộc đấu tranh của
Dân-Quân-Cán-Chính và thế hệ hậu duệ của VNCH từ mấy chục năm qua sau ngày mất
nước, với chính quyền Cộng Sản VN trong nước cũng như tại Hải Ngoại, đã minh
chứng hùng hồn, về sự chính danh và lý tưởng của người Quốc-Gia và QLVNCH.

Ngày nay dù trong tay không còn súng đạn, đồng minh nhưng người Lính
cũ năm xưa, vẫn tiếp tục con đường quang phục đất nước bằng tim óc, thân xác còn
lại, có đồng đội bên canh cùng chiến đấu, đồng bào trong các Cộng Ðồng Tị Nạn
ủng hộ giúp đở tiếp tay và hãnh diện nhất là sự dấn thân ồ ạt của những thành
phần trí thức trong nội địa và hải ngoại. Tất cả quyết tâm đạt cho bằng được
“Chiến thắng cuối cùng”. Ðó là giựt xập chế độ bất nhân tàn bạo kẻ cướp của
QTCSVN, cởi ách nô lệ thực dân mới, đang xiết cổ hơn 90 triệu đồng bào trong
nước, thực thi nền dân chủ pháp trị, bình đẳng, tự do.. để cho người Việt lấy
lại quyền làm người, đã bị Hồ Chí Minh và đồng bọn cướp mất từ tháng 9-1945 cho
tới ngày nay. Ðược như vậy, người Việt mới có cơ hội ngẩn mặt nhìn trời và quyền
tự quyết về vận mệnh cũng như số phận của Nước Việt, trước kẻ thù không đội trời
chung “Trung Cộng”.
‘dấu binh lửa nước non như cũ
kẽ hành nhân qua đó chạnh thương
phận trai già rủi chiến trường
chàng Siêu, tóc đã điểm sương mới về.’
(Chinh Phụ Ngâm Khúc )
Tóm lại nếu không bị Mỹ và bọn trí thức nằm vùng hay thiên tả của Miền
Nam bán đứng, chắc chắn VNCH cũng sẽ như Tây Ðức, Nam Hàn và Ðài Loan, không bị
mất và sụp đổ vào tay Bắc Việt vào tháng 4-1975. Người VN sẽ không bị tủi nhục
vì kiếp sống lưu vong đầu đường xó chợ, qua thân phận tị nạn, lao động, bán dâm
và làm dâu bất đắc dĩ khắp chân trời góc biển.
Hai mươi năm chinh chiến, đâu đâu cũng có mặt những chiến sĩ hào hùng của QLVNCH
như Dù, TQLC,BDQ,LLDB,TG,BB kể cả DPQ,NQ. Cùng lúc, tại các chiến trường hiểm
nguy trên, không bao giờ thiếu bóng dáng của người lính áo đen, đang âm thầm
hoạt động bên những thần tượng của quân lực, với nhiệm vụ tiếp cận, thông tin và
mở rộng vòng tay đón đồng bào ra khỏi vùng mê lụy, chết chóc, mà VC gọi là khu
giải phóng. Họ là những chiến sĩ vô danh của QLVNCH, đã có mặt khắp nước từ
1955-1975, đã chết, bị tù đày hành hạ dã man như bất cứ một người lính nào của
miền Nam sau ngày 30-4-1975.
Hỡi ơi, một thời lịch sử hào hùng đã khép lại, bao chục năm buồn thảm
đến đi trong thiên đường xã nghĩa nhưng vẫn không ngăn nổi phế hưng cuộc đời,
trong đó thời gian đã làm sống lại những gương anh hùng liệt nữ của VNCH thuở
nào đã nằm xuống vì đại nghĩa dân tộc từ 1955-1975. Và như thế viết lại những
trang sử này cho dù không thể nói hết vì Những người Lính chiến đấu đơn độc
trong mọi chiến trường khắp nước hay tại Bình Thuận, là những chiến sĩ vô danh
thênh thang một cõi đi về.
Còn hình ảnh nào đẹp và hào hùng hơn, khi lật qua những trang quân sử
của VNCH, của một tướng lãnh hàng đầu, mà cấp bậc được gắn ngay tại mặt trận. Ðó
là Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng TMT.QLVNCH, lúc còn Ðại Tá Tư Lệnh Lữ Ðoàn Nhảy
Dù. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, lúc còn là Thiếu Tá Liên Ðoàn Trưởng LÐ Quan Sát
77, đã nhảy trực thăng vào chiến trường để tự mình điều động chỉ huy binh sĩ,
trong trận Suối Ðá (Tây Ninh) vào năm 1964, trước tầm súng cá nhân của VC.
Những ngày lửa máu Tết Mậu Thân 1968, làm sao quên được hình ảnh của
Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan, xông xáo khắp các Mặt Trận Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia
Ðịnh, để trực tiếp chỉ huy các đơn vị Cảnh Sát Dã Chiến tại Ðô Thành, nên đã bị
thương nhưng không chịu cho tải thương. Nhiều tướng lãnh khác cũng đã hy sinh
tại chiến trường như Chuẩn tướng KQ Lưu Kim Cương, Nguyễn Bá Liên (Tư lệnh Biệt
Khu 24), Trương Quang Ân (Tư lệnh SD23BB), Trương Hữu Ðức (Tư lệnh Thiết Giáp),
Trung tướng Nguyễn Viết Thanh (Tư lệnh Quân Ðoàn 4), Ðại tướng Ðổ Cao Trí (Tư
lệnh QD3). Ðại Tá Lê Ðức Ðạt (Tư lệnh SD22BB)..
Mùa hè đỏ lửa 1972, Trung tướng Nguyễn văn Toàn (Tư lệnh QD2) đã bay
vào trận địa tại Thị xã Kon Tum, để chỉ huy phá chốt. Tại Bình Thuận, từ
1969-1975, Ðại Tá Ngô Tấn Nghĩa, Tiểu Khu Trưởng và Ðốc Sự HC Phạm Ngọc Cửu (Phó
Tỉnh Trưởng) có đêm nào mà không tới các đồn bót, xã ấp, đại đội DPQ.. để ngủ
chung với các đơn vị tác chiến. Tại Mặt Trận Phan Rang ngày 16-4-1975, từ Trung
Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi (Tư lệnh Tiền Phương của QD3) tới Chuẩn Tướng Phạm ngọc
Sang (Tư lệnh SD6KQ) và Ðại Tá Nguyễn Thu Lương (Lử Ðoàn Trưởng Nhảy Dù). Cả ba
vị đều có trực thăng riêng để thoát thân, khi đại quân Bắc Việt tràn ngập khăp
nơi. Nhưng vì không thể bỏ rơi thuộc cấp, tất cả đã đi bộ và bị giặc bắt tại
chiến trường. Ðó là những tấm gương chói lọi trong quân sử, mà bất cứ đọc tới
cũng phải kính phục, ngưởng mộ.
Tóm lại, trong hàng ngũ tướng lãnh Miền Nam, đã có rất nhiều khuông
mặt LỚN đầy UY VŨ HIÊN NGANG, chấp nhận cái chết liệt oanh làm banh mặt kẻ thù
lúc đó, góp phần với đồng bào và các chiến sĩ vô danh anh hùng khác.. nêu tấm
gương bất khuất của người lính trận, cái tiết tháo ngàn đời của đấng sĩ phu trí
thức Hồng-Lạc và trên hết là TRÁCH NHIỆM-DANH DỰ của Cấp Chỉ Huy, Lãnh Ðạo:
“Sinh vi Tướng, Tử Vi Thần ố Nhất tướng công thành vạn cốt kho” nên Thành Mất
Phải Mất Theo Thành. Những danh tướng VN Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn
Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai.. ngay khi tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh
bắt QLVNCH buông súng, rã ngủ đầu hàng Cọng Sản Ðệ Tam Quốc Tế lúc trưa ngày
30-4-1975, các vị trên đã tự tìm cái chết vinh, làm hãnh diện cho màu cờ và sắc
áo của QLVNCH, mãi mãi trong dòng sử oai hùng Nước Việt.
Giá trị của con người giữa chốn ba quân, vinh hay nhục là thế đó!
Viết từ Xóm cồn Hạ Uy Di
Tháng 11-2016
Mường Giang
0 comments:
Post a Comment