Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa
Monday, 23 June 2014
Lần thức tỉnh sau cùng?
Monday, June 23, 2014
No comments
Ðó là cuộc sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam khá hơn chế độ XHCN ở miền Bắc về rất nhiều mặt.
Kinh tế là cái đập vào mắt mọi người ngay
lập tức và dễ nhìn ra nhất khi so sánh từ bộ mặt các đô thị cho tới
nông thôn hai miền. Thu nhập, mức sống của người dân, số lượng, chất
lượng, sự phong phú của các chủng loại sản phẩm, hàng hóa trong đời sống
hàng ngày, rồi tổng sản lượng quốc gia, vị trí nền kinh tế của mỗi miền
so với các nước trong khu vực…
Ðến chất lượng của nền giáo dục, y tế,
thành tựu về văn hóa nghệ thuật xét trên tiêu chí tự do sáng tác, sự đa
dạng, phong phú, hiện đại trong các tác phẩm. Quan trọng hơn là một môi
trường sống tự do dân chủ được thể hiện từ tự do biểu tình phản đối Mỹ
và chính quyền Sài Gòn, tự do báo chí, lập hội, lập đảng, tiếp nhận
thông tin…
Trí thức miền Bắc nhận ra sự khác biệt
này khi tiếp xúc với kho báo chí, sách vở, tư liệu, dịch thuật mênh mông
đa chiều của chế độ miền Nam. Trước đó, người dân miền Bắc luôn được
nghe đảng và nhà nước tuyên truyền rằng cuộc sống của đồng bào miền Nam
vô cùng khốn khổ vì bị Mỹ ngụy kìm kẹp, đồng bào miền Nam đang rên xiết
dưới gót giày ngoại xâm, phải hy sinh tất cả để giải phóng miền Nam…
Trước thực tế rành rành sau đất nước
thống nhất, những “cái loa” của đảng lại tìm cách ngụy biện rằng đó chỉ
là phồn vinh giả tạo, miền Nam giàu là do Mỹ viện trợ, chứ còn đời sống
xã hội thì thối nát, toàn đĩ điếm, xì ke, tham nhũng…
Mặc dù vậy, trong lòng nhiều người, chắc
chắn niềm tin vào đảng, vào nhà nước cộng sản đã giảm sút khá nhiều,
thậm chí có những người thực sự thức tỉnh vì nhận ra mình, cha ông mình
đã bị lừa.
Theo thời gian, những giá trị của VNCH đã
từ từ, lặng lẽ hoặc công khai được phục hồi. Từ việc chuyển đổi mô hình
từ kinh tế quốc doanh, tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị
trường dù vẫn còn cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa,” bỏ ngăn sông
cấm chợ, bỏ các mô hình làm chủ tập thể như hợp tác xã, nông trường…trở
lại với tư nhân, tư hữu.
Từ việc một số lượng không nhỏ sách của
miền Nam trước năm 1975 được cho in ấn, tái xuất bản, một số lượng lớn
các ca khúc của miền Nam được phổ biến, trình diễn công khai (cần phải
nói thêm rằng âm nhạc miền Nam chưa bao giờ hoàn toàn chết trong suốt 40
năm qua, ngay cả trong thời kỳ đầu khi bị lên án là đồi trụy, phản
động… thì người dân vẫn lén lút nghe).
Trong đời sống hàng ngày nhiều thứ cũng
dần dần xuất hiện trở lại. Chẳng hạn, việc cho phép cô giáo tiểu học,
trung học rồi đến nữ sinh trung học lại được mặc áo dài, trang phục công
sở nam mặc veston thắt cravate đi giày, nữ ăn mặc đẹp, lịch sự thay vì
cung cách xuề xòa một thời được đề cao.
Cách xưng hô trong cơ quan công sở hành
chính thay vì gọi “sếp,” gọi cấp trên là anh Hai, Chị Ba, chú Tư… thân
mật theo kiểu gia đình đã trở lại thành ông/bà lịch sự.
Những từ ngữ trong giao dịch công sở,
giấy tờ hành chính, trong giáo dục, bằng cấp… một thời cứ Việt hóa một
cách thô thiển như “xưởng đẻ,” chiến sĩ gái, bài nói (diễn văn), các bạn
nghe đài (quý thính giả), hát đôi (song ca), hát tốp hoặc tốp ca (hợp
ca)… từ từ biến mất, “đổi mới thành cũ,” kể cả CMND cũng trở lại là thẻ
căn cước…
Nhưng cái án nặng nề nhất mà chế độ VNCH
bị đảng và nhà nước cộng sản “đóng đinh” bao năm là một chế độ ngụy
quyền, tay sai bán nước, đã hằn thành nếp nghĩ trong đầu óc bao thế hệ
người Việt sinh ra và lớn lên ở miền Bắc trước đây cũng như người dân cả
nước thời hậu chiến.
Ðối với những người dân lặng lẽ tìm cách
mở mắt cho mình qua báo chí tư liệu “lề trái” trong và ngoài nước, từ
lâu đã nhận ra nhiều sự thật phía sau “hào quang” chiến thắng và tính
chính danh, chính nghĩa của đảng cộng sản trong cả hai cuộc chiến tranh
với Pháp, Mỹ, sự thật về mối quan hệ Việt-Trung trong suốt bao nhiêu
năm…
Thật ra, thông qua đường lối chính trị
ngoại giao cho tới cách hành xử của phần lớn các thế hệ lãnh đạo đảng và
nhà nước cộng sản, người dân VN cũng như thế giới không khó khăn gì để
nhận ra đảng cộng sản hèn hạ, bạc nhược trước Trung Cộng như thế nào,
thật sự là một cái đảng bán nước ra sao. Nhưng muốn thuyết phục tất cả
những ai còn mơ hồ, hoặc vẫn còn chút niềm tin vào nhà cầm quyền VN thì
phải có bằng chứng giấy trắng mực đen.
Và dần dần những bằng chứng đó đã bị lộ
ra, từ chính “bạn vàng” Trung Quốc. Từ công hàm năm 1958 của ông Phạm
Văn Ðồng, bản đồ, sách giáo khoa do nước VNDCCH phát hành công nhận
Trường Sa-Hoàng Sa là của Trung Quốc…
Nhưng đó chỉ là một phần rất nhỏ. Ðừng
quên trong suốt bao nhiêu năm qua, giữa hai đảng hai nhà nước Việt-Trung
đã có bao nhiêu bản ký kết, hiệp ước trong bí mật, rồi nào Hiệp định
biên giới trên đất liền giữa Việt Nam-Trung Quốc 1999, Hiệp định phân
định Vịnh Bắc bộ tháng 12 năm 2000, Hội nghị Thành Ðô 1990…
Không ai biết được hai bên đã ký kết thỏa
thuận những gì, chỉ biết Ải Nam Quan, một nửa thác Bản Giốc, hàng trăm
kilomet vuông dọc biên giới phía Bắc, hàng ngàn hải lý vuông lãnh hải
thuộc vịnh Bắc Bộ…trở thành của Trung Cộng, do chính đảng và nhà nước
cộng sản VN tự tay dâng cho giặc. Chưa kể một phần Trường Sa và nhiều
địa điểm bị mất do Trung Cộng cưỡng chiếm qua các cuộc chiến tranh biên
giới Việt-Trung 1979, trận Gạc Ma 1988…
Và bây giờ, điều chua chát là nhà cầm
quyền VN phải viện dẫn đến thực tế Hoàng Sa lúc bấy giờ đang thuộc quyền
quản lý của chính quyền VNCH, bị Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm từ
năm 1974, để “chạy tội” cho công hàm 1958.
Và bây giờ, trước lòng tham vô đáy, sự
hung hăng ngang ngược của Trung Cộng, nhiều nước ở khu vực Ðông Á và
Ðông Nam Á đều mong muốn được là đồng minh của Hoa Kỳ để chống lại Trung
Quốc, kể cả Việt Nam, vẫn luôn tự hào đã đánh đuổi “đế quốc Mỹ xâm
lược.”
Ai sai lầm, ai bán nước, câu trả lời đã
quá rõ ràng. Chưa kể, nếu nói là một chế độ tay sai, đánh thuê, thì
chính đảng Cộng sản Việt Nam còn tự hào thừa nhận “ta đánh Mỹ là đánh
cho Liên Xô, Trung Quốc,” chính đảng cộng sản cũng phải dựa vào lương
thực, quân tranh quân dụng, tiền bạc, vũ khí, đạn dược, cố vấn, kể cả
con người… của các nước XHCN anh em để có thể đánh Mỹ và VNCH.
Như thế là sau 39 năm, cái tiếng oan
trong lịch sử “một chế độ tay sai, đánh thuê, bán nước” của chế độ VNCH
đã được gột rửa, đối với những ai hiểu biết.
39 năm lâu hay là mau? Có thể gọi là mau
nếu so với quãng đường lịch sử dài mấy ngàn năm của một quốc gia, nhưng
riêng trong hoàn cảnh ngặt nghèo của Việt Nam, khi cơn ác mộng mất nước,
bị lệ thuộc lâu dài vào Trung Cộng đang lơ lửng trước mắt và thời gian
còn lại quá ít, thì mọi sự thật được bạch hóa đều trở nên quá chậm.
Dù sao, đối với tất cả những ai thức tỉnh
trước sự thật về đảng Cộng Sản Việt Nam lần này, có lẽ sẽ là sự thức
tỉnh sau cùng, và không bao giờ còn chút mơ hồ, lầm lẫn nào nữa. Bởi với
một dân tộc có một lịch sử cay đắng “1000 năm nô lệ giặc Tàu, 100 năm
đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày…” (ca khúc “Gia Tài Của
Mẹ,” Trịnh Công Sơn), tội bán nước luôn luôn là tội lớn nhất, không thể
tha thứ.
Với cái tội bán nước có bằng chứng, có
quá trình, tiếp tục một cách lâu dài và đem lại quá nhiều hệ lụy cho đất
nước, dân tộc, đảng và nhà nước cộng sản còn lý do nào để có thể tiếp
tục độc quyền lãnh đạo đất nước?
Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!
.
.
0 comments:
Post a Comment