Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa
Monday 24 February 2014
Home »
Dân Muốn Biết
» Dân Muốn Biết : NỖI LÒNG CỦA MỘT ''GIÁO SƯ'' Nước CHXHCN
Dân Muốn Biết : NỖI LÒNG CỦA MỘT ''GIÁO SƯ'' Nước CHXHCN
Monday, February 24, 2014
No comments
NỖI
LÒNG CỦA MỘT ''GIÁO SƯ''
(ra
trường năm 1973 và mới về hưu)
40
NĂM NHÌN LẠI
(Thay lời tựa)
40 năm là quãng
thời gian không dài, chẳng ngắn.
Không dài vì, so với
lịch sử 4.000 năm của dân tộc, nó chỉ bằng 1/100, chỉ
là một chấm đen nhỏ bé trên tiến trình vàng son dài
lâu của đất nước.
Chẳng ngắn vì nó
là thời gian của nửa đời người, lại là nửa đời
sung mãn nhất của thế hệ cựu sinh viên ĐHSP HUẾ hai
khóa Lương Văn Can (1969-1973) và Huỳnh Thúc Kháng
(1970-1974).
Tốt nghiệp (ra
Trường) cách đây 40 năm, hơn 200 sinh viên hai khóa Lương
Văn Can và Huỳnh Thúc Kháng như những con chim đã đủ
lông, đủ cánh, hớn hở rời tổ ấm ĐHSP HUẾ để tung
bay khắp bầu trời miền Trung xanh trong và Tây Nguyên lộng
gió, quyết đem tài năng và tâm huyết
của mình phục vụ Tổ quốc, góp phần nhỏ bé vào công
cuộc thay đổi diện mạo nền giáo dục dân tộc, nhân
bản và khai phóng, nhiệt tình đem những kiến
thức còn nóng hổi vừa tiếp thu từ ân sư
trên ghế giảng đường ĐHSP HUẾ trao truyền cho những
thế hệ thanh niên miền Trung và Tây nguyên nghèo
khó nhưng hiếu học đang ước ao biết bao những cuộc
đổi đời.
Nhưng
những cơn giông bão ùn ùn kéo tới đã ngăn chận
đường bay của những con chim hồng, chim hộc (*), kéo
sà nó xuống gần mặt đất, biến chúng thành những
chú chim én, chim sẻ tầm thường, chỉ biết bay vớ
vẩn trong không gian chật hẹp hay chỉ biết mổ nhặt
thóc lúa rơi vải quanh sân nhà, chẳng còn thời gian mà
nhìn ngắm, tiếc thương bầu trời trên kia cao xanh lồng
lộng, nơi đã từng chao liệng những đường bay đẹp
như cánh diều no gió.
Sau
năm 1975, từ vai trò của
những chủ nhân ông đầy sáng tạo trên bục giảng,
của những mái trường trung học mang tên những anh hùng,
danh nhân lẫy lừng của đất nước, chuẩn bị trở
thành đội ngũ kế thừa và
rường cột vững chắc
trong tòa lâu đài giáo dục Việt Nam sang
trọng và tử tế, những
“tân giáo sư” của hai khóa Lương Văn Can và Huỳnh
Thúc Kháng bỗng trở thành
giáo viên lưu dung, phải đi
học tập nguyên lí, chương trình và phương pháp giáo dục
“mới”. Rồi với số tiền
trợ cấp ít ỏi, cái
sổ gạo quý gấp ngàn lần sách giáo khoa dùng mua bo bo và
khoai sắn độn, với
chương trình giảng dạy cứng nhắc…
chúng ta nếu không bị đóng
đinh ngay trên cây thập tự giáo dục
của chính mình thì trông giống
những người khiếm thị trong thiên đường mù
mò mẫm, quờ
quạng đi trên con
đường giáo dục mù mịt
hơn là những người đốt
đuốc soi đường và khai sáng trí tuệ.
Mặc
dù đất nước trải qua thời kỳ đổi mới nhưng
ngành giáo dục vẫn chìm nghỉm trong bế tắc, chẳng có
lối ra, không tìm thấy ánh sáng le lói cuối đường hầm.
Phẩm chất dạy và
học giảm sút, đạo đức học
sinh suy đồi, tiêu cực
trong đánh giá xếp loại, gian lận
trong thi cử, giả dối
trong bình bầu thi đua các danh hiệu giáo viên… thường
xuyên, liên tục diễn ra ở nhiều nơi làm cho phụ huynh
và nhân dân mất niềm tin
vào ngành giáo dục vốn
trước đây có truyền
thống cao đẹp nhất trong
những ngành nghề cao đẹp.
Trong bốn mươi năm
qua, nhất là vào thời kỳ gian khó toàn diện buổi đầu,
20 (?) cựu sinh viên hai khóa Lương Văn Can (?) và Huỳnh
Thúc Kháng (?) vì các nguyên nhân trầm uất, bệnh tật,
tai nạn…đã từ trần, đã lìa bỏ chúng ta mà đi; 30
bạn khác, vì nhiều lý do khác nhau, đã bỏ nghề giữa
chừng, rời quê hương, định cư ở nước ngoài…đã từ
bỏ bục giảng, xa rời ngành Sư Phạm trong muôn nỗi
tiếc thương (Lương Văn Can (?) và Huỳnh Thúc
Kháng (?).
Ngoài mất mát to
lớn về số lượng không lấy gì bù đắp nổi, chúng ta
còn mất mát rất nhiều về phẩm
chất vì
tuyệt đại bộ phận giáo sư
hai khóa Lương Văn Can và Huỳnh Thúc Kháng không
được trọng dụng, không
được sử dụng chất
xám, đành chịu thui chột
tài năng. Tài năng được đào tạo bài
bản và công phu suốt bốn năm miệt mài dưới
mái trường ĐHSP Huế, theo thời gian, cứ vô tình theo
“ông lái đò” trôi ra sông, ra biển.
Thử
tưởng tượng nếu không có
thay đổi lịch sử, hơn
200 giáo sư hai khóa Lương
Văn Can và Huỳnh Thúc Kháng bây giờ đã đường hoàng ở
vào những chức vụ cao
trong Bộ Giáo Dục,
trong các Viện Đại Học,
chiếm những vị trí ưu tú nhất trong các
giảng đường Đại Học,
các trường trung học
để thỏa sức cống hiến
và sáng tạo với
biết bao nhiêu công trình nghiên cứu về khoa học, giáo
dục… sáng tác văn học, nghệ thuật…, là tác giả của
bao nhiêu bộ sách giáo khoa nổi tiếng bổ ích.
Ngoài mất mát quá
to lớn về số lượng và phẩm
chất kể trên, chúng ta còn mất
mát rất nhiều về thời gian, tiền bạc,
công sức, hoài bão và
niềm tin.
Là
lương sư mà không hưng được
quốc, đành đau lòng, bó tay đứng nhìn Việt
Nam ngày càng chậm tiến và lạc
hậu, xấu hổ và xót
xa nhìn các nước ở tầm thấp hơn chúng ta
trong khu vực Đông Nam Á và chỉ nhỉnh hơn chúng ta trong
toàn châu Á vào thập niên 60 vươn lên trở thành những
con rồng có thể sánh vai với các cường quốc châu Âu,
bỏ xa chúng ta tụt hậu gần mấy
mươi năm!
Tuy nhiên, chúng ta
rất tự hào được sống ở một trong những giai đoạn
thăng trầm vào bậc nhất của lịch sử Việt Nam. Chúng
ta tự hào đang là chứng nhân của thời đại.
Có sống được và sống hết mình trong giai đoạn lịch
sử đầy thử thách này, chúng ta
mới có thể tự nhận ra mình có còn đúng là chính mình
hay không!!!
Và vui mừng, nhận
ra bên cạnh những mất mát to lớn, chúng ta vẫn còn
nhiều cái được quan trọng.
Cái
được quan trọng nhất là chúng ta vẫn giữ được cái
tâm trong sáng.
Chúng ta có quyền
tự hào mình là những công dân Việt Nam chân
chính. Chúng ta – những môn sinh hậu bối,
có quyền ngẩng cao đầu nhìn chân
dung hai vị tiền bối
Lương Văn Can và Huỳnh Thúc Kháng mà hai khóa
chúng ta vinh dự được lần lượt mang tên. Chúng ta đã
không phụ lòng các ân sư
của trường ĐHSP Huế xưa đã dày công đào tạo chúng
ta một cách bài bản, đã giáo dục chúng ta thành những
con người lý tưởng, dù trong bất cứ hoàn
cảnh nào cũng phải mài giũa cái
tâm trong sáng không bao giờ bám bẩn, để sống không
thành công cũng phải thành nhân.
Cái
được quan trọng thứ hai là chúng ta còn giữ được cái
tình.
Nhờ giữ được
cái tình mà chúng ta mãi mãi vẫn là chúng ta, không bao
giờ tự đánh mất mình. Nhờ có tình, chúng ta – trong
đó có rất nhiều bạn ở nước ngoài, mới luôn nhớ về
nguồn cội, mới luôn nhớ về trường xưa, thầy cũ, bạn
hiền, mới khắc phục khó khăn để tham gia, tích cực tổ
chức và ủng hộ Hội Khóa để hôm nay thầy trò được
hội ngộ, quây quần bên nhau trong một tình cảm tri ân
và xúc động không thể nào hơn.
Nhờ có tình mà
chúng ta luôn tưởng nhớ các đồng môn của chúng ta đã
khuất, thấy như luôn có bạn bên cạnh chúng ta trong mỗi
vui buồn, trăn trở thường trực của chúng ta hôm nay.
Nhớ từ Hội khóa
hằng năm ở Đà Lạt với vỏn vẹn hơn 10 người, đến
Hội khóa chính thức lần I ở Đà Nẵng tăng lên trên
20, Hội khóa lần II,III ở Nha Trang và Huế tăng trên 30,
Hội khóa lần IV ở Đà Lạt đã lên đến 50 bạn về
tham dự. Số lượng đồng môn hai khóa Lương Văn Can và
Huỳnh Thúc Kháng ĐHSP theo thời gian tham gia “nối vòng
tay lớn” ngày càng tăng trưởng đáng kể. Và Hội khóa
lần 5 này, các bạn ở Huế đã khởi động rất sớm và
phân công chu đáo, hy vọng vòng tay lớn chúng ta sẽ nối
rộng hơn, dây thân ái chúng ta sẽ siết chặt nhau hơn,
tạo điều kiện cho bạn bè gần gũi thân thiết hơn và
biết đâu sẽ chẳng có những cuộc kỳ ngộ lần đầu
giữa các đồng môn sau đằng đẵng 40 năm xa cách?
Sau 40 nhìn lại, rút
cuộc, chúng ta chịu tổn thất khá nhiều về số lượng,
tài năng và niềm tin, nhưng chúng ta được rất nhiều về
nhân cách và tâm tình.
Còn gì quý hơn tâm
tình trên cuộc đời này hỡi bạn?
Và Đặc san HỘI
NGỘ này là biểu hiện một chút tâm tình đó, là“của
tin còn một chút này làm ghi.”
Nên hãy quên ngay
những mất mát, hãy trân trọng giữ gìn những cái được
rất đáng quý, đừng để nó trôi tuột khỏi tầm tay,
nhất là trong những dịp HỘI NGỘ hiếm hoi này, bạn
nhé! Vì Thầy ta đã cao niên, chúng ta cũng chẳng còn trẻ
nữa (chỉ hơn 20 tuổi cách đây đúng 40 năm!)
Xin dâng trọn
tấc lòng này
Tri ân bạn cũ,
ơn Thầy, Trường xưa…
Nguyễn Văn Cam
Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!
.
.
0 comments:
Post a Comment