Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa
Wednesday 16 October 2013
Một võ tướng thiếu dũng khí
Wednesday, October 16, 2013
No comments
Tuần vừa qua, có thể nói rằng tin tướng Võ Nguyên Giáp chết vào ngày
thứ Sáu tại Hà Nội đã gây xúc động mãnh liệt ở nhiều người. Người ta bị
xúc động vì ai cũng tưởng ông đã chết từ hồi nào, cách đây 30 năm, 40
năm gì đó. Hóa ra ông vẫn còn sống, cứ sống mãi cho đến gần cuối tuần
qua! Đến 102 tuổi, ông mới chịu vĩnh viễn từ giã cõi đời, cho dù trong
tầm mắt của nhiều người Việt Nam, với những lý do khác nhau, ông đã
không còn nữa! Hay chỉ còn hình ảnh hài hước của một ông già, thân xác
thì còm cõi thê thảm, thế nhưng cứ luôn luôn đóng vào người bộ lễ phục
quân đội thùng thình như thể sắp ra sân khấu trong vai một dũng tướng!
Phải
nói rằng không có một nhân vật lãnh đạo hết thời nào của Hà Nội lại
được dư luận quốc tế đặc biệt chú ý đến như thế khi ông ta chết. Đương
nhiên không thể so sánh ông với Hồ Chí Minh. Ông Hồ chết được nguyên cả
một cái “lăng bác” nằm ngay giữa quãng trường Ba Đình. Nhưng khi qua đời
năm 1969, Hồ Chí Minh mới 79, cuộc chiến tranh ở miền nam chưa ngã ngũ,
và báo chí phương tây còn phần nào dè dặt trong việc “ca ngợi” một
người lãnh đạo của một nước Cộng Sản.
Tình thế ngày nay dã khác đi. Thế giới đã khác đi. Việt Nam cũng đã
khác đi. Dân chủ, tự do đương nhiên là không có. Nhưng cộng sản cũng là
không. Họ chỉ giữ chuyên chính. Và nếu nhìn lại, so sánh với những người
lãnh đạo khác ở Việt Nam đã chết rồi, ngay cả những người vai vế cao
hơn Võ Nguyên Giáp như Lê Duẩn (chết năm 1986), Trường Chinh (1988), Lê
Đức Thọ (1990), Phạm Văn Đồng (2000) – không nói gì đến các ông Nguyễn
Văn Linh hay Võ Văn Kiệt – cái chết của Võ Nguyên Giáp được phương tây
đề cập đến nhiều nhất, sâu nhất, và với những lời “ca ngợi” ồn ào nhất.
Tờ The New York Times đưa ra một cái tựa giật gân: “Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, người đuổi Mỹ ra khỏi Việt Nam, đã chết” (Gen. Vo Nguyen
Giap, Who Ousted U.S. From Vietnam, Is Dead) cho dù người đặt ra tựa này
có thể hoặc không biết gì mấy về cuộc chiến tranh Việt Nam hoặc tự cho
phép mình phóng đại hay cường điệu ngoài giới hạn được phép. Tờ The
Washington Post đưa ra một cái tựa vừa phải hơn, cho dù không hẳn chính
xác: “Võ Nguyên Giáp, tư lệnh Việt Nam mà quân đội đã đánh bại những lực
lượng Pháp và Mỹ, đã chết” (Vo Nguyen Giap, Vietnamese commander whose
army defeated French, U.S. forces, dies). Tờ Los Angeles Times có tựa:
“Võ Nguyên Giáp chết vào tuổi 102; viên tướng đưa miền bắc đến chiến
thắng” (Vo Nguyen Giap Dies at 102; Vietnamese General Led North to
Victory). Nói chung, báo chí và nhiều nhà chính trị, nhà nghiên cứu sử
học đều mô tả Giáp như một “thiên tài quân sự của thế kỷ 20” đã đánh
đuổi được quân Pháp và quân Mỹ ra khỏi Việt Nam. Chính hiện nay ở Hà
Nội, để cho người dân quên đi thực tế chính trị kinh dị hàng ngày, bộ
máy tuyên truyền của nhà nước đang ra sức thổi phồng công trạng của Võ
Nguyên Giáp, người đã có công đánh đuổi cả “thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ”, cho dù cuối cùng đảng cũng chỉ tín nhiệm “đại tướng” vào việc đặt
vòng ngừa thai cho phụ nữ!
Người
Pháp xưng tụng ông Giáp như danh tướng Napoléon của họ. Họ còn nói
Napoléon còn nếm mùi đại bại ở Waterloo. Có nhà phê bình khác nói ông là
bậc thầy về du kích chiến. Và ông giáo sư rãnh rỗi Carl Thayer của Học
Viện Quốc phòng Úc cho rằng Giáp đã “mở ra một kiểu mẫu cách mạng cho
các nước bị trị khác trên thế giới”, cho dù nay là năm 2013 và ông
Thayer phải thấy sự hớ hênh trong nhận định “biếu không” của mình. Người
Pháp dĩ nhiên phải ca ngợi ông Giáp vì họ cần có một lý do thuận tiện
để giải thích tại sao họ thua trận Điện Biên Phủ và phải rút khỏi Việt
Nam. Tuy nhiên, khi nhìn lại những năm tháng đó, trận Điện Biên Phủ chỉ
là giọt nước tràn ly đối với người Pháp. Người Pháp đã muốn bỏ Việt Nam
lắm rồi – dù có hay không Điện Biên Phủ. Còn trận Điện Biên Phủ thì
đúng là một sự lựa chọn đấu trường sai lầm, tuyệt vọng, ngu xuẩn, tự
biến mình thành một cái đích mà không có lối thoát của những nhà chiến
lược quân sự của Pháp, cho dù họ đã nếm mùi chiến tranh với Việt Minh đã
tám năm và hiểu tình hình ngày càng rất phức tạp. Hồ Chí Minh, Võ
Nguyên Giáp và Trường Chinh (tác giả của cuốn “Kháng chiến trường kỳ,
nhất định thắng lợi” - đọc lên giống như những “lời dạy” của “Mao chủ
tịch”) đều có ý dựa vào Trung Cộng bằng nhiều cách để đánh thắng Pháp.
Khi ca ngợi Giáp là “thiên tài quân sự”, người ngoài đương nhiên không
biết Việt Nam từng có những Lê Lợi 10 năm chiến đấu chống quân Minh,
Nguyễn Huệ đã đánh thắng đại quân Thanh ở Thăng Long nhờ một cuộc hành
quân thần tốc… Chiến tranh du kích của Võ Nguyên Giáp cũng vay mượn cảm
hứng từ “chiến tranh nhân dân”, “quân đội nhân dân” của Mao Trạch Đông.
Ngay cả lối đánh “sát quân” nổi tiếng của Võ Nguyên Giáp cũng chính là
từ chiến thuật biển người của Mao. Những “câu thiệu” tiếng Hán như “tiền
pháo hậu xung”, “công đồn, đả viện”... không lẽ là của Võ Nguyên Giáp?
Thực ra, khi Mao đuổi Tưởng ra đảo Đài Loan và thành lập nước Trung Hoa
Cộng Sản vào năm 1949, cả Pháp và Hoa Kỳ đều thấy những nguy cơ lớn lao
đang ngày càng hiển hiện. Việt Minh dựa vào vùng biên giới sát Trung Hoa
để xây dựng chiến khu, căn cứ địa an toàn. Viêt Minh bắt đầu nhận quân
viện từ miền bắc và rồi cố vấn chiến tranh cách mạng của Bắc Kinh cũng
được gởi đến – mật độ có lẽ còn hơn mật độ cố vấn Mỹ làm việc với quân
đội Việt Nam Cộng Hòa trong giai đoạn đầu của cuộc chiến ở miền nam sau
đó. Bắt chước bài học Trung Cộng mà ngay từ những năm 1951-52 cải cách
ruộng đất đã bắt đầu được tiến hành theo chỉ thị của các “đại cố vấn”.
Tuy nhiên, để cho bài ca về Võ Nguyên Giáp được trọn vẹn, người viết sử
của Hà Nội thường tùy tiện bôi mờ hay xóa hẳn nhiều yếu tố quan trọng.
Có bao giờ người ta nghe nói bao nhiêu người lính, bao nhiêu thường dân,
đã bị hy sinh trong “Chín năm làm một Điên Biên” này hay chăng? Cũng có
bao giờ người ta nghĩ lại chuyện ngày nay Trung Quốc muốn thao túng,
lũng đoạn lãnh đạo ở Hà Nội để dễ bề xâm phạm lãnh thổ Việt Nam chỉ là
quen một cái nếp mà những người lãnh đạo Việt Minh đã mở ra từ hồi đó
cho những bậc quan thầy xã hội chủ nghĩa “trước là đồng chí sau là anh
em” hay chăng?
Trong cuộc chiến tranh “giải phóng miền nam” từ 1960 đến 1975, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng quốc phòng của những năm đó, có đúng là
người đã kiến trúc toàn bộ chiến thắng này như nhiều người vẫn nói một
cách mơ hồ chăng? Trước hết, khi thấy rằng đây là một cuộc chiến vô ích
về mặt lịch sử, có bản chất xâm lược của một bên tham vọng, hiếu chiến
hay cùng quẫn… Võ Nguyên Giáp chịu trách nhiệm đến chừng mực nào trong
quyết định dấy lên cuộc chiến này? “Dường như” ông Võ Nguyên Giáp, người
Quảng Bình, chỉ quen với trận mạc ở phía bắc, không biết gì chiến
trường phía nam (các yếu tố thiên, địa, nhân) chưa hề đặt chân một lần
đến bất cứ nơi nào bên kia vĩ tuyến 17 trước năm 1975? Một nhà chiến
lược quân sự với hiểu biết như thế thực sự dám quyết định gì? Bằng chứng
là ông ta tưởng rằng có thể biến Khê Sanh 1968 thành một Điện Biên Phủ
1953, cho dù địa thế hai nơi khác nhau (một đồi núi, một lòng chảo) và
Mỹ cũng rất khác Pháp. Người ta đều biết trong cuộc chiến tranh của Hà
Nội ở miền nam, lãnh đạo và chủ trương dốc lòng đánh là Lê Duẩn, tổ chức
chiến trường là Lê Đức Thọ, điều khiển chiến trận cho đến khi chết năm
1967 là Tướng Nguyễn Chí Thanh. Ngay cả trong quyết định tổng tấn công
Mậu Thân, từ yêu cầu của tướng Thanh vì lo sợ sự can thiệp ngày càng
mạnh của Mỹ sẽ làm cho quân miền bắc và lực lượng Mặt trận ngày càng
núng thế, cũng khó được xem là của Võ Nguyên Giáp. Về mặt quân sự, rõ
rệt cuộc tổng tấn công này là một thất bại nặng nề và càng làm sáng danh
người lãnh đạo Cộng Sản xem sinh mạng của người lính và người dân như
cỏ rác. Ảo tưởng cuộc tổng tấn công này “một lần rồi xong”, người dân
miền nam sẽ vùng dậy lật đổ “ngụy quyền tay sai” là của “Gia Cát Lượng
Việt Nam” nào? Trong cuốn “Đại thằng Mùa Xuân”, tướng Văn Tiến Dũng đã
chỉ rõ Võ Nguyên Giáp có đúng là người chỉ huy quân sự của chiến dịch
này hay chăng? Và cả loạt hồi ký của Võ Nguyên Giáp (Những năm tháng
không thể nào quên, Chiến đấu trong vòng vây, Điểm hẹn lịch sử, Đường
tới Điện Biên Phủ), một “hồi ức” do một ông Hữu Mai nào đó “thể hiện”,
cũng chỉ tập trung vào chiến thắng Điện Biên Phủ mà không đá động gì đến
cuộc chiến tranh ở miền nam sau đó.
Nhưng điều mà sau khi chiến tranh chấm dứt, người ta hay nói về Võ
Nguyên Giáp chính là cái dũng khí thiếu vắng nơi con nhà tướng của ông.
Người ta từng có nhiều ảo tưởng, và do đó có nhiều mong đợi ở Võ Nguyên
Giáp. Người ta nói ông là người hầu như duy nhất “có tây học” trong số
những người lãnh đạo của Việt Minh, cho nên có kiến thức và lý luận của
người phương tây. Ông đã từng dạy sử, đã từng rao giảng về hai cuộc cách
mạng 1789 của Pháp và Cách mạng tháng mười của Nga, cho nên phải hiểu
đôi điều về nhu cầu dân chủ, tự do của con người, cũng như sự bình đẳng
giai cấp có tính Mác-xít. Và ông là một võ tướng, cho nên hẳn phải thừa
con tim (dũng khí) để nói lên điều mình tin và đấu tranh cho điều mình
tin. Ông phải dám làm một điều mà thời đó người ta đều sợ: “Yêu ai cứ
bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét. Dù ai ngon ngọt nuông chiều cũng
không bảo yêu thành ghét, dù ai cầm dao dọa giết cũng không bảo ghét
thành yêu”. Thế nhưng khi nhìn lại bao nhiêu giai đoạn lịch sử của Việt
Nam, ông nổi lên như một người khéo câm nín!
Chính vì uy tín của “người hùng Điện Biên”
mà Hà Nội đã đưa ông ra tạ lỗi trong vụ cải cách ruộng đất sai lầm năm
1958. Nhưng ông chỉ dám nói lầm, không dám nói sai. Ông im lặng trong vụ
án Nhân văn Giai phẩm. Sau Đại hội đảng lần thứ 3, Lê Duẩn lên làm bí
thư thứ nhất, hợp với Lê Đức Thọ đánh Võ Nguyên Giáp tơi tả trong biết
bao vụ. Ông Hồ Chí Minh chẳng che chắn được gì mấy cho Giáp – như trong
vụ dựng chuyện Võ Nguyên Giáp lui tới riêng với sứ quán Liên Xô. Ông Võ
Nguyên Giáp ngồi yên khi bao tay em thân Liên Xô bị thanh trừng bởi thế
lực “Mao-ít” trong đảng trong hai đợt 1962 và 1968. Về sau, để an thân,
Võ Nguyên Giáp có khuynh hướng thân Bắc Kinh và giữ khoảng cách với Mạc
Tư Khoa, cho nên khi Việt Nam và Trung Quốc nối lại bang giao vào năm
1990, Giáp là một trong ba nhân vật được Trung Nam Hải chỉ định cho qua
Bắc Kinh nói lời xin lỗi.
Năm 1975, chiến tranh Việt Nam kết thúc, và hầu như cũng kết thúc chính
thức sự nghiệp của Võ Nguyên Giáp. Lúc đó ông chỉ mới 64, vừa “đánh
thắng xong đế quốc Mỹ” nhưng nhanh chóng được chỗ ngồi chơi xơi nước.
Trong hai ba thập niên sau năm 1975 đó, Việt Nam đứng trước bao thử
thách, nan đề, về đối ngoại (làm sao hội nhập với thế giới, quan hệ với
Liên Xô và Trung Quốc phải như thế nào) cũng như đối nội (những vấn đề
thực tiễn của xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc và cải tạo xã hội chủ
nghĩa ở miền nam) - ông Giáp hoàn toàn im lặng. Trong vụ chinh phạt
Campuchia năm 1979 và chống lại Bắc Kinh – ông Giáp im lặng. Trong quá
trình tìm kiếm con đường đổi mới để tránh chuyện xuống bờ vực, ông Giáp
cũng im lặng. Ông cứ làm mình như một thứ đồ cổ bỏ trong viện bảo tàng
để cho du khách tới ngắm. Cho nên ông rất sẵn sàng khoác nhanh vào người
bộ lễ phục. Cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch và Ủy viên Bộ Chính trị
Trần Xuân Bách còn dám chống Trung Quốc. Tướng Trần Độ còn dám lên tiếng
phê phán sự thoái hóa chính trị và xã hội của đất nước. Ông Giáp thì
vẫn im lặng là vàng. Như thế mà cách đây cả 20 năm, những kẻ thù của ông
còn dựng chuyện “Năm Châu, Sáu Sứ” nhằm nhận chìm ông sâu hơn nữa.
Nghe nói ông Ngoại trưởng Pháp còn hỉ mũi chưa sạch Laurent Fabius
khi Pháp rút ra khỏi Đông Dương còn cao hứng nói Võ Nguyên Giáp là một
nhà đại ái quốc. Một nhà ái quốc không dám sống cho mình (những gì ông
có thể tin là đúng, là tốt cho đất nước) cho nên chẳng có mấy dũng khí.
Hay sống quá vì mình cho nên cũng chẳng có dũng khí.
Dĩ nhiên, trước cái chết của Võ Nguyên Giáp, sẽ có những người bỗng
dưng thấy tự hào mình là người Việt. Nhưng chắc chắn nếu suy nghĩ kỹ
lại, phải có người thấy nực cười và kinh ngạc trước sự dễ dãi, tào lao đến ngu xuẩn của công luận cả thế giới! Nếu không nghĩ rằng tất cả chỉ là một tấn kịch đã lỡ và ngôn ngữ của kịch mà thôi![HNN]
HOÀNG NGỌC NGUYÊN
Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!
.
.
0 comments:
Post a Comment