Nhìn
vào độ chiếm sóng của phim Trung Quốc trên các đài truyền hình ở Việt
Nam, nhiều người lo ngại về khả năng Việt Nam bị “đồng hóa” bởi anh bạn
láng giềng. Khả năng đó có thật, và nó là biểu hiện của một hình thức bá
quyền tinh vi: bá quyền văn hóa - một phần quan trọng trong chính sách
bá quyền của nước lớn, một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ.
]
Tháng
3-1987, Bộ Phát thanh - Truyền hình Trung Quốc triệu tập một hội nghị
gồm đại diện của tất cả các đơn vị sản xuất truyền hình khắp cả nước.
Tại đây, Bộ cảnh báo về xu hướng "giải trí hóa" phim ảnh trên sóng
truyền hình, đồng thời đưa ra chính sách mới: tích cực, chủ động dồn lực
sản xuất những bộ phim "giai điệu chủ" nhằm mục đích truyền bá lịch sử,
văn hóa, tư tưởng và thẩm mỹ của Trung Hoa tới mỗi người dân Trung Quốc
và thế giới.
Chính
sách này phân loại phim truyền hình thành một số thể loại chính, nằm
trong một khái niệm chung mà Chủ tịch Giang Trạch Dân gọi là "giai điệu
chủ":
- Dòng phim về những đề tài mang tính thực tiễn, ca ngợi người tốt việc tốt - gọi chung là phim "thần tượng tuổi trẻ";
- Dòng
phim cổ trang, gồm phim lịch sử ("Tam Quốc Diễn Nghĩa", "Vương triều
Ung Chính", "Khang Hy", "Thái Bình Thiên Quốc"…), dã sử ("Tể tướng Lưu
Gù", "Hoàn Châu Cách Cách"...)
- Dòng phim gia tộc luân lý ("Mùa quít chín", "Gia tộc Kim Phần"…)
- Dòng
phim cách mạng, dựng lại ngữ cảnh thời xưa ("Khát vọng", "Câu chuyện
Thượng Hải"…) hoặc tái hiện chân dung những nhân vật nổi tiếng (Tôn
Trung Sơn, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình…)
- Dòng phim hình sự, chống tham nhũng ("Xứng danh anh hùng", "Khống chế tuyệt đối"…)
Những phim này được Nhà nước hỗ trợ nhiều mặt, chẳng hạn ưu tiên chiếu ở các đài địa phương lớn vào giờ vàng.
Đặc
biệt, chúng nằm trong kế hoạch tuyên truyền của Nhà nước: Tất cả các
phim, chỉ trừ dòng hình sự, chống tham nhũng, đều được hỗ trợ xuất khẩu,
nhằm mục đích cao nhất là phổ biến "giá trị Trung Hoa" tới các quốc gia
trong khu vực.
Trong
số những nước mà Trung Quốc hướng tới, Việt Nam nổi lên như một tiền
đồn, bởi "đây là nước Đông Nam Á duy nhất chịu ảnh hưởng của văn hóa
Trung Quốc thay vì văn hóa Ấn Độ", như lời tác giả Hạo Kiện viết trong
cuốn "Phim truyền hình Trung Quốc - nghiên cứu văn hóa và nghiên cứu
loại hình" (NXB Điện ảnh Trung Quốc, 2008).
Phần
lớn các phim "giai điệu chủ" đã được giới thiệu ở Việt Nam, khán giả
nước ta chẳng xa lạ gì với chúng. Các phim đều được xuất khấu với giá
hết sức ưu đãi sang Việt Nam, thậm chí một số phim cho không (như "Khát
vọng", "Tây du ký", "Vương triều Ung Chính") theo thỏa thuận hợp tác
giữa các đài truyền hình hai nước.
Ồ ạt "xâm lăng văn hóa"
Song
song với việc xuất khẩu các sản phẩm văn hóa, nhất là phim truyền hình,
sang các nước trong khu vực mà đặc biệt là Việt Nam, Trung Quốc cũng
tiến hành "Trung Hoa hóa" các sản phẩm của những nước này.
Bất
chấp việc giới truyền thông Việt Nam đưa tin đậm về những phim hợp tác
giữa hai nước như "Hà Nội Hà Nội" hay "Nguyễn Ái Quốc ở Hong Kong", các
bộ phim này chưa bao giờ được ưu tiên chiếu giờ vàng trên sóng truyền
hình của bất cứ đài nào ở Trung Quốc. Ví dụ, "Hà Nội Hà Nội" chỉ được
phát trên đài tỉnh Quảng Tây, Nam Ninh vào lúc… đêm khuya thanh vắng.
Với
nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình nổi tiếng đến từ các nước khác,
Trung Quốc thực hiện làm mờ tính nước ngoài của chúng. "Vua Kungfu"
(Forbidden Kingdom) dù là phim của Mỹ và từ đạo diễn đến quay phim, phục
trang đều là người Mỹ, nhưng khi đến đại lục, phim mặc nhiên được giới
truyền thông nhào nặn thành sản phẩm Trung Hoa.
Lý Mỹ Kỳ (Maggie Q), mẹ là người Việt, cha mang quốc tịch Mỹ,
sinh tại Hawaii, nhưng vẫn bị đa số khán giả Trung Quốc nghĩ là người Hoa
Các
ngôi sao châu Á của Hollywood cũng bị "Trung Hoa hóa" tương tự. Khán
giả Trung Quốc nói riêng và châu Á nói chung dễ lầm tưởng rằng Dương Tử
Quỳnh, Maggie Q. (Lý Mỹ Kỳ - mẹ là người Việt Nam) là người đại lục.
Trung
Quốc cũng khéo léo lờ đi chuyện quốc tịch của nhiều diễn viên nổi tiếng
trong nước họ: Hầu như rất ít người biết rằng ngôi sao Trương Thiết Lâm
mang quốc tịch Anh, Tư Cầm Cao Oa là người Thụy Sĩ, Ninh Tĩnh là người
Pháp, còn mỹ nhân Chương Tử Di gốc gác Hong Kong.
Đằng sau chiến lược xuất khẩu văn hóa của Trung Quốc
Một
nước lớn với dân số hùng hậu như Trung Quốc khó mà chấp nhận tầm ảnh
hưởng ít ỏi ở thế giới. Và trên con đường "trỗi dậy hòa bình" để trở
thành bá quyền ít nhất là trong khu vực, Trung Quốc mau chóng nhận thấy
sức mạnh của văn hóa - thứ "quyền lực mềm" đầy quyến rũ.
Chẳng
riêng Trung Quốc biết điều đó. Như một nhà nghiên cứu người Hungary,
Márkus Péter, đã viết: Trong lịch sử quan hệ quốc tế, thoạt tiên, khi
không có sự khác biệt đáng kể trong kỹ thuật, sức mạnh chân tay - quân
sự thô kệch còn chiếm vai trò chế ngự. Thế kỷ 16-19, những mối quan hệ
kỹ thuật - kinh tế từng bước chiếm ưu thế. Từ thế kỷ 20, văn hóa và
truyền thông bắt đầu lên ngôi.
Bên
cạnh kinh tế và quân sự, các quốc gia sẽ thực hiện cả tham vọng gây ảnh
hưởng và lấn át các nước khác trên bình diện văn hóa, tư tưởng. Sau
Chiến tranh Lạnh, ở châu Âu, bên cạnh ngoại giao về chính trị và kinh
tế, thì ngoại giao văn hóa ngày càng nở rộ, và dần dần sẽ trở thành hình
thức bá quyền chủ yếu.
Pháp
và Đức là hai quốc gia rất chú trọng tới vấn đề "bá quyền văn hóa" này.
Các hoạt động “xuất khẩu văn hóa” của họ được tiến hành mạnh mẽ. Chúng
ta có thể dễ dàng nhận thấy điều đó ngay tại Việt Nam: Chương trình hoạt
động thường niên của Trung tâm Văn hóa Pháp (L’Espace) và Viện Goethe
sôi nổi hơn hẳn so với Hội đồng Anh (British Council) hay Viện Cervantes
của Tây Ban Nha.
Và
đến đây thì chúng ta cũng có thể nhận thấy những hình thức ngoại giao
văn hóa mà Trung Quốc đang tiến hành đối với Việt Nam, trong nhiều ví dụ
thực tế. Phim truyền hình Trung Quốc chiếm sóng các đài ở Việt Nam, cả
trung ương lẫn địa phương. Khán giả thuộc sử Trung Quốc hơn sử Việt Nam.
Các ca sĩ thời thượng rành rẽ về trang phục của đời Thanh và chắc chắn
là sẽ không trả lời được câu hỏi vua chúa nhà Nguyễn ngày xưa ăn mặc như
thế nào.
Ngay
trong giới trí thức, tâm lý sùng bái văn hóa Trung Hoa đã rất nặng. Một
số đông trí thức Việt Nam có thể dễ dàng trích dẫn các điển tích, điển
cố của Trung Hoa thay vì của phương Tây hay thậm chí của chính nước
mình. Nói tới văn hóa Trung Hoa là nói tới một nền văn học với những tác
phẩm vĩ đại, tới triết học thâm sâu, tới sân khấu kinh kịch có sức sống
trường tồn, tới điện ảnh với những nhân tài mà ngay cả Hollywood cũng
phải kiêng nể.
Điều
này không sai, tuy nhiên, cái đáng nói ở đây là nhiều trí thức Việt Nam
luôn vị nể quá mức thay vì đặt văn hóa Trung Hoa vào tương quan đúng
mực với các nền văn hóa khác trên thế giới - cũng rực rỡ và vĩ đại như
thế.
Khái
niệm bá quyền văn hóa - tư tưởng mãi tới thập niên 30 của thế kỷ 20 mới
ra đời. Trên thực tế, Trung Quốc đã thực hiện bá quyền văn hóa - tư
tưởng với láng giềng Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua. Ngày nay, với sự
phát triển của truyền thông, dường như cuộc "xâm lăng văn hóa" này diễn
ra một cách mạnh mẽ và rõ ràng hơn bao giờ hết.
Hai thủ tướng chứng kiến lễ ký các văn kiện quan trọng,
gồm cả thỏa thuận thành lập Học viện Khổng Tử tại Việt Nam.
Vấn đề đến từ phía những kẻ bị “xâm lăng”
Bá
quyền không đơn thuần là sức mạnh bạo lực, vì vậy, để có được bá quyền,
không thể thiếu được cách cư xử mang tính đồng thuận, chấp nhận và góp
phần của những kẻ bị bá quyền.
Riêng
trên địa hạt văn hóa - tư tưởng, các học giả nghiên cứu về bá quyền văn
hóa đều cho rằng bá quyền văn hóa, nếu được thực hiện, không thể thiếu
sự đồng thuận một phần hoặc toàn thể của kẻ bị bá quyền.
Như
thế, việc Trung Quốc tiến hành bá quyền văn hóa thành công còn phụ
thuộc cả vào cách cư xử của nước bị bá quyền, ở đây là Việt Nam.
Điều
đó nghĩa là Việt Nam cần có thái độ và ứng xử phù hợp. Chẳng hạn, nên
có sự trao đổi văn hóa song phương với Trung Quốc một cách tương xứng.
Việt
Nam có thể thỏa thuận các chương trình trao đổi văn hóa với Trung Quốc,
theo đó, đồng thời với việc nhập khẩu các sản phẩm văn hóa của nước
láng giềng, Việt Nam sẽ xuất khẩu văn hóa theo hướng ngược lại, xuất bản
sách, tổ chức những ngày văn hóa, tuần văn hóa Việt Nam... tại Trung
Quốc.
Theo
một thống kê được công bố trên tờ "China Daily", năm 2004, Trung Quốc
nhập khẩu 4.000 đầu sách từ Mỹ, nhưng chỉ xuất khẩu 14 đầu sách sang
nước này; nhập 2.000 đầu sách từ Anh, nhưng chỉ xuất sang đây 16 đầu
sách.
Từ
năm 1999 đến năm 2002, hơn 280 đoàn nghệ thuật Nga biểu diễn ở Trung
Quốc, trong khi chỉ có 30 đoàn nghệ thuật Trung Quốc sang biểu diễn tại
Nga. Giai đoạn 2000-2004, Trung Quốc nhập khẩu trên 4.000 phim và chương
trình truyền hình, nhưng xuất khẩu không đáng kể. Dòng phim "giai điệu
chủ" hầu hết chỉ tiêu thụ được ở khu vực Đông Nam Á mà trong đó Việt Nam
là "tiền đồn".
Đã
đành Nga, Mỹ và Anh là ba nước lớn nên Trung Quốc không dễ tiến hành bá
quyền văn hóa như với Việt Nam. Nhưng ngay cả một quốc gia nhỏ bé ở
Đông Âu là Hungary - diện tích chỉ bằng một phần ba Việt Nam, dân số 10
triệu - thì cũng từng tổ chức Năm Văn hóa Hungary tại Trung Quốc
(2007-2008), và dựng tượng đại thi hào dân tộc Petőfi Sándor ở Thượng
Hải.
Những thông tin này có gợi cho chúng ta một suy nghĩ gì chăng?
Đoan Trang
0 comments:
Post a Comment