Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa
Saturday, 11 May 2013
Chuyện Những Năm ấy, Chuyện Từ Ngày ấy
Saturday, May 11, 2013
No comments
Việt Nam Cộng Sản Năm Thứ 39
(Lịch VNCS: Ngày 1 tháng năm 1975 = mồng 1 tháng 1 năm Cộng sản 1)
Kỳ 1: Chuyện Những Năm ấy, Chuyện Từ Ngày ấy
1. 30 tháng Tư 2013, ngày cuối năm, Việt Nam Cộng sản thứ 38, dỡ chồng báo cũ
30 tháng Tư 1975,
dư luận thế giới dân chúng Huê kỳ đã đành, cộng đồng Tây phương cũng
thế, đều thở phào, vui mừng, nhẹ nhàng nghĩ rằng từ nay, mình hết trách
nhiệm, làm như chiến tranh Việt Nam là một gánh nặng cho lương tâm họ,
vì kể từ ngày ấy chiến tranh Việt Nam ngưng hẳn tiếng súng, thiên hạ
trên thế giới vui mừng reo hò cho rằng hòa bình sẽ nở rộ trên đất nước
Việt Nam. Dân chúng phương Tây, từ Âu qua đến Mỹ, từ những nhà chánh trị
lỗi lạc đến thường dân đếu một dạ thở phào nhẹ nhỏm tự kháu nhau :
thôi từ nay, sẽ hết rồi, sẽ không còn nữa, sẽ không thấy nữa, những
hình ảnh chiến sự Việt Nam trên những màn hình TV làm bận trí mỗi bửa
cơm trưa, mỗi bửa cơm tối của gia đình. Thôi hết rồi, từ nay sẽ không
còn thấy những hình ảnh loại cô bé Kim Cúc trần truồng, vừa khóc vừa
chạy trên con lộ chiến tranh, hay hình ảnh Thiếu tướng Loan
xử bắn tên Việt Cộng … Đây, chúng tôi hạn chế, chỉ nói đến hai tấm
hình được giải thưởng báo chí thôi ! Chúng tôi sẽ không dám và chưa kể
những hình ảnh của những cảnh dội bom napalm, những hình ảnh rất mỹ
thuật chụp bóng đen những đoàn trực thăng UH1 bay trên nền trời rực đỏ
của hoàng hôn hay bình mình – cách trình bày đoàn trực thăng bay đen
trên nền trời đỏ ví như một bầy quạ đen – rất mỹ thuật ấy đã tạo những
ấn tượng rất « chống chiến tranh » của ngành truyền thông báo chí âu mỹ.
Sau nầy, cả ngành điện ảnh Huê kỳ cũng lạm dụng những hình ảnh như
vậy để « đả phá chiến tranh Việt Nam nhìn từ phía Huê kỳ và Tây
phương » : Bộ phim Apocalypse Now – với những hình ảnh đầy biểu tượng
tiêu cực « chống chiến tranh » như đoàn trực thăng, với tiếng cánh quạt
xé gió và bản nhạc Walkyries của Richard Wagner, hay bộ phim Full Metal
Jacket với những cảnh ngô nghê, kịch cợm, mạ lỵ quân đội trong quân
trường Thủy quân Lục chiến Huê kỳ, hay đoạn đánh nhau ở Huế – tả cảnh
chỉ một cô du kích trẻ Việt Cộng mà cầm châm cả một toán Thủy quân Lục
chiến Mỹ.
Thật đúng vậy, chính giới truyền thông báo chí Mỹ và phương Tây đã đánh bại quân đội đồng minh và quân lực Việt Nam Cộng Hòa !
Nhưng
tất cả thế giới đều bị lầm, tất cả thế giới đều bị gạt. Chỉ trong vòng
vài nay sau, cả thế giới ngã ngữa ra mới biết rằng bị thằng bé con Việt
Cộng với bộ máy tuyên truyền Komintern – Cộng sản quốc tế lường gạt.
Nhưng cũng có một điều rất lạ là người Tây phương tuy bị gạt họ vẫn tiếp
tục có một cái nhìn rất bất công đối với chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Ấy
cũng do tàng tích của bộ máy tuyên truyền « thân Cộng Tây phương » dựng
lên một huyền thoại bất công xuất phát bởi giới truyền thông phái tả
âu châu.
2. Một huyền thoại bất công : Phái hữu tư bản, thủ cựu vs Phái tả xã hội cấp tiến
Ôi
sức mạnh của báo chí, ôi sức mạnh của tuyên truyền của thông tin. Từ
sau Thế chiến 2, bổng nhiên có một phong trào, như một con bệnh, một con
rắn độc, một con virus, một nọc độc, một bệnh truyền nhiểm, đưa những
giòng suy nghĩ, tạo một giòng tư tưởng, một não trạng mới, « gọi là
phái tả – theo một định nghĩa dùng ở xứ Pháp » đầu độc gìới truyền
thông trí thức âu châu. Sau Thế chiến 2 những danh từ như Dân tộc, như
Quốc gia biến thành những danh từ, những thành kiến… ghê tởm, nghe rợn
tóc gáy. Chỉ vì ác quỷ Hitler ra lý thuyết Quốc gia – Xã hội ( National –
Socialisme, gọi tắt là Nazisme) nên những phong trào, những tư tưởng
thiên Quốc gia Dân tộc đều bị đánh giá là tiêu cực, là thủ cựu. Mà cũng
lạ, National Dân tộc là thiên hữu là tiêu cực, nhưng socialisme lại là
thiên tả là tích cực ! Nhưng tại sao một thái độ chánh trị hay kinh tế
bảo tổn văn hóa dân tộc, bảo tồn những giá trị lịch sử, những giá trị
thủ cựu là một thái độ tiêu cực ? Và bổng nhiên thiên hạ, dư luận
toàn thế giới không hẹn mà đều đi đến kết luận, đánh giá là làn sóng
chánh trị phái hữu với tinh thần bảo tồn, bảo vệ tinh thần dân tộc là
tiêu cực và thủ cựu, Và phe Công sản chủ nghĩa, phe xã hội chủ nghĩa,
phe phái tả, tự nhiên được hưởng, được đánh giá một cách chắc chấn là
« cấp tiến », là văn mình, là thông thoáng, cởi mở. Một cách tự nhiên,
phe xã hội, phe cấp tiến là phe yêu chuông quốc tế, và vì là một phong
trào quốc tế – internationalisme !
Và vì cả thiên hạ thế giới hiểu lầm
như vậy nên khi những người dân Việt Nam chúng ta lựa chọn một đất nước
lấy tên Quốc gia Việt Nam, với một nền chánh trị và một hướng chánh trị
đứng phía bảo vệ một nền văn hóa cổ truyền, một nền luân lý có nguồn
có gốc, có lịch sử do tổ tiên và cha ông ta truyền lại, vá với một nền
đạo đức tử tể , chúng ta bổng nhiên ở phía wrong side, sai quấy !
Khi Quốc gia Việt Nam ra đời, chúng ta mặc dù được một số quốc gia tiên
tiến trên thế giới nhìn nhận, chế độ chúng ta vẫn bị một nhóm trí thức
tự cho mình là cấp tiến và một nhóm truyền thông báo chí cấp tiến
« không tán thành ủng hộ ». Quốc gia Việt Nam ra đời sau một văn kiện
ngoại giao quốc tế, với những ký kết bang giao quốc tế vẫn bị đã phá !
Trái lại nhóm cướp chánh quyền, tự xưng, tự biên, tự diễn, không kèn
không trống, dùng khủng bố để trị dân, dùng đấu tố để cầm quyền, chận
sông cấm chợ lại được nhóm tuyên truyền quốc tế Komintern ủng hộ.
Sau
khi đất nước bị chia đội, khi quân đội đồng minh do Huê kỳ lãnh đạo đến
với Việt Nam Cộng Hòa, để giúp chúng ta xây dựng một nền dân chủ tiên
tiến kiểu tây phương, một nền kinh tế thị trường kiểu tư bản, giúp
chúng ta xây dựng và bảo tồn một nền văn hóa dân tộc cổ truyền đạo Việt,
biết trọng Đạo Trời biết Ơn Đất Nước, biết cầu biết nguyện chư tôn chư
giáo, biết nhường trên nhịn dưới tôn ti trật tự, biết Ơn Cha quý Nghĩa
Mẹ, biết thờ Ông bà cúng Tổ Tiến. Họ giúp chúng ta có quân đội, có vũ
khí để giữ nhà giữ cửa giữ vững giang san bờ cỏi miền Nam, và giúp chúng
ta Chống Cộng, trang bị huấn luyện quân đội chúng ta … đồng bị ( cả
thế giới đồng loạt) nhóm tuyên truyền, thông tin thế giới tố cáo như
những đoàn quân đi xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam, và chúng ta, dân chúng
miền Nam Việt Nam là một nạn nhơn ! Trái lại, Quân đội Cộng sản, khi
đánh giặc thì dùng chiến thuật biển người, thí chốt, thí quân ; khi
thắng trận, thì dùng khủng bố, đấu tố khát máu để trừng trị dân vùng bị
chiếm đóng(không người Việt miền Nam nào không quên 5 000 nạn nhơn vô
tội bị thàm sát vào Tết Mậu Thân ở Huế) nhưng khi phải chiếm đóng thì
dùng cướp bóc, dùng tịch thu, dùng quốc hữu tài sản, kiểm kê tài sản,
dùng cải cách ruộng đất bằng đấu bằng tố để san bằng thanh toán những kẻ
những người có tý tư hữu…quân đội nhơn dân Cộng sản đi đến đâu cũng
sống với dân, ăn bám vào dân, và buộc dân phải nuôi quân mình….
Quý
vị thử so sánh : trong các quân đội Cộng sản, từ quân đội Hồng quân
Liên Sô, qua đến quân đội Nhân dân Trung Cộng, và quân đội Việt Cộng có
tuyền thống đem theo một Bệnh viện dã chiến để chửa bệnh cho dân, và cứu
trợ nạn nhơn chiến tranh, như truyền thống quân đội Huê kỳ hay quân đội
các đồng minh Huê Kỳ ở Việt Nam thời ấy, ( từ Đại Hàn, đến Úc Châu, Tân
Tây Lan, Phi, hay Thái) không ? Khi đi hành quân, khi đến chiếm đóng,
kiểm soát một vùng lạ, có một chương trình nhơn đạo, loại cứu trợ hay
chửa bệnh , chích ngừa cho dân trong vùng không ? Quân Cộng sản, vì là
quân đội nhân dân, ăn với dân , ngủ với dân, đi đến đâu buộc người dân ở
đấy phải nuôi quân, quân đội ở nhà dân, quân đội ngủ nhà dân, nào là mẹ
nuôi, nào là em nuôi, chị nuôi, và nếu cần cả hộ lý nữa, nghĩa là quân
đội có quyền « sung công, quốc hữu cả VỢ dân, Vợ người, bất kể ĐỊCH hay BẠN.
Thế mà phe chúng ta vẫn bị mang tiếng là quân xâm chiếm.
Thật là Bất công ! Tuyên truyền đã bất công mà quảng bà cũng bất công.
3. Quảng bá bất công : Hình ảnh Chiến tranh vs Hình ảnh tỵ nạn
Càng bất công hơn nữa là trong cách thức quảng bá các hình ảnh, các phóng sự: không một hình ảnh nào tả những cuộc tỵ nạn, lánh nạn Cộng sản, được nhận giải thưởng. Những
hình ảnh tơi tả của những đoàn người dân miền Nam Việt Nam, chúng ta
vì quân đội ta thiếu tiếp tế, thiếu đạn, không giữ được căn cứ, phải
bắt buộc một cuộc chạy nạn chiến tranh và nạn Cộng sản trong máu lữa vì
pháo vi đạn của Cộng quân rồn rập bắn theo .( đại lộ kinh hoàng Quảng
Trị-Huế năm 1972, Cuộc Đông Du gian khổ trên quốc lộ 19 từ Pleiku về Qui nhơn, vượt Sông Ba tháng 3/năm 1975).
Thật đúng là « Một cuộc bỏ phiếu bằng chân
không tiền khoáng hậu trong lịch sử Việt Nam ! » – không nhớ tên nhà
báo nào đã đật tên cho những cuiộc chạy nạn Công sản vào những tháng 2,
3 và Tư năm 1975, có lẽ ? của nữ ký giả và nữ văn hào người Ý, Oriana Fallaci
(1929-2006) – người ký giả duy nhứt của thế giới truyền thông phương
Tây thời bây giờ, dám đặt rõ trách nhiệm chiến tranh cho cả Mỹ và quân
đội đồng minh (như tất cả các nhà báo tây phương khác) và cho cả Việt Cộng. Chúng tôi rất ngưởng mộ tài nghệ cố ký giả nầy, bà đã dám vạch mặt Islam cho bọn trí thức Tây phương hèn yếu.
Xin
các độc giả cố nhớ dùm xem có hình ảnh nào, có bài phóng sự nào, của
những cuộc di tản của những tháng ấy, của dân chúng miền Nam chúng ta,
nhận được một giải thưởng báo chí quốc tế nào không ? Mà các hình ảnh, các phóng sự tỵ nạn có kém chi các hình ảnh chiến tranh trước đó vài năm ?
Cũng hãi hùng có kém chi chiến tranh, cũng chết cũng chóc, cũng máu,
cũng lữa, có khác chi chiến tranh ? Nếu với chiến tranh có lữa cháy,
có bom rơi, có đạn réo, có người chết, có phá hoại, có tàn phá ; thì
hình ảnh những cảnh tỵ nạn, tuy không ồn ào bằng, tuy chỉ trong im
lặng, không có tiếng la không có tiếng rên không có tiếng khóc, vì
đoàn người tuyệt vọng đã khóc hết nước mắt, đã gào hết cả hơi. sức
đã tàn, thân đã kiệt … Hoặc giả có những hình ảnh về sau nầy, sau rất
lâu, lâu lắm, sau cả những ngày, sau cả những năm, sau cả những tháng
của ngày 30 thánh tư, những cảnh của những đoàn người lén lút ra đi,
vượt biên, vượt biển, thì cũng chẳng có bức hình chụp nào, và cũng chẳnh
một giải thưởng nào !!.
4. 30 tháng Tư 1975, thật đúng là Ngày Quốc Hận ! Vì đấy là dấu mốc đổi đời
Thật
tình mà nói, thân phân người dân trong khói lữa chiến tranh, hay trong
hỗn độn chạy nạn thì cũng như nhau, cũng trơ cũng trụi, cũng mình
trần, chân đất, cũng mất cũng mát. Nhưng trước ngày 30 tháng tư, trong
khói lữa chiến tranh, chạy nạn chiến tranh người dân còn nhiều hy
vọng, có thể mong đi đến trạm cứu trợ, gặp quân nhà, thương binh còn
mong gặp đồng đội, còn có xe quân nhà, còn có Hồng Thập Tự, có ý tá, có
bệnh viện, trực thăng, xe cấp cứu ….Nhưng trái lại đến lúc sau ngày ấy,
sau ngày 30 tháng tư 1975, khi vượt biển tỵ nạn, có khi bị hảm, có khi
bị hiếp, có khi bị cướp, có khi bị bỏ lại …hoặc khi bị chìm xuồng, bị
đắm tàu… Cũng có vài hình ảnh thuyền nhơn – boat people cũng đã để lại
vài dấu ấn, gây một tý ấn tượng, tạo một biểu tượng, một cảm xúc… như
hình ảnh một chiếc ghe đầy nhóc người trước khi được cứu ! Nhưng chiếc
hình ảnh đầy ấn tượng kia, gây một hình ảnh thương xót ấy trái lại là
một bức hình đầy sự vui mừng, tràn trề hy vọng ! Vì chiếc ghe, chiếc
thuyền nào được chụp hình là chiếc ghe, chiếc thuyền ấy đã đến bến an
toàn, sắp được cứu thoát, và những thuyền nhơn sẽ được cứu vớt, được tỵ
nạn, và ngày nay, các đàn con các đàn cháu thế hệ 2, thế hệ 3 đã nên
người, thành công. Nhưng còn những chiếc ghe, những chiếc thuyền không
được chụp hình ? không ai thấy không ai vớt ? …
Anh
đàn anh Giao Chỉ ở San José, tuần qua, đã cho đang lại bài viết năm
xưa với tựa đề : 30 tháng Tư năm 1975 Bác ở đâu ? Vì có một cháu đã nói
rằng 30 tháng tư năm ấy, cháu tuy chỉ mới 19 tuổi, đã có mặt tại
Nghĩa Trang Quân đội để chôn người yêu,người hôn phu của cháu vừa chết
trận vài ngày trước, và cháu ấy hỏi lại « Ngày ấy các Bác ở đâu ? » Và
ông anh Giao chỉ cũng buồn rầu, hối hận tự hỏi mình và bạn bè thế hệ
mình « Vậy thì các Bác ở đâu ngày ấy ? ».
Cháu
ơi, 30 tháng tư 1975 và những ngày tháng tiếp theo, và những năm tháng
tiếp theo, có rất nhiều, có cả bao nhiêu cháu, có cả bao nhiêu Bác, …
cũng phải chôn người yêu, chôn người thân, nhưng người yêu họ, người
thân họ, không còn anh hùng chết trận, không còn tử sĩ, không chết
trận ! Cháu à, chết trận là một vinh quang, mặc dù là một may rủi của
trai thời loạn, nhưng so sánh trong những cái chết của người Việt Nam
chúng ta lớn trong thời chiến, công tâm mà nói, làm trai chết trận, được
mang xác về, được phủ lá cờ vàng, và được
« lên lon giữa hai hàng nến rơi .. »
là một cái may mắn ! (hơn những người chết sau nầy) Vì khi ta chết
trận, ít ra, chúng ta còn được cái quyền tự vệ, đánh nhau với địch, ta
chậm tay, ta yếu thế, ta hết đạn, ta hết sức, ta thua, ta chết, chả có
chi tiếc cả, chả có chi buồn cả – buồn chăng là vợ con gia đình người
thân !
Những
ngày sau 30 tháng Tư, vào giờ thứ 25, hết đánh nhau rồi ; những ngày
mà thế giới, thiên hạ bảo là hòa bình rồi, gia đình thiên hạ lối xóm
cũng bảo là hòa bình rồi, mọi người trong nước cũng bảo là hòa bình rồi,
cả cái thằng thắng trận, nay nó là nhà nước, nay nó là nhà cầm quyền,
nó quản trị mình nó cũng bảo là hòa bình rồi không còn tiếng súng nữa,
và không còn chuyện chết chóc nữa. Và hết rồi không còn cái chuyện :
« … Tôi có người yêu, chết trận Plei Me, … vừa chết đêm qua …hay Đồng Xoài, Bình Giả ..
“Chết nghẹt ngào dọc theo biên giới … “ của một Trịnh Công Sơn phản chiến, trốn lính đau khổ sốt ruột, vì thấy bạn bè mình có « người yêu chết trận ».
Tại sao Trịnh Công Sơn hay một du ca phản chiến nào, không khóc cho những ai có những người yêu
“ Chết ở Biển Đông … chết ở Đảo hoang Pulau nào đó… hay bị hảm bị hiếp, trên những nẻo đường củng dọc theo biên giới.”
Ôi bất công ! Còn chưa kể những người yêu
“
Chết ở trại tù đày dọc theo biên giới, chết ở những Long Giao, Suối
Máu, Cổng trời, Hàm tân… Chết tại những T20, những Z30… và chôn nằm cạnh
nhau trên đồi Fanta ! ”
Không ai làm bài thơ không ai làm bài hát cho những người yêu đã chết nầy cả .
Tôi
vẫn không quên và cám ơn những nhạc sĩ đã khóc Hà Nội ngày xưa, khóc
Sài gòn ngày xưa. Hà nôi đẹp trong giấc mơ 36 phố phường, Hồ Gươm, Tháp
Rùa. Sài gòn nắng ấm, đường Tự Do Eden, La Pagode, Givral,… (Lạ nhỉ sau
nhớ Hà nội, nhớ cảnh nhớ phố nhớ phường, nhớ Sài gòn lại nhớ quán ăn,
quán nhậu, với bạn, với em. – và cái đặc biệt là những kỷ niệm ăn nhậu ở
Givral, La Pagode không bao giờ có ông Cụ bà Cụ, buổi cơm gia đình nào
cả ! Lạ thật có lẽ thế hệ ta quá bất hiếu không dám mời ông Cụ bà cụ
đấng sanh thành đi ăn kem Givral, hay uống trà la Pagode ? – Xin lỗi ba
mẹ con quá bất hiếu !)
Nhưng
tôi không bao giờ quên những hình ảnh dân chúng chen lấn hỗn loạn tranh
nhau tìm phương tiện hay những ngõ ngách để thoát hiểm : từ leo rào
vào Sứ quán Mỹ, đến chen chúc trú ngụ tại Bệnh Viện Grall, hy vọng được
núp bóng cái dù Pháp, qua đến những hình ảnh những đoàn người tỵ nạn,
trên đường số 9 từ Pleiku về Biển Đông, từ Huế xuôi Nam, hay những chiếc
đầu ngụp lặn lội ra biển để mong được các thuyền ghe cứu vớt…
Thay lời kết : 38 năm rồi vẫn chưa định nghĩa được ngày ấy
Cơn sóng gió tranh cải vẫn chưa nguôi. 38 năm đã qua rồi từ ngày 30 tháng tư năm 1975. Suốt tuần qua từ những polémics [luận chiến] nầy đến những polémics [bút chiến] khác.
Chúng tôi sẽ chia sẻ với quý vị tuần tới bài Kỳ 2.
Hồi Nhơn Sơn, 06/05/201
TS Phan Văn Song
Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!
.
.
0 comments:
Post a Comment