Và nhiều người đã nói công khai, nói trong cả một số cuộc hội thảo tại Sài Gòn. Chứ không phải là trong những buổi gặp gỡ ỏ tiệm cà phê hè phố. Trong giới trí thức đòi đa đảng đó, có rất nhiều quan chức cũ....
Thông tấn VietnamNet đã đăng bài viết tựa đề “Cạnh tranh để ngày càng trong sạch,” và đoạn khởi đầu bài viết là lời góp ý về Hiến pháp từ một cựu quan chức lớn:
“...Một đảng cầm quyền nên chấp nhận cạnh tranh, chính là chấp nhận sự tự rèn luyện để ngày càng trưởng thành, trong sạch và vững mạnh. Nhân dân sẽ giúp loại bỏ những phần tử suy thoái tư tưởng, thoái hóa biến chất, tham nhũng", nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Trần Quốc Thuận góp ý sửa Hiến pháp.”
Vấn đề rất minh bạch: cạnh tranh không thể có trong chế độ một đảng.
Những lời đó đưa ra trong một cuộc hội thảo lấy ý kiến dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 thực hiện vào ngày 1/2 tại Sài Gòn. Cơ quan thực hiện hội thảo có tên là Hội đồng tư vấn Dân chủ pháp luật (Ủy ban TƯ MTTQ Việt Nam).
VietnamNet cũng ghi rằng trong cuộc hội thảo, “luật sư Nguyễn Hữu Danh khẳng định: “Không thể nói Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội nếu nhân dân không trao quyền lãnh đạo Nhà nước cho đảng viên qua các cuộc bầu cử dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện theo điều 6 của dự thảo Hiến pháp này.” Nghĩa là gì? Chỉ có thể hiểu là phải để dân làm chủ, phải bầu cử dân chủ trực tiếp.
Nghĩa là, trí thức muốn có bầu cử dân chủ đa đảng, dù là bản tin VietnamNet đã khéo léo tránh các chữ nhạy cảm như “đa đảng, đa nguyên...”
Đặc biệt là lời góp ý của Luật sư Trần Quốc Thuận - nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội - được bản tin VietnamNet ghi là:
“... dự thảo đã có sự tiến bộ khi bổ sung quyền con người. Tuy nhiên, theo ông, dự thảo vẫn phản ánh sự áp đặt ý chí, quan niệm cũ về Hiến pháp, quan tâm nhiều đến sự ổn định chế độ hơn là tự do và hạnh phúc của nhân dân và một số điều khoản mang tính tuyên ngôn thiếu nội hàm cụ thể.
Theo ông Thuận, một đảng cầm quyền nên chấp nhận cạnh tranh, chính là chấp nhận sự tự rèn luyện để ngày càng trưởng thành, trong sạch và vững mạnh. Nhân dân sẽ giúp loại bỏ những phần tử “suy thoái tư tưởng, thoái hóa biến chất, tham nhũng”...”
Có thể hiểu khác gì hơn nữa: lòng dân đã muốn bầu cử trực tiếp, bầu cử dân chủ đa đảng... và trí thức chỉ là người nói lên ý nguyện đó.
Vấn đề là nhà nước Hà Nội có còn muốn biểu diễn quyền lực kiểu Kim Jong Un và Castro hay không thôi.
Vấn đề cũng còn là, kềm kẹp không còn bịt miệng trí thức được nữa.
-------
Bây giờ, theo mô hình ấy, chúng ta thử tìm hiểu các mâu thuẫn chính yếu tại Việt Nam hiện nay là gì.
Trước hết, tạm gác qua một bên những mâu thuẫn ở tầm thế giới. Cái gọi là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không còn là một vấn đề nữa. Thứ nhất, Việt Nam cũng không còn là nước xã hội chủ nghĩa. Bằng chủ trương “kinh tế thị trường”, chính quyền Việt Nam đã thập thò bắt tay với chủ nghĩa tư bản từ lâu rồi. Thứ hai, sức sống và sức mạnh của chính quyền Việt Nam hiện nay chủ yếu được xây dựng nhờ chủ nghĩa tư bản: tư bản mang vốn vào Việt Nam, đầu tư ở Việt Nam, hơn nữa, chính các quốc gia theo chủ nghĩa tư bản đang và sẽ đóng vai trò tích cực trong việc cứu nguy Việt Nam trong cuộc đương đầu với người anh em xã hội chủ nghĩa láng giềng “bốn tốt” của mình.
Những chuyện ấy, ai cũng biết, nên khỏi cần bàn.
Chúng ta chỉ nhìn vào tình hình trong nước.
Mâu thuẫn chính hiện nay là gì? Ngày trước, giới lãnh đạo luôn luôn nhấn mạnh: Đó là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Lâu nay, họ không lặp lại điều đó nữa. Lý do rất dễ hiểu: giới tư sản giàu và mạnh nhất ở Việt Nam hiện nay không ai khác hơn là những người đang cầm quyền. Nhưng khi cán bộ và đảng viên tự biến mình thành giai cấp tư sản mới, tách mình ra khỏi đại đa số quần chúng lao động nhem nhuốc nghèo khổ thì cái gọi là mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản ấy lại biến thành mâu thuẫn giữa đảng và dân chúng. Dĩ nhiên, ở đây vẫn có những khác biệt sâu sắc. Bình thường, tư sản chỉ có tiền. Bây giờ, giai cấp tư sản đỏ không những có tiền mà còn có quyền và quan trọng nhất, có súng và có cả một hệ thống quân đội cũng như công an hùng hậu để đàn áp thẳng tay bất cứ người nào chống đối lại họ, dù chống đối một cách chính đáng khi bị cướp nhà và cướp đất. Giới vô sản ngày trước chỉ bị bóc lột. Giới vô sản bây giờ thì vừa bị bóc lột vừa bị áp bức.
Nhưng mâu thuẫn giữa đảng và dân chúng không dừng lại ở phạm vi kinh tế. Nó còn bao gồm hầu như trong mọi lãnh vực, từ xã hội đến văn hóa và chính trị. Chỉ riêng trong lãnh vực chính trị, mâu thuẫn lớn nhất là ở thái độ đối với nguy cơ bị Trung Quốc xâm lược. Trong lúc dân chúng bừng bừng phẫn nộ, đảng vẫn dửng dưng. Không những dửng dưng, họ còn ra tay vu khống, nhục mạ và trấn áp bất cứ người nào xuống đường hay lên tiếng chống Trung Quốc. Suốt mấy năm vừa qua, đã có bao nhiêu phiên tòa xét xử và kết tội những người yêu nước. Những phiên tòa ấy được dựng lên để một mặt, trả thù những người dám, vì lòng yêu nước, lên tiếng chống Trung Quốc; mặt khác, để răn đe dân chúng. Nhưng việc làm ấy lại có những tác động ngược: nhà cầm quyền hiện hình, thứ nhất, trước mắt thế giới, như những tên độc tài tàn bạo; và thứ hai, trước nhân dân Việt Nam, như những kẻ đã bán mình cho Trung Quốc.
Nhà cầm quyền càng mạnh tay bao nhiêu, tác động ngược thứ hai nêu trên càng lớn bấy nhiêu. Nó càng lớn bao nhiêu, mâu thuẫn giữa đảng và dân chúng càng sâu sắc và khó hóa giải bấy nhiêu. Nhà cầm quyền muốn xoa dịu các mâu thuẫn đó bằng cách gia tăng các nỗ lực tuyên truyền; ngoài các hình thức tuyên truyền truyền thống, bây giờ còn thành lập lực lượng “dư luận viên” chuyên môn nhảy vào các website độc lập để đánh phá, xuyên tạc và bênh vực cho chế độ! Tuy nhiên, đó không phải là những biện pháp có tính chiến lược và hiệu quả.
Mâu thuẫn thứ hai ở Việt Nam bây giờ là mâu thuẫn giữa đảng và chính phủ. Trước, đảng Cộng sản và chính phủ là một. Đúng hơn, chính phủ lúc nào cũng nằm trong tay đảng, chịu sự sai khiến của đảng. Từ thời Lê Duẩn đến Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, thậm chí, thời Lê Khả Phiêu, đảng luôn luôn là kẻ quyết định mọi chuyện. Thủ tướng, ngay cả những thủ tướng có tâm và có tài, như Phạm Văn Đồng và Võ Văn Kiệt, cũng có quyền lực rất hạn chế. Nhưng từ thời Nông Đức Mạnh làm tổng bí thư, do kém năng lực, quyền hành cứ san sẻ dần sang tay thủ tướng. Đến thời Nguyễn Phú Trọng, từ đầu năm 2011, cán cân quyền lực rõ ràng nghiêng hẳn về phía Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Trong trận đấu kịch liệt giữa Nguyễn Phú Trọng – Trương Tấn Sang và Nguyễn Tấn Dũng vào cuối năm ngoái, ai cũng thấy Nguyễn Tấn Dũng chiếm thế thượng phong. Nhóm Nguyễn Phú Trọng – Trương Tấn Sang, để củng cố thêm thế lực, đã cho tái lập Ban Nội chính Trung ương và giao cho Nguyễn Bá Thanh, một người từ lâu, ở Đà Nẵng, nổi tiếng dám nói dám làm. Bây giờ bên đảng sẽ có ba người, thay vì chỉ có hai như trước. Sau màn đánh phủ đầu Nguyễn Bá Thanh về vấn đề nhà đất ở Đà Nẵng trước khi ông ra Hà Nội tiếp nhận chức vụ mới của Nguyễn Tấn Dũng, mọi người đều tin những trận đấu sắp tới giữa hai phe sẽ càng ngày càng kịch liệt hơn nữa.
Điều cần chú ý là: việc người đứng đầu chính phủ mạnh hơn tổng bí thư đảng nên được xem là một dấu hiệu tích cực. Nhiều người lên tiếng chống lại Điều 4 trong Hiến pháp xem đảng là người duy nhất lãnh đạo đất nước, thường quên một điều: việc thắng thế của thủ tướng đối với tổng bí thư là một điều đáng mừng. Nó chứng tỏ, một, đảng đang yếu thế; và hai, chính phủ đang dần dần tạo được thế độc lập với cái đảng đang yếu thế ấy. Đó là một xu hướng tốt.
Điều nghịch lý là, vị thủ tướng đang ở thế mạnh hơn cả tổng bí thư, và không chừng cả Bộ Chính trị ấy, lại là người nổi tiếng, thứ nhất, về tham nhũng và lợi dụng quyền hành để cho con cái và thân nhân tham nhũng; thứ hai, bất lực trong việc điều hành kinh tế bằng những chính sách sai lầm và cả bằng việc dung dưỡng cho đàn em của mình tham nhũng. Hậu quả là hết tổng công ty này đến đại tập đoàn kia phá sản, để lại những gánh nặng khổng lồ cho dân chúng, không phải chỉ trong thế hệ này mà còn nhiều thế hệ kế tiếp. Thành ra, thế của ông càng mạnh bao nhiêu, tài sản quốc gia càng kiệt quệ bấy nhiêu.
Đối diện với nghịch lý ấy, người dân không khỏi băn khoăn: Bênh vực cho Nguyễn Phú Trọng – Trương Tấn Sang – Nguyễn Bá Thanh vì họ chống tham nhũng cũng có nghĩa là bênh vực cho những thế lực đang phục hồi lại quyền độc tôn của đảng, điều đã gây tai họa cho dân chúng từ gần 60 năm nay (tạm kể từ 1954, ở miền Bắc). Nhưng bênh vực cho Nguyễn Tấn Dũng, tuy, trên lý thuyết, sẽ giúp làm cho chính phủ mạnh hơn, có khả năng dần dần tạo nên những tiền đề tốt cho dân chủ thì lại cũng đồng nghĩa với việc ủng hộ tham nhũng.
Trong bài thơ “Đá ơi” sáng tác năm 1989 ở Campuchia, Nguyễn Duy có mấy câu thơ sau này thường được nhiều người nhắc nhở:
nghĩ cho cùng
mọi cuộc chiến tranh
phe nào thắng thì nhân dân đều bại
Mấy câu thơ ấy không phải lúc nào cũng đúng. Có rất nhiều cuộc chiến tranh, như các cuộc chiến tranh chống độc tài, nhân dân không hề bại. Tuy nhiên, trong tình hình chính trị Việt Nam hiện nay, câu thơ ấy có lẽ là đúng: Ông Lú thắng hay ông Ếch thắng thì nhân dân cũng đều bại cả.
0 comments:
Post a Comment