Lê Minh Úc
Trong khi chúng ta đang
chuẩn bị đón xuân sang thì trong nhà tù Việt Cộng có một người tù thầm lặng, hiện
đang mang bản án chung thân, phải chuẩn bị đón cái Tết thứ 20 trong ngục tù.
Ông là Trần Tư, nay đã 72
tuổi, một người tù chính trị thuộc Liên Đảng Cách Mạng Việt Nam, bị bắt năm
1993 với tội danh “âm mưu lật đổ chính quyền” và nhận bản án chung thân.
Trường hợp của ông Trần tư
là một trường hợp khá đặc biệt. Cũng giống như ông Lý Tống, ông Trần Tư đã vượt
biên, định cư tại Mỹ nhưng sau đó lại về Việt Nam hoạt động và bị cầm tù. Tuy
nhiên có sự khác biệt và kém may mắn ở chỗ là ông Trần Tư chỉ có thẻ thường trú
chứ chưa là công dân Hoa Kỳ, cho nên không nhận được sự giúp đỡ của lãnh sự Hoa
Kỳ.
Vài nét về ông Trần Tư
Ông Trần Tư người gốc Quảng
Bình, nhưng sinh trưởng tại Tân Mỹ, Thừa Thiên-Huế.
Học trường sinh ngữ quân đội
và năm 1966 ra trường với cấp bậc Hạ sĩ quan Thông dịch viên. Từ năm 1966 -
1973, ông lần lượt đóng quân tại các căn cứ Chu Lai, Cam Ranh, Đà Nẵng với chức
vụ Hạ sĩ quan Thông dịch viên cho Lực lượng Đặc biệt Mỹ. Từ 1973 đến tháng
4/1975, ông làm việc tại Hải quân Công xưởng với chức vụ trưởng kho 7.
Vượt biên và tỵ nạn ở Hoa Kỳ
Sau tháng 4/1975, ông bị bắt
đi tù cải tạo 2 năm tại Minh Hải. Ngay sau khi ra tù, ông đã tìm đường vượt biển
nhưng bất thành và bị bắt ở tù từ năm 1977 đến 1982.
Vài năm sau đó, ông tiếp tục
vượt biển lần nữa và thành công, đến tỵ nạn tại Thái Lan vào giữa năm 1987.
Trong thời gian tạm cư trên đất Thái, ông làm việc trong tư cách là thông dịch
viên, và chuyên giúp tư vấn, giúp đỡ các trẻ em minor, các cô gái Việt bị nạn
trên biển. Khi được chuyển tiếp sang tạm cư tại Phi, ông dạy học cho người tỵ nạn
ở trung tâm PRPC Bataan Philippine. Sau 18 tháng tạm cư trên đất Thái, ông đi định
cư tại Hoa Kỳ vào cuối năm 1988.
Đây có lẽ cũng là quãng thời
gian ông manh nha ý tưởng hoạt động chính trị để cứu quốc. Sau khi định tại Hoa
Kỳ, trong một bức thư gởi về cho gia đình từ Fullerton, California đề ngày
15/12/1988, ông viết:
“Giờ đây Ba không còn được
nụ cười tươi như thời gian đó nữa đâu. Có cười đi chăng nữa chỉ để vui lòng kẻ
khác, vì trong nụ cười còn đượm vẻ chua chát, lo âu, sầu muộn. Chúa đã trao cho
Ba một cây Thánh giá rất khó vác, nhưng Ba tin rằng Ba sẽ vác nổi, vơi phương
tiện Ngài đã ban cho Ba.
Xin Chúa chúc lành cho tất
cả những kẻ thân yêu của Ba”.
Một thời gian ngắn sau khi
ổn định cuộc sống mới, ông mở Văn phòng du lịch ASIA Travel tại Ontario,
California.
Trở về Việt Nam hoạt động và bị bắt
Trong thời gian sinh sống
tại Hoa Kỳ, ông cùng các đồng chí lập ra tổ chức Liên Đảng Cách Mạng Việt Nam.
Năm 1990, ông quay về Việt
Nam hoạt động đồng thời làm việc từ thiện với các tổ chức từ thiện công giáo.
Hoạt động từ thiện nổi bật nhất là việc giúp đỡ bệnh nhân tại trại phong Thanh
Bình (An Khánh, Quận 2), mà người phụ trách trại phong Thanh Bình khi đó là
Linh mục Cosma Hoàng Văn Đạt, đồng thời cũng là chánh xứ Giáo xứ Thiên Thần
(Nay Ngài là Giám mục Giáo phận Bắc Ninh).
|
Ông Trần Tư
đang cùng Lm. Cosma Hoàng Văn Đạt (người đeo kiếng) phát chẩn cho bệnh nhân tại
trại phong Thanh Bình
|
Tai họa ập đến và bản án chung thân
Sáng ngày 28/03/1993, tai
họa ập đến với ông và cả gia đình tại tư gia ở số 534 An Bình, An Phú, Thủ Đức
(nay là số 23 Đường 10, Khu phố 4, Phường An Phú, Quận 2).
Từ sáng sớm, một lực lượng
công an khoảng hơn 100 người mặc thường phục, rải đều 2-3 người tại mỗi chốt chặn,
kéo dài từ nhà thờ Thiên Thần (600 An Bình, An Phú, Quận 2) vào đến tư gia của
gia đình ông. Khoảng trên 20 công an mặc thường phục lẫn sắc phục kéo vào nhà
ông, bắt tất cả mọi người trong nhà ngồi úp mặt vào tường, trong khi lực lượng
công an tra xét ông và vợ. Sau khi lục xét và lấy đi nhiều vật dụng đồ đạc
trong nhà, kể cả một lượng tiền bạc lớn, công an áp tải ông về trại giam.
Liên tục trong vòng một
tháng, tất cả thành viên trong gia đình ông không được ra khỏi nhà: nội bất xuất,
ngoại bất nhập. Bên trong nhà lúc nào cũng túc trực 3 công an viên. Mọi nhu cầu
tiêu dùng đều phải ghi xuống giấy để công an đưa người đi mua.
Ngày ra tòa, ông dõng dạc
tuyên bố với chánh án “Tôi làm việc này
vì lý tưởng. Tôi không có tội. Hãy thả hết những anh em của tôi ra. Tôi hoàn
toàn nhận trách nhiệm”.
Quãng thời gian bị cầm tù
Trong thời gian bị giam giữ,
ông lần lượt bị chuyển từ trại tù Nguyễn Văn Cừ (Sài Gòn), đến trại Trại A-20
Xuân Phước, Phú Khánh (nay là tỉnh Phú Yên). Sau khi gia đình thăm nuôi tại trại
Xuân Phước, được 3 tháng thì ông bị chuyển ra Bắc đến trại Ba Sao Nam Hà.
Ông Trần Tư cùng các Học Viên Lớp Tiếng Anh do ông phụ trách tại trại Sikiew
Ông là một thành viên
trong nhóm 5 người tù cùng bị chuyển một lượt từ trại Xuân Phước ra Ba Sao năm
1994: Lý Tống, Trần Tư, Đoàn Viết Hoạt, Jimmy Trần (Trần Mạnh Quỳnh) và A Quý.
Trại giam Ba Sao Nam Hà nối
tiếng là trại giam khắc nghiệt. Tại trại giam này ông cùng với 3 người tù nổi
tiếng Lý Tống, Đoàn Viết Hoạt và Trần Mạnh Quỳnh viết kháng thư về chế độ giam
giữ tù nhân (xem nội dung bản kháng thư đính kèm bên dưới), mà đoạn kết có lời
như sau:
“Từ trại giam Nam Hà chúng
tôi đã quyết định gửi đến Quí Vị thư kháng nghị này vì cho rằng, sau khi đã trực
tiếp biết được những gì đang xẩy ra trong các trại giam mà chúng tôi đã đi qua,
chúng tôi không thể tự nhận mình là những con người tự trọng, trung thực, thiết
tha với tiền đồ của dân tộc mà không nói lên những nhận xét, quan điểm và kiến
nghị của mình. Chúng tôi thẳng thắn gửi đến Quí Vị thư kháng nghị này vì tin rằng
công lý sẽ thắng, nền dân chủ pháp trị sẽ được xây dựng trên đất nước chúng ta;
rằng tinh thần nhân đạo, lòng nhân ái trong truyền thống văn hóa dân tộc Việt sẽ
vượt hẳn mọi bất công, lạc hậu và hận thù để tạo ra một không khí chính trị xã
hội Đại Phản Tỉnh và Đại Hòa Dân Tộc để mở đường cho việc xây dựng một nước Việt
phồn vinh, hạnh phúc và tự do trong thời đại 2000”.
|
Giấy Thông báo chấp hành án tại trại giam Ba Sao, Nam Hà |
|
|
Theo lời mô tả của ông Lý
Tống và các bạn đồng tù khác, trong tù ông Trần Tư là người điềm đạm, rất
"an nhiên tự tại" và có bản lãnh, suốt ngày ngồi tập Yoga, tập thể dục
để giữ gìn sức khỏe. Tuy nhiên, do điều kiện trại giam và chế độ ăn uống thiếu
thốn, đã khiến ông rụng hết hàm răng. Người nhà phải bỏ tiền ra, xin phép trại
giam cho ông làm răng giả để tiện việc ăn uống.
Ngoài những tù chính trị
đã mất gần đây như các ông Nguyễn Văn Trại, Trương Văn Sương, và người tù chính
trị xuyên thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu hiện còn trong lao lý, thì có lẽ hiện nay ông
Trần Tư là người tù chính trị lâu năm duy nhất còn sống sót đang thọ án trong
nhà tù cộng sản.
Vì chưa phải là công dân
Hoa Kỳ, nên suốt thời gian ông ở tù, không có một sự can thiệp nào từ Lãnh sự
Hoa Kỳ, kể cả sự lên tiếng của các tổ chức, đảng phái có liên hệ. Vì luôn hoạt
động âm thầm nên ông không được công chúng và báo chí biết đến.
Vào cái tuổi 72, với bản
án chung thân cho tội danh "Âm mưu lật đổ chính quyền", ông đã khắc
khoải gần 20 năm tù, lê lết qua nhiều trại tù khắc nghiệt. Nay với hàm răng đã
rụng hết, sức khỏe không còn khả quan vì chế độ ăn uống thiếu thốn, khiến ông
có thể gục ngã bất cứ lúc nào.
Vì sự quên lãng của mọi
người mà ông phải âm thầm chịu đựng sự giam cầm khắc nghiệt sau song sắt trong
suốt 20 năm qua. Cũng như các ông Nguyễn Văn Trại, Trương Văn Sương, mặc dầu
ông Trần Tư tuy có đầy nghị lực nhưng liệu có đủ sức khỏe để theo hết kiếp tù
đày với bản án chung thân không?
20 năm là một quãng thời
gian quá dài và quá lâu cho một sự quên lãng. Chúng ta hãy cùng nhau lên tiếng
trước khi quá muộn màng vì sự hối tiếc không thể cứu được người con yêu nước Trần
Tư.
Xuân Nhâm Thìn 2013
Lê Minh
THƯ KHÁNG NGHỊ VỀ CHẾ ĐỘ GIAM GIỮ PHẠM NHÂN HIỆN NAY
Trại Nam Hà, ngày 1.4.1994
Kính gửi: Thủ Tướng Chính Phủ
Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Đồng Kính Gửi:
-- Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân
Tối Cao
-- Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ
(Nhờ Ban Giám Thị Trại Ba
Sao, Nam Hà, chuyển giao)
Thưa Quí Vị,
Chúng tôi ký tên dười đây
là Đoàn Viết Hoạt, Trần Tư, Lý Tống và Trần Mạnh Quỳnh hiện đang bị giam giữ tại
trại giam Ba Sao, Nam Hà. Sau khi đã trải qua nhiều trại giam khác nhau từ Nam
ra Bắc (Chí Hòa, Thủ Đức Z30D, Xuân Phước, Nam Hà) chúng tôi nhận thấy chế độ
giam giữ phạm nhân hiện nay có nhiều điều không phù hợp các công ước quốc tế về
quyền con người, các công pháp và tập tục luật pháp quốc tế, và ngay cả luật
pháp Việt Nam hiện nay. Chúng tôi xin gửi đến Quí Vị kháng thư này liên quan đến
những vi phạm mà chúng tôi đã thực tế trải qua hoặc trực tiếp biết được.
A. Về Chế Độ Giam Giữ và
Sinh Hoạt
1. Phạm nhân thuộc mọi
thành phần xã hội (tu sĩ tôn giáo, trí thức, công chức nhà nước, các thành phần
“xã hội đen”…) và mọi tội phạm khác nhau (hình sự, kinh tế, chính trị…) đều bị
giam chung và chịu những hình thức sinh hoạt ăn ở, lao động như nhau. Điều này
xẩy ra ở hầu hết các trại giam. Chế độ giam giữ này đã dẫn đến nhiều hậu quả
tiêu cực cho quá trính cải tạo của các phạm nhân; nhân phẩm, đạo đức và phong
cách sống văn minh, có văn hóa không những không được phát huy mà còn bị thoái
hóa. Thiểu số những người có nhân cách và phẩm chất sống tốt đẹp bị “hình sự
hóa” bởi sự áp đảo và trấn lột của đa số quen lối sống của “xã hội đen”.
2. Vì nhà tù có quá đông
phạm nhân nên chỗ ăn ở quá chật chội (50cm, 60cm mỗi người), tiêu chuẩn vệ sinh
rất thấp, trật tự an tòan trong trại khó bảo đảm (trộm cắp, đánh lộn, ức hiếp,
trấn lột…)
3. Hầu như toàn bộ thời
gian giam giữ được dành cho lao động. Các sinh hoạt vui chơi giải trí, thể dục
thể thao, học tập gần như không có, hoặc nếu có cũng không đáng kể. Ở hầu hết
các trại giam nhiều hình thức vui chơi giải trí và học tập còn bị nghiêm cấm (cấm
ca hát, cấm học tập ngoại ngữ và kể cả văn hóa…)
4. Sức khoẻ phạm nhân
không được bảo đảm. Lao động nhiều và năng nhọc nhưng ăn mặc, ở, nghỉ ngơi dưới
mức trung bình. Khi đau ốm, thuốc men thiếu thốn. Bệnh xá thường chật hẹp thiếu
vệ sinh, người bệnh nhẹ bị nhốt chung với người bị bệnh truyền nhiễm…
5. Quan hệ con người trong
trại giam thiếu tình thương và thiếu tính giáo dục. Ngôn ngữ sử dụng giữa cán bộ
và phạm nhân thường thiếu văn hóa (mày – con, mày – tao, chửi mắng…). Còn nhiều
trường hợp cán bộ đánh đập phạm nhân, có khi bằng cả roi vọt, và bắt phạm nhân
phục vụ riêng cho mình.
B. Việc Tổ Chức Lao Động Cải Tạo
1. Việc bắt buộc mọi phạm
nhân không phân biệt tội trạng và án phạt đều phải lao động tay chân, thường là
nặng nhọc, 8 giờ một ngày, có khi cả chủ nhật, được giải thích là để thi hành
pháp lệnh thi hành án mới ban hành. Chúng tôi cho rằng cần phải xét lại ngay cả
cơ sở pháp lý của việc bắt buộc mọi phạm nhân phải lao động tay chân nặng nhọc
trong thời gian bị giam giữ vì những lý do sau đây:
a. Hiến pháp 1992, điều 71
qui định: “Không một công dân nào bị coi là có tội khi chưa bị Tòa án xét xử với
một bản án có hiệu lực pháp lý”. Điều này cho thấy chỉ có bản án do tòa án phán
quyết mới có giá trị pháp lý để thi hành. Mọi việc thêm vào án phạt của tòa án
dưới bất cứ hình thức nào và do bất cứ cá nhân hoặc cơ quan nào trong thời giam
thi hành án là hoàn toàn vi phạm tinh thần và nội dung của điều 71 Hiến Pháp hiện
nay.
b. Pháp lệnh thi hành án
là một văn bản pháp lý dưới luật, tất nhiên cũng không thể đi ngược lại tinh thần
và nội dung của điều 71 cũng như các điều khoản khác của Hiến Pháp, đạo luật
căn bản của mọi đạo luật. Nói cách khác, việc qui định các hình thức thi hành
án không thể vượt ra ngoài phán quyết của Tòa án liên quan tới thời gian và
hình thức án phạt. Cụ thể hơn nữa, việc tổ chức lao động, nhất là lao động tay
chân nặng nhọc cho phạm nhân chỉ có thể áp dụng một cách hợp hiến và hợp pháp đồi
với những bản án mà toà án có quy định phạt lao động với những hình thức cụ thể
(lao động nhẹ, lao động khổ sai…).
c. Toà án hiện nay của nước
ta chỉ có án phạt tù giam mà chưa qui định có hay không có lao động, cũng như
lao động nhẹ hay lao động khổ sai. Mọi qui định về lao động dười bất cứ hình thức
nào do đó đều không phù hợp với án lệnh và phán quyết của tòa án hiện nay, và nếu
vẫn đem thi hành thì vừa vi phạm điều 71 của Hiến Pháp hiện nay, vừa vi phạm tập
quán và công pháp quốc tế, và đặc biệt vi phạm các công ước quốc tế về dân quyền
và nhân quyền liên quan tới tòa án, quá trình xét xử và giam giữ.
2. Hình thức tổ chức lao động
và cường độ lao động hiện nay ở các trại giam mà chúng tôi đã đi qua hoàn toàn
thiên nặng về hình phạt và về hiệu quả kinh tế. Các trại giam thường tính toán
thành quả lao động của phạm nhân như tính toán lời lỗ của một cơ sở kinh doanh
sản xuất ngoài xã hội. Có trại (Nam Hà) đặt hẳn trách nhiệm của phạm nhân là
“làm giầu cho trại”. Thực tế này đã gây ra những hậu quả tai hại như sau:
a. Phạm nhân luôn luôn có ấn
tượng là họ bị “bóc lột sức lao động”. Thêm vào đó, tình trạng ăn ở, sinh hoạt
tồi tệ trong trại giam như mô tả ở trên càng tác động xấu vào quá trình cải tạo
của phạm nhân. Chúng tôi cho rằng hình thức tổ chức lao động cũng như ăn ở như
hiện nay ở các trại giam hoàn toàn không đạt được hiệu quả “cải tạo” như mong
muốn.
b. Việc bắt phạm nhân lao
động cực nhọc để sinh lời cho trại giam và đóng góp vào ngân sách quản lý trại
giam của chính phủ tạo ra một hình ảnh không tốt đẹp về nhân quyền và chế độ
lao tù của nước ta.
c. Lao động trong thời
gian giam giữ chỉ có thể cải tạo khi đem lại lợi ích cho phạm nhân. Muốn thế,
lao động cần gắn liền với huấn nghệ, học tập nâng cao kiến thức và văn hóa tổng
quát, cũng như với một môi trường sống nhân đạo, thân ái, văn minh và tiến bộ.
Điều này đòi hỏi phải tổ chức lại chế độ lao động học tập đồng thời với việc cải
thiện mạnh mẽ và sâu rộng mọi mặt sinh hoạt của trại giam.
C. Kiến Nghị:
Từ những nhận định trên,
chúng tôi kiến nghị với quí vị những điều cụ thể sau đây:
1. Thành lập một Ủy Ban Quốc
Gia thanh sát các trại giam. Ủy Ban này
phải hoàn toàn độc lập với các cơ quan liên hệ tới việc tổ chức và điều hành
các trại giam, đặt trực thuộc Quốc hội hay Thủ Tướng để thanh tra tất cả các trại
giam, đồng thời nghiên cứu và đề nghị các biện pháp cải thiện chế độ lao tù.
2. Rà soát lại các văn bản
pháp lý liên quan tới mọi khía cạïnh của việc tổ chức và quản lý các trại giam
cũng như việc thi hành án phạt của tòa án. Sửa đổi mọi điều vi phạm tinh thần
và nội dung Hiếp Pháp hiện hành.
3. Trong khi chờ đợi, cải
thiện ngay một số điều liên quan tới lao động và sinh hoạt trong các trại giam
để giảm bớt một số mặt tiêu cực và tăng cường tác dụng cải tạo của quá trình
giam giữ. Chúng tôi đề nghị cụ thể:
- bỏ mọi hình thức lao động
nặng nhọc, giảm bớt giờ lao động;
- tổ chức các lớp học tập
văn hóa, ngoại ngữ, nghề nghiệp;
- tổ chức các hình thức
sinh hoạt giải trí, văn nghệ, thể dục thể thao;
- tận dụng khả năng và
nhân lực của chính phạm nhân để tổ chức các loại sinh hoạt này.
4. Riêng phần chúng tôi, kể
từ ngày gửi thư kháng nghị này, chúng tôi sẽ ngưng mọi hình thức lao động chân
tay vì lý do như sau:
a. Trong tinh thần và nội
dung của bản kháng nghị này, việc ngưng tham gia mọi hình thức lao động chân
tay vừa thể hiện tính trung thực của những nhận xét, quan điểm và kiến nghị mà
chúng tôi đã trình bầy ở trên, vừa là một đóng góp cụ thể vào quá trình cải thiện
chế độ lao tù ở nước ta hiện nay.
b. Vấn đề “cải tạo”, đặc
biệt cải tạo qua hình thức lao động chân tay, hoàn toàn không phù hợp với trường
hợp chúng tôi là những người đang bị giam giữ với lý do chính trị. Vấn đề đúng
sai của tư tưởng và quan điểm chính trị không thể giải quyết đơn thuần bằng quá
trình gọi là “lao động cải tạo”.
c. Chúng tôi cho rằng các
hình thức lao động tay chân hoàn toàn không phù hợp vơi tình trạng sức khỏe thể
xác cũng như năng lực tinh thần và trình độ văn hóa của chúng tôi. Chúng tôi tn
rằng trong thời gian còn tạm thời bị “cách ly khỏi xã hội” chúng tôi vẫn có thể
đóng góp hoặc chuẩn bị cho sự đóng góp trong tương lai một cách tích cực hơn, hữu
hiệu hơn vào quá trình đi lên của đất nước bằng năng lực và hiểu biết của mình
hơn là bằng các hình thức lao động bằng chân tay giản đơn và nặng nhọc.
Thưa Quí Vị,
Từ trại giam Nam Hà chúng
tôi đã quyết định gửi đến Quí Vị thư kháng nghị này vì cho rằng, sau khi đã trực
tiếp biết được những gì đang xẩy ra trong các trại giam mà chúng tôi đã đi qua,
chúng tôi không thể tự nhận mình là những con người tự trọng, trung thực, thiết
tha với tiền đồ của dân tộc mà không nói lên những nhận xét, quan điểm và kiến
nghị của mình. Chúng tôi thẳng thắn gửi đến Quí Vị thư kháng nghị này vì tin rằng
công lý sẽ thắng, nền dân chủ pháp trị sẽ được xây dựng trên đất nước chúng ta;
rằng tinh thần nhân đạo, lòng nhân ái trong truyền thống văn hóa dân tộc Việt sẽ
vượt hẳn mọi bất công, lạc hậu và hận thù để tạo ra một không khí chính trị xã
hội Đại Phản Tỉnh và Đại Hòa Dân Tộc để mở đường cho việc xây dựng một nước Việt
phồn vinh, hạnh phúc và tự do trong thời đại 2000.
Trân trọng kính chào Quí vị.
Đồng ký tên
Đoàn Viết Hoạt – Trần
Tư
Lý Tống - Jimmy Trần (Trần
Mạnh Quỳnh)
0 comments:
Post a Comment