- “Thực
dân, đế quốc nào, bất luận Đông Tây, cũng chỉ nghĩ đến quyền lợi của họ
trước hết và sau cùng, vậy cho nên Bảo hộ, Khai hoá, Hữu nghị, Tương
trợ, “Tương liên, Tương thông, Tương đồng, Tương quan”; Đồng chí đồng
chấy, Đồng minh đồng mụn gì gì cũng chỉ là các loại bình phong che đậy
dã tâm, tà vọng trục lợi. Chỉ những phường lú lấp trập trệ như Lê Chiêu
Thống, Trần Ích Tắc mới không thấy điều đơn giản này; hay tập đoàn hậu
Thành Đô tuy thấy rõ nhưng vẫn giả mù sa mưa đút đầu vào cái kim cô 16.4
ca-ra khốn khổ khốn nạn. Lỡ gian díu với thực dân đế quốc cũ hay mới
thì chóng chầy thế nào cũng điêu đứng, lầm than, tàn tạ với họ.”
*
Sau 2.000 năm nước mất
nhà tan, người người ly tán ăn nhờ ở đậu các xứ trên thế giới và thường
trực bị sống trong thảm nhục diệt chủng, động lực nào đã thúc đẩy người
Do Thái - với trăm ngàn dị biệt giữa họ - không những giành lại được đất
tổ quê cha mà còn biến vùng đất khô cằn sỏi đá cũng như sa mạc hoang sơ
từ ngàn xưa nơi đó thành một cõi bờ trù phú tân tiến, hồi sinh và thống
nhất một ngôn ngữ già như trái đất là cổ ngữ Hébreu thành quốc ngữ?
Trong
bài nầy tôi chủ quan chỉ lược soạn những điều hay của họ, còn những
điều kém hay, đặc biệt kể từ sau 1967, tôi trộm nghĩ trong lúc nầy chúng
ta chưa cần phải học mặc dù tôi hằng tâm đắc câu "kỳ bất thiện giả nhi
cải chi" của Khổng Tử. (1)
1. Dân tộc Do Thái
Thủy
tổ người Do Thái và ý thức Do Thái Giáo là Abraham, dân tộc Hébreu (2),
thuộc giòng Sémite. Abraham gốc người xứ Chaldée (Irak ngày nay), theo
thân phụ di cư qua đất Canaan. Ông tự nhận được Thượng Đế khải thị cho
chọn đất nầy làm nơi định cư lập nghiệp. Tuy nhiên, dân tộc Do Thái chỉ
thực sự được gầy dựng kể từ đời thứ tư nhờ một trong 12 người chắt trai
của Abraham là Joseph. Bấy giời Joseph làm thượng thư trong triều đình
Ai Cập (Egypte) nên toàn thể độ 70 người trong tộc Abraham đều theo
Joseph qua Ai Cập sinh sống.
Vào
năm 1585 trước CN, một vị Pharaon (vua Ai Cập) khác lên ngôi, không
thích người Do Thái, nghi kỵ và bạc đãi bắt cả nhóm của Joseph làm nô
dịch. Ý thức thành lập một quốc gia Do Thái phát sinh từ đó.
Gông
cùm nô dịch kể trên kéo dài 317 năm mới được Moïse giải phóng. Moïse là
một thân vương của Ai Cập, nhưng đứng trước nhục trạng của đồng bào
ông, ông cương quyết từ bỏ địa vị cao sang cá nhân, bênh vực và bảo vệ
họ.
Vào năm 1266 trước CN, Moïse đưa đồng bào đau khổ của ông
di cư về Đất Hứa. Tới núi Sinaï, họ sống vất vưởng cực khổ 40 năm.
Truyền rằng chính nơi đây, được khải thị bởi Thượng Đế, Moïse đã cụ thể
hoá ý thức tôn giáo nhất thần của Abraham thành Do Thái giáo, có cơ sở
hẳn hòi: Thờ Jahvé, một Thượng đế toàn năng, toàn trí, chí nhân, chí
công và là người tạo ra trời đất cùng muôn loài.(3).
Thánh
kinh Do Thái (la Torah) di lưu rằng vì thủy tổ loài người, ông Adam và
bà Eva, phạm tội ăn trái cấm nên hậu duệ của ông bà phải chịu khổ, song
một ngày kia một Đấng Cứu Thế trong tộc Do Thái sẽ ra đời và Ngài sẽ là
người hoà giải Jahvé với nhân loại.
Người
trong đạo Do Thái tin có linh hồn và linh hồn bất diệt khi thể xác rữa
tan. Tín đồ Do Thái giáo phải tin theo Thập Tự Giới như: thờ một Chúa
duy nhất, kính trọng cha mẹ, không được cướp của giết người, không được
nói dối, phải giữ linh hồn và thể xác trong sạch... Ngày thứ bảy trong
mỗi tuần là ngày Sabbat, tức là ngày thiêng liêng, mọi công việc đều
phải đình lại.
Dân
tộc Do Thái bắt đầu văn minh và thống nhất từ đời Moïse nhưng nhờ
Josué, đời kế tiếp, chiếm được một phần xứ Canaan (Đất Hứa), con cháu
Israël mới chính thức về đó định cư. Sau, David chiếm trọn đất Canaan,
dựng đô ở Jérusalem, lập một ngôi đền đẹp đẽ cũng lấy tên là Jérusalem
(có nghĩa là Đền Bình Trị). Và đến đời con của David là Salomon, quốc
gia Do Thái mới toàn thịnh.
Năm
930 trước CN, Salomon băng hà, Israël bị chia làm hai tiểu quốc: Israël
ở phía bắc và Judée ở phía nam. Nam Bắc tương tàn, rốt cuộc Israël bị
Assyrie chiếm mất, Judée lọt vào tay Babylone.
Tới
khi Ba Tư (Iran) sang chiếm Babylone, người xứ Judée mới được về lại
xứ, xây cất lại đền Jérusalem, tạm sống yên ổn trong hai thế kỷ.
Rồi
tới năm 63 trước CN, La Mã chiếm xứ Judée, tàn phá và đổi tên Jérusalem
thành Aelia Capitolina, và Israël thành Palestine (tên cũ). Dân tộc Do
Thái mất quốc gia và nếm mùi lưu vong và nhục trạng diệt chủng trường kỳ
khủng khiếp từ thời đó cho tới năm 1948, tây lịch.
2. Bước đường lưu vong
Mới đầu họ tản mác qua Tiểu Á (Asie Mineure) rồi qua Âu
Châu, Bắc Phi, Ethiopie; chỉ còn một nhóm nhỏ ở lại trong xứ sống chung
với người Ả Rập. Đi tới đâu, thổ dân cũng nhận ra họ, một là vì tôn
giáo, hai là vì nét mặt (nhất là sống mũi mỏ vẹt đặc thù của họ), ba là
sự đoàn kết, sự thông minh, sự tiến đạt thịnh vượng hơi quá lộ liễu của
họ, dù rằng đi tới đâu họ cũng đều nhập tịch xứ đó và cũng hy sinh tính
mạng những khi hữu sự y như người bản xứ. (4).
Xin lược kể ra đây một vài trường hợp khinh ghét oái oăm mà người Do Thái phải hứng chịu tại các nước đạo Hồi:
•
Tại Ba Tư (Iran) vào thế kỷ XIX tây lịch, người Do Thái chẳng khác gì
hạng tiện dân bên Ấn Độ, vì đối với người bản xứ, hễ người Do Thái đụng
tới một vật gì thì vật đó hoá ra nhớp nhúa bẩn thỉu. Do đó người Do Thái
bị cấm triệt không được hành nghề như mở quán tạp hoá, nhà hàng... Lúc
trời mưa, họ không được ra khỏi khu vực dành riêng cho họ (có tên là
Mellah) tương tự như các ghetto ở Âu Châu. Đặc biệt người Do Thái không
có quyền làm chứng và tuyên thệ ở toà án. Sinh mạng của một người Do
Thái không quá 140 Kraus (tiền Ba Tư).
•
Tại Maroc, người Do Thái không được luật pháp công nhận quyền công dân
dù họ đã vào quốc tịch. Lẽ sống chết của họ tùy thuộc vào nhà vua. Vua
Maroc muốn bắt họ làm nô lệ thì họ phải tuân theo vì không biết dựa vào
đâu mà kêu ca ngoài lời nguyện cầu Jahvé che chở.
•
Tại Yémen trước 1948, người Do Thái không được phép lớn tiếng trước mặt
người Hồi giáo, không được bán cùng món hàng với người Hồi giáo. Ngoài
ra, ngày viá Mohamed, giáo chủ Hồi giáo, người ta cấm họ mặc các thứ vải
có màu nhạt, mang khí giới. Trẻ con Do Thái mồ côi phải giao cho nhà
cầm quyền để nhà cầm quyền cho chúng theo Hồi giáo.
Thân
phận người Do Thái ở Âu Châu xét ra còn bi đát hơn nhiều so với thân
phận người Do Thái ở Trung Đông. Suốt gần mười thế kỷ, không nơi nầy thì
nơi khác, lúc nào cũng có những người Do Thái bị nhục cảnh ghetto,
pogrom, hỏa hình lò thiêu, dìm nước. Người Do Thái bị buộc gắn hình bánh
xe nhỏ hoặc hình ngôi sao David sáu cánh trên áo như tội phạm mang áo
dấu, bị trút lên đầu lên cổ tất cả mọi tội lỗi mà họ không hề gây nên.
Những lúc họ được yên thân nhất cũng không khác thân phận nô lệ là bao
vì người ta cấm họ có bất động sản, thành thử muốn theo nghề nông, họ
chỉ có thể làm nông nô hay tá điền là cùng. Muốn khá giả, họ chỉ còn
nghề đổi tiền và cho vay (5).
Sự
học hành của người Do Thái ở các nơi nầy cũng bị hạn chế. Chẳng hạn ở
Nga, chính phủ không ra mặt cấm hẳn sự học của họ nhưng lại áp chế một
chính sách xảo quyệt là cho các trường trung học chỉ được thu nhận một
số học sinh Do Thái khoảng 10% tổng số học sinh theo Thiên Chúa giáo,
trong khi ở châu thành nào có dân Do Thái thì nhân số Do Thái cũng chiếm
ít nhất 30% tổng số dân cư ngụ vì người Do Thái bị bắt buộc phải sống
chung gần như trong các ghetto của Đức, của Ba Lan.
Tình
cảnh của họ bất công đến nỗi một người theo Thiên Chúa giáo đã phải
thốt ra câu nầy: "Nếu chỉ cần ghét tụi Do Thái cũng đủ là người Thiên
Chúa giáo ngoan đạo thì hết thẩy chúng ta đều là những người Thiên Chúa
giáo ngoan đạo".
Cuộc
tàn sát Do Thái vì kỳ thị Thiên Chúa giáo thực sự bắt đầu từ thế kỷ XI
trong cuộc viễn chinh của Thập Tự Quân kéo dài đến đầu Thế chiến 2 thì
chuyển hướng qua kỳ thị chủng tộc bởi Hitler và Đức Quốc Xã.
3. Kỳ thị tôn giáo
Năm 1096, người ta rủ nhau đi giải phóng mộ Chúa Ki Tô.
Và còn gì hữu lý bằng, trước khi làm công việc thiêng liêng cao cả đó,
trả thù những kẻ mà 11 thế kỷ trước đã phản bội Chúa nên Chúa mới bị
chính quyền La Mã kết tội phiến loạn, bị đóng đinh trên Thánh Giá tại
núi Golgotha cùng với hai tên đạo tặc.
•
Ở Worms (Đức), trong hai ngày, người Âu Châu đã làm thịt 800 người Do
Thái bất luận già trẻ, đàn ông hay đàn bà. Hễ là Do Thái mà không chịu
theo Thiên Chúa giáo là bị chém bằng gươm bằng giáo.
•
Ở Mayence (Đức) cũng vậy, 700 người Do Thái ngã gục chỉ vì họ là hậu
duệ của kẻ đã giết Chúa (Juda) và đã được Chúa "xin Cha - Thượng Đế -
tha thứ cho họ (người Do Thái) vì họ không biết họ làm gì". Chúa tha,
nhưng đời đời kiếp kiếp tín đồ của Chúa, vốn không cùng chủng tộc với
Chúa, không tha, quyết diệt cho tiệt cái nòi mà chính Chúa đã mượn thân
xác xuống trần.
Mà
thật ra, Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo vốn là "đồng bào ruột thịt" vì
Đức Mẹ Maria và Chúa Jésus đều là người Do Thái và tất cả đều theo
những điều luật của Moïse, cũng là dân Do Thái nốt.
Còn
nhiều, rất nhiều cuộc tàn sát Do Thái khác trước Thế chiến 2 nhưng vì
quá nhiều, không tiện liệt kê cả ra đây. Chúng ta hãy biết rằng năm
1905, Nga thua Nhật ở eo bể Đối Mã (Tsushima), cách mạng nổi lên ở Nga
và dân Nga lại trút hết tội lỗi lên đầu người Do Thái, do đó có nhiều
cuộc thảm sát Do Thái trong tháng 10 (1905) và vào năm 1919-1921 đã có
trên 10 vụ pogrom.
4. Kỳ thị chủng tộc
Trước kia người ta giết Do Thái một cách thô bạo, dã man.
Đến Thế chiến 2, Đức Quốc Xã của Hitler tàn sát họ rất bình tỉnh, có tổ
chức, có kế hoạch, có chủ thuyết và có khoa học. Bởi vậy dân Do Thái
chết như rạ, dẫu Néron, Tần Thủy Hoàng có tái sinh cũng không thể không
cúi đầu chịu thua trên phương diện lượng và phẩm khủng khiếp (chỉ có hai
ông tổ Staline và Mao Trạch Đông sau này là vượt xa ‘chỉ tiêu’ đó).
Lửa
kỳ thị tôn giáo và hận giết Chúa sau gần 20 thế kỷ dù sao cũng phải lụi
phần sôi sục. Hơn nữa, rất nhiều người Do Thái đã cải giáo, cho nên
muốn tận diệt họ, Hitler bèn tạo thêm lòng kỳ thị chủng tộc. Thuyết kỳ
thị chủng tộc của Hitler đã được rút ra từ cuốn sách "Chủng Loại Các Thứ
Cây" (Espèces en Botanique), xuất bản năm 1753 của nhà vạn vật học Thụy
Điển Carl Linné (1707-1778). Từ hệ thống phân loại cỏ cây làm 24 giống,
Linné phân loại tới loài người: Giống Âu da trắng siêng năng, giống Á
da vàng dai sức, giống Phi da đen bạc nhược (6) và giống Mỹ da đỏ nóng
nảy.
Chộp
lấy hệ thống đó, Đức Quốc Xã tuyên truyền rằng giống Do Thái – vàng
chẳng ra vàng, đen chẳng ra đen, trắng không thật trắng – có máu quỉ
quyệt phản bội (phản Chúa), chống chính phủ (thuyết cộng sản của Marx,
gốc Do Thái). Vậy, vì lý do an ninh của nước Đức và để bảo tồn huyết
thống của giống Đức (giống Aryen) - một giống thông minh nhất thế giới,
anh hùng nhất thế giới, tài giỏi nhất thế giới, cao thượng nhất thế giới
- khỏi bị lây lai bậy bạ mà phải sa đoạ lần lần mất, chúng ta (dân Đức)
phải tận diệt chúng (tức Do Thái) và tịch thu tài sản của chúng.
Từ năm 1939 đến đầu năm 1945, tính ra có trên năm
triệu người Do Thái bị Hitler và đồng bọn thảm sát hoặc bằng súng đạn,
hơi ngạt, hoặc bằng lò thiêu, chôn sống. Chỉ riêng tại trại Auschwitz
cũng đã có gần ba triệu thây ma Do Thái.
Hai
chữ Do Thái thật ra chỉ là danh xưng để gọi một giống người mà huyết
thống, sau 2.000 năm vong quốc, đã bị lai loãng cả trăm, cả ngàn đời
rồi. Cho nên có đến hàng trăm thứ Do Thái: Do Thái Pháp, Do Thái Bỉ, Do
Thái Ý, Do Thái Anh, Do Thái Mỹ, Do Thái Nga, Do Thái Hung, Do Thái Thổ,
Do Thái Đức, Do Thái Ba Lan, Do Thái Bồ Đào Nha, Do Thái Tây Ban Nha,
Do Thái Ả Rập (Iran, Irak..., Algérie, Maroc, Tunisie, Syrie, Egypte –
Ai Cập...), Do Thái Áo, Do Thái Phi châu da đen... và cả Do Thái Tàu.
(7)
Tóm
lại trên phương diện địa lý-văn hoá, giữa người Do Thái với nhau có sự
phân chia đại cương thành 2 nhóm: Ashkénaze và Séfarade. Ashkénaze = Do
Thái gốc Nhật nhĩ man (Germanique: Đức, Anh, Hoà Lan... và mấy nước Bắc
Âu) và Tư lạp phu (slave: Nga, Biélorusses, Ba Lan, Ukraines, Serbes,
Croates, Slovaques, Tchèques...); Séfarade = Do Thái gốc Địa Trung Hải
(Méditerranéens: chủ yếu là Cận Đông, Bắc Phi và Tây Á).
5. Phục Quốc
Bao lần quật khởi đẫm máu, người Do Thái vẫn không
tránh được cảnh nước mất nhà tan, người người phân tán trên khắp địa
cầu. Ở đâu họ cũng bị hất hủi, khủng bố, tàn sát cho nên lòng hoài hương
của họ trong suốt 2.000 năm lúc nào cũng đau đáu trong lòng. Nỗi khổ
của họ đã làm thi sĩ Anh Cát Lợi Byron buột miệng than "dân Do Thái khổ
hơn những con thú không có hang".
Dù
ở Moscou, Paris, New York, Rome, Berlin, Londre... người Do Thái luôn
luôn hướng về thánh địa Jérusalem và xứ Israël, mảnh đất thiên đường mà,
nghe nói, Thượng Đế đã đặc ban cho họ, một dân tộc, cũng nghe nói, được
Chúa trời chọn. Bất cứ gặp nhau ở nơi nào, họ đều chúc nhau: Sang năm
về Jérusalem.
Nói
đến công cuộc phục quốc của người Do Thái mà không nói tới Théodore
Herzl thì quả là một thiếu sót lớn. Vì nếu không có cuốn sách nhỏ mang
tựa đề "Quốc Gia Do Thái" (L'Etat Juif) của Herzl, chẳng biết ngày nay
thân phận hậu duệ ông Jacob đã đi đến vực thẳm khổ nhục nào rồi.
Théodore Herzl sinh năm 1860 tại Budapest (Hung
Gia Lợi), viết báo, soạn kịch và hành nghề ký giả. Nhân vụ án Alfred
Dreyfus, một sĩ quan gốc Do Thái-Alsace trong quân đội Pháp, làm sôi nổi
dư luận Âu Châu năm 1894, Herzl được toà báo Neue Freie Press (tân Tự
Do) phái tới dự thính vụ xét xử và lột lon Dreyfus (ngày 15/01/1895)
trước công chúng Pháp để viết bài tường thuật. Sĩ quan Dreyfus bị Bộ
Quốc phòng Pháp ngờ cho là gián điệp của Đức, bị toà xử tội đày. Dreyfus
một mực kêu oan. Nét mặt ông khi ra toà tại Rennes thật thảm thương,
chân thành, gây lòng trắc ẩn cho một số người trong đó có văn hào Emile
Zola (1840-1902) và ký giả Théodore Herzl.
Nghiệm
thấy chứng cớ xử tội Dreyfus không đứng vững và tin rằng Dreyfus bị hàm
oan, Emile Zola bèn can đảm viết loạt bài bất hủ nhan đề "Tôi buộc tội"
(J'accuse) trên tờ l'Aurore (01/1898) để buộc chính phủ Pháp xét lại
trường hợp của Dreyfus. Bảy năm sau, có đủ tài liệu chứng minh sự vô tội
của Dreyfus, toà phá án và tha bổng Dreyfus. Song, sau 12 năm nằm tù
một cách oan uổng, Dreyfus đã hoá ra con người bỏ đi.
Chính nỗi bất công mà Dreyfus phải hứng chịu đã
thay đổi hẳn một người đồng chủng của ông là Théodore Herzl. Nỗi oan
uổng đó đã làm Herzl gậm nhấm rằng "chỉ vì lỡ sinh ra là người Do Thái
như mình mà Dreyfus phải bị tội oan". Cái án Dreyfus ám ảnh ông khôn
nguôi và non một năm sau, ông viết một cuốn sách nhỏ tựa đề "Quốc gia Do
Thái", xuất bản tại Vienne (Áo) năm 1896. Sách được dịch ra nhiều thứ
tiếng. Trong sách có đoạn viết "người Do Thái nào muốn có một quốc
gia của mình thì sẽ có một quốc gia và xứng đáng được có quốc gia". Ấy
vì "chỉ có mình mới tự cứu mình được thôi, và vấn đề Do Thái phải do
người Do Thái giải quyết lấy".
Herzl
hoạt động hăng say không tiếc sức. Chu du khắp nơi, gặp gỡ hết thảy các
nhân vật có thẩm quyền lúc bấy giờ. Năm 1903, người Anh muốn tặng ông
xứ Ouganda ở trung bộ Phi Châu, đảo Chypre ở Địa Trung Hải để thành lập
quê hương Do Thái, nhưng những người Do Thái ở Nga - đặc biệt Chaïm
Weizmann, sau nầy thành vị tổng thống đầu tiên của Israël - nhất định
không chịu, kiên quyết đòi về đất Palestine cho bằng được.
Quá
lao tâm lao lực ngày đêm tranh đấu thuyết phục các chính quyền, liên
lạc với đồng bào trên thế giới, Herzl kiệt sức và qua đời tại Vienne
(Áo) năm 1904 hồi mới 44 tuổi.
Năm
1914, Thế chiến 1 bùng nổ. Đồng minh trông cậy rất nhiều vào Anh quốc
vì bấy giờ Anh làm bá chủ trên biển. Nhà cầm quyền nước Anh lúc đó vô
cùng bối rối vì các nguyên liệu chế tạo thuốc nổ của họ thiếu một chất
cốt yếu, đó là chất acétone. Trong những ngày khủng hoảng đó, nhà bác
học Anh gốc Do Thái Chaïm Weizmann (1874-1952) đã sáng suốt nắm lấy cơ
hội, chế biến được chất acétone nhân tạo giúp đồng minh đánh bại Đức năm
1918. Đế quốc Ottoman sụp đổ. Thực dân Anh cưỡng chiếm Palestine.
6. Xin lưu ý:
Palestine
không phải là một quốc gia mà là một vùng đất mênh mông thuộc đế quốc
Ottoman, 1453-1917. Thế chiến 1 chấm dứt năm 1918, thực dân Pháp ‘được
ủy nhiệm’ vùng Bắc Phi (Maroc, Algérie, Tunisie, Libye) và bắc Cận Đông
(Syrie và Liban). Palestine nằm dưới sự ‘ủy nhiệm’ của thực dân Anh, nơi
đây gồm các tộc Ả Rập Hồi giáo, Thiên Chúa giáo và Do Thái, được gọi
chung là Palestiniens (cư dân vùng Palestine).
Để
thưởng công ông, thủ tướng Anh Lloyd George tặng ông một chi phiếu ký
tên nhưng để trống ô ghi số tiền. Ông từ chối và nói "xin thủ tướng hứa
với tôi là sẽ dùng hết uy quyền của thủ tướng để cho đất Palestine được
trả lại cho người Do Thái chúng tôi".
Quê
hương Do Thái được thành lập vào năm 1922 nhưng bị đặt dưới quyền bảo
hộ của Anh, tức là có tiếng mà không có miếng (Tuyên ngôn Balfour ngày
02/11/1917).
Năm
1938, thực dân Anh đề nghị chia khoảng 30% lãnh thổ Palestine thành hai
quốc gia: Một Ả Rập và một Do Thái, nhưng sự việc không thành, năm
1939.
Phải
đợi đến cuối thập niên 1940 quốc gia Do Thái mới thành một thực tại độc
lập. Trong Thế chiến 2, một lần nữa người Do Thái đã anh dũng chiến đấu
phía đồng minh, đặc biệt bên cạnh Anh mặc dù người Anh đã một lần xảo
quyệt phụ rẫy công lao của họ (cho đất mà không cho quyền tự trị).
Khi
Thế chiến 2 kết liễu (1945), hy vọng độc lập của người Do Thái lại bay
theo khói súng. Công chung sức diệt Đức Quốc Xã của họ không được Anh
đếm xỉa tới. Sự kiện nầy trách Anh là chuyện thừa vì sự thành lập một
quốc gia Do Thái độc lập ảnh hưởng đến lẽ sống chết của Anh: các mỏ dầu
hỏa của Anh nằm hết bên các xứ Ả Rập – Ai Cập, Syrie, Ả Rập Séoudite,
Cisjordanie - những quốc gia tử thù truyền kiếp với Do Thái.
Nghị
quyết 181 của Liên Hiệp Quốc, ngày 29/11/1947, tán thành giải pháp chia
đôi toàn bộ lãnh thổ Palestine thành hai quốc gia: Một Do Thái (56,47%)
và một Palestine (43,53%). Thánh địa Jérusalem có một quy chế đặc biệt
dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Khối Ả Rập không chịu, đặc biệt
người Palestine, viện cớ không được tham vấn trong việc phân chia.
Dẫu vậy, ngày 14/05/1948, dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Văn phòng Do Thái (Agence Juive), David Ben Gourion, quốc gia Do Thái được thành lập. David Ben Gourion đọc bản Tuyên ngôn Độc lập:
"Đất
Israël là nơi sinh ra dân tộc Do Thái". Chính nơi đó đã đặt nền móng
cho bản sắc tâm linh, tín ngưỡng và dân tộc của người Do Thái. Chính nơi
đó dân tộc Do Thái đã thực hiện nền độc lập của mình và đã tạo nên một
nền văn hoá có ý nghĩa quốc gia và phổ biến. Chính nơi đó họ đã soạn ra
bản Thánh kinh và đã cống hiến cho thế giới.
Bị
bức bách phải lưu xứ, tản mác trong mọi quốc gia khác, dân tộc Do Thái
vẫn thủy chung với vùng đất Israël, chưa bao giờ họ ngưng nguyện cầu và
ngưng hy vọng trở về để tái lập nền tự do quốc gia của mình.
Thúc
đẩy bởi sự liên hệ lịch sử đó, người Do Thái đã đấu tranh qua bao thế
kỷ để được trở về trên mảnh đất của tổ tiên và tìm lại xứ sở của mình.
Qua mấy thập niên gần đây, người Do Thái đã trở về hàng loạt, khai khẩn
các vùng đất hoang, tái sinh ngôn ngữ, xây dựng các thành phố, các thôn
làng và sắp đặt một cộng đồng năng động và tràn đầy phát triển, có đời
sống riêng về kinh tế và văn hoá. Họ cầu tìm hoà bình đồng thời sẵn sàng
để tự vệ. Họ đã mang lại nhiều lợi ích trong tiến bộ cho mọi cư dân
trong xứ và đã được chuẩn bị cho nền độc lập tối cao.
Năm
1897, hội nghị Sionisme [chủ nghĩa người Do Thái tự trị] lần thứ nhất,
cảm hứng từ dự phóng một quốc gia Do Thái của Théodore Herzl, đã công bố
quyền của dân tộc Do Thái trong mùa xuân mới dân tộc trên chính quê
hương của họ.
Quyền
đó đã được bản Tuyên Ngôn Balfour công nhận ngày 02 tháng 11 năm 1917
và được Hội Quốc Liên [Liên Hiệp Quốc] tái xác định, do đó đã thành sự
công nhận quốc tế chính thức về mối liên hệ lịch sử của dân tộc Do Thái
với vùng đất Palestine và quyền tái lập quê hương của họ.
Thảm
hoạ Shoah (8) đã tiêu diệt hàng triệu người Do Thái tại Âu Châu, thêm
một lần nữa chứng minh nhu cầu phải giải quyết vấn đề thiếu tổ quốc và
độc lập của dân tộc Do Thái bằng sự tái lập quốc gia Do Thái hầu mở cửa
cho mọi người Do Thái và trao cho họ một quy chế bình đẳng trong lòng
cộng đồng các quốc gia.
Những
người sống sót trong cuộc thảm sát tại Âu Châu cũng như những người Do
Thái từ các quốc gia khác không hề buông bỏ sự cố gắng của họ để tìm về
Israël, bất chấp mọi khó khăn, mọi trở ngại, mọi tai ương; và họ không
ngưng đòi hỏi quyền có một đời sống có phẩm cách, có tự do và có công ăn
việc làm liêm chính trên mảnh đất của tổ tiên họ.
Trong
Thế chiến 2, sát cánh với các quốc gia yêu chuộng tự do, cộng đồng Do
Thái Palestine đã đóng góp trọn vẹn phần mình trong chiến đấu chống lại
ách Đức Quốc Xã. Với những hy sinh của quân sĩ và những cố gắng của họ
trong chiến tranh, người Do Thái xứng đáng được có mặt giữa những quốc
gia sáng lập Liên Hiệp Quốc.
Ngày 29 tháng 11 năm 1947, Hội Đồng LHQ đã tán thành một nghị quyết về việc tái lập một quốc gia Do Thái tại Palestine.
Hội
Đồng đã yêu cầu cư dân trong xứ dùng mọi phương sách cần thiết để thực
thi nghị quyết đó. Sự công nhận của LHQ về quyền của dân tộc Do Thái
được phép tạo dựng một quốc gia độc lập cho họ [là sự công nhận] không
thể vãn hồi.
Đó
là quyền tự nhiên của dân tộc Do Thái, cũng như mọi quốc gia khác đã
làm, hướng tới một hiện hữu độc lập trong đất nước tối thượng của họ.
Vì
thế, chúng tôi, các thành viên trong Hội Đồng Quốc Gia, đại diện cho
cộng đồng Do Thái Palestine và phong trào Sionisme Thế Giới, họp mặt
trong đại hội long trọng hôm nay – ngày chấm dứt sự ủy nhiệm của người
Anh tại Palestine - bằng vào quyền tự nhiên và lịch sử của dân tộc Do
Thái và chiếu theo nghị quyết của Hội Đồng LHQ, chúng tôi công bố việc
thành lập một quốc gia Do Thái tại Palestine, [quốc gia đó] sẽ có tên là
Israël.
Chúng
tôi tuyên bố rằng kể từ khi chấm dứt sự ủy nhiệm, vào nửa đêm ngày 14
tháng 05 năm 1948, và cho đến khi các cơ quan nhà nước thường trực được
bầu chọn đúng theo bản Hiến pháp sẽ được hoàn chỉnh bởi một Hội đồng từ
nay cho đến ngày 01 tháng 10 năm 1948, Hội Đồng Quốc Gia sẽ hành động
với tư cách Hội Đồng Tham Chính Lâm Thời và nền hành chính trong nước sẽ
thi hành nhiệm vụ của một chính phủ lâm thời của quốc gia Do Thái tên
gọi là Israël.
Quốc
gia Israël (QGI) sẽ mở cửa đón nhận mọi con dân Do Thái tản mác trên
thế giới; QGI sẽ lưu tâm đến sự phát triển đất nước vì phúc lợi của mọi
cư dân trong xứ; QGI sẽ được đặt nền tảng trên các nguyên tắc của Tự do,
Công bằng và Hoà bình đúng theo những gì mà các vị tiên tri Israël đã
cưu mang; QGI sẽ bảo đảm sự bình đẳng toàn diện về xã hội và chính trị
cho mọi công dân, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc hay giới tính; QGI
sẽ bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo, giáo dục và văn hoá; QGI sẽ bảo
đảm việc bảo vệ các thánh địa của mọi tôn giáo và sẽ tôn trọng những
nguyên tắc trong Hiến chương LHQ.
QGI
sẵn sàng hợp tác với các tổ chức và đại diện của LHQ để thực thi nghị
quyết đã được biểu quyết bởi Hội Đồng ngày 29 tháng 11 năm 1947 và dùng
mọi phương sách cần thiết hầu đặt để sự Liên kết Kinh tế trên toàn lãnh
thổ Palestine.
Chúng tôi yêu cầu LHQ giúp đỡ dân tộc Do Thái tạo dựng đất nước họ và thừa nhận Israël trong gia đình các quốc gia.
Là
nạn nhân của sự công kích đặc trưng, tuy vậy chúng tôi yêu cầu các cư
dân Ả Rập [sinh sống] trên đất nước Israël hãy dự phòng những đường
hướng hoà bình và đóng góp vai trò của mình vào việc phát triển đất nước
trên căn bản công dân đầy đủ và bình đẳng và tư cách thích đáng trong
các cơ quan và học viện – lâm thời và thường trực - của xứ sở.
Chúng
tôi dang tay, với biểu hiện hoà bình và láng giềng tốt, hướng tới mọi
quốc gia và dân tộc bao quanh chúng tôi và chúng tôi kính mời họ đến hợp
tác với quốc gia Do Thái độc lập vì điều tốt đẹp chung cho tất cả. QGI
sẵn sàng góp phần mình vào sự tiến bộ của Cận Đông và trong toàn thể.
Chúng
tôi yêu cầu con dân Do Thái trên thế giới hãy sát cánh với chúng tôi
trong trọng trách hồi cư và phát triển cũng như hãy giúp chúng tôi trong
cuộc tranh đấu thực hiện lại giấc mơ của bao thế hệ đã trôi qua: Chuộc
lại Israël.
Vững
tin vào đấng vĩnh hằng toàn năng, chúng tôi ký bản Tuyên ngôn nầy trong
phiên họp của Hội đồng Quốc gia lâm thời, trên bờ cõi của tổ quốc,
trong châu thành Tel Aviv, rạng ngày lễ Sabbat, 5 Iyar 5708 tức ngày 14
tháng 05 năm 1948."
(HLN tạm dịch theo bản tiếng Pháp. Nguyên tác có ở đây)
* David Ben Gourion (1886-1973, đồng sáng lập viên
đảng Mapaï) là thủ tướng đầu tiên của Israël, nhiệm kỳ 1: 1948-1954.
Năm 1954 đương tại chức, ông bình thản nhường quyền cho Moshé Sharett
(đảng Mapaï) mà chẳng một lời ‘kể công lập quốc’. Vì chính sự nhiễu
nhương, D. Ben Gourion trở lại làm thủ tướng nhiệm kỳ 2, năm 1955 đến
năm 1963, rồi lại nhường quyền cho Levi Eshkol (đảng Mapaï, sáp nhập vào
đảng Lao Động năm 1968). Ông mất năm 1973, thọ 87 tuổi. Ta có thể
nghiêng mình gọi 2 lần từ nhiệm của D. Ben Gourion là trường hợp Công
Thành Thân Thoái. Tự biết bản thân chỉ thật thụ hữu dụng trong giai đoạn
lập quốc, uy tín của mình ổn định được sự tranh chấp nội chính nhưng
cũng tự biết mình vụng về trong việc kiến quốc, ông đã từ quan về sống
trong sa mạc Neguev đến cuối đời, để tiếng thơm thiên cổ. Tôi chợt nhớ
lại huyền sử Phù Đổng Thiên Vương: Đuổi xong giặc Ân, Thánh Dóng tim
thịt phóng ngựa tim thịt biến mất trên ngọn Sóc Sơn, nhờ thế, lưu danh
muôn thuở. Khác hẳn ai đó đuổi được giặc Ân rồi lại biến thành giặc Ân,
bạo ngược hơn giặc Ân, do đó khắc xú vạn niên.
7. Kiến Quốc
Giành được nền độc lập không có nghĩa quốc gia Do
Thái sẽ được sống trong hoà bình để kiến thiết khi chung quanh họ các
nước thù địch trong Liên đoàn Ả Rập (được thành lập từ 1945) vẫn nhất
quyết tận diệt họ. Ngay trong ngày Tuyên bố độc lập (14/05/1948), họ đã
phải cầm súng chiến đấu, và đánh tan sự bũa vây trùng điệp của Liên đoàn
Ả Rập có quân số đông hơn họ gấp bội. Hơn nữa, như chúng ta đã biết, có
quá nhiều khác biệt trên mọi phương diện giữa người Do Thái với nhau và
vùng đất mới được độc lập của họ vốn đã "chết" quá lâu, ảnh hưởng rất
nhiều đến lẽ sinh tồn của họ.
Công
việc đầu tiên mà Bộ Quốc gia Giáo dục Istaël gấp rút xúc tiến sau ngày
14/05/1948 là thống nhất tiếng Hébreu thành quốc ngữ. Thật vậy, sau
2.000 năm phiêu bạt khắp hoàn cầu, con cháu Abraham không những đã mất
đi ít nhất 99% huyết thống chính tông trong người mà tiếng mẹ đẻ chẳng
còn mấy người nói được. Thời mới phục hồi nền độc lập, dân số Israël
được hơn một triệu gồm trên 50 giống người và mỗi giống mỗi ngôn ngữ,
mỗi nếp sống, mỗi trình độ văn minh, văn hoá.
Để
thống nhất ngôn ngữ, Bộ Quốc gia Giáo dục Israël cưỡng bách mọi công
dân Israël phải học tiếng Hébreu, soạn những sách phổ thông dạy từ 500
đến 1.000 tiếng căn bản để sau vài tháng dân chúng có thể đàm thoại với
nhau được. Đồng thời Bộ còn cho dịch những danh từ mới về mọi ngành ra
tiếng Hébreu để cho soạn sách từ cấp tiểu học đến đại học, tìm trong
Thánh kinh những chuyện cổ để dịch ra những ý niệm mới.
Vậy
mà trong vòng 10 năm sau, ngành giáo dục của họ đã bắt kịp các nước tân
tiến nhất. Ngôn ngữ mới được hồi sinh mà con cháu Abraham đã muốn tranh
giành ảnh hưởng với các ngôn ngữ Anh, Pháp, Đức!
Hai
đại học lớn nhất tại Israël là đại học Jérusalem gồm đủ phân khoa và
Viện Công nghệ, nơi đào tạo các kỹ sư đủ mọi ngành, đặc biệt ngành canh
nông và kỹ nghệ. Ngoài ra còn có một viện chuyên về nghiên cứu là Viện
Khoa học Weizmann – tên vị tổng thống đầu tiên của họ – ở Rehovoth với
những ngành như vật lý, hạch tâm, điện tử, vi trùng học, vật lý thực
nghiệm..., một đại học ở Tel Aviv và nhiều trường đại học khác khắp
nước.
*
Tân tiểu quốc Israël nằm trên bờ Địa Trung Hải, phía bắc
giáp Liban và Syrie, phía đông giáp Jordanie, phía tây nam giáp Ai Cập,
phía cực nam giáp Hồng Hải.
Diện tích (2012): 20.770 cây số vuông (7.477 cs
vuông là đất chiếm đóng sau các cuộc chiến với Liên đoàn Ả Rập đặc biệt
vào năm 1967), xếp hạng 148 trên thế giới, với nhiều miền có khí hậu
khác hẳn nhau. Họ nhất quyết muốn lấy thành phố lớn nhất là Thánh địa
Jérusalem làm thủ đô nhưng cho đến nay (2013), vì vấn đề Palestine, chỉ
có hai quốc gia trên thế giới công nhận Jérusalem là thủ đô của Israël,
đó là Salvador và Costa Rica. Do đó, trong mắt thế giới, châu thành ven
biển tân tiến, đẹp đẻ, sạch sẻ Tel Aviv được coi như thủ đô tạm thời. Tel Aviv
có nghĩa là Đồi Xuân. (Tôi đã sửng sờ, kinh ngạc xiết bao khi tận mắt
nhìn thấy một Tel Aviv huy hoàng, hiện đại chẳng kém Nice, Cannes của
Pháp tí nào và ghê cho sự năng động, quyết tâm của họ).
Các thành phố chính khác: Haïfa, Rishon Le-Zion, Petah Tiqwa, Ramat Gan, Beercheba, Nazareth.
Dân số:
+/- 8 triệu người (năm 2013, xếp hạng 94), trong đó có khoảng 20% là
người Ả Rập (91% theo đạo Hồi, 9% theo đạo Thiên Chúa), 4,5% là mấy cộng
đồng khác như Druzes, Bédouins, Arméniens…; 75,5% còn lại gồm 53 thứ Do
Thái từ khắp nơi tụ về trong phong trào hồi hương tập thể. Xin lưu ý,
từ khi thành lập quốc gia Israël (1948) người Do Thái ở trong nước được
gọi là Israéliens / Israelis (công dân quốc gia Israël) để phân biệt với
những người Do Thái ở hải ngoại (Juifs / Jews), theo ước tính năm 2010
là 7,5 triệu; bên Mỹ có gần 6 triệu, bên Pháp có khoảng 500 ngàn.
Tổng sản lượng quốc gia:
245,266 tỉ US$ (năm 2011, xếp hạng 41). Israël đứng thứ 4 trên thế giới
về xuất cảng vũ khí, sau Mỹ, Tàu và Pháp. Chúng ta đừng quên cha đẻ các
loại bom Nguyên tử, H, Hạch nhân đều là người Âu Mỹ gốc Do thái.
Thu nhập bình quân người / năm: 32,298 US$ (năm 2011, xếp hạng 27)
Tiền tệ: Shekel, ký hiệu: NIS (New Israeli Shekel)
1 NIS = 0,20€ / 0,27 US$ - 1 € = 4,91 NIS; 1 US$ = 3,66 NIS (20/02/2013)
Ngôn ngữ: Tiếng Hébreu và tiếng Ả Rập. Ngoại ngữ thông dụng là tiếng Anh và tiếng Pháp.
Chế độ chính trị:
Cộng hoà Đại nghị (République parlementaire). Đa đảng (13 đảng). Hai
đảng lớn mạnh nhất hiện nay là đảng Lao Động (tả phái) và đảng Likoud
(hữu phái) đang chia quyền. Quốc hội (Knesset) gồm 120 nghị viên, có
nhiệm vụ biểu quyết quyền lập pháp và kiểm soát chính phủ (hành pháp).
Tổng
thống do quốc hội bầu ra, nhiệm kỳ 7 năm (trước chỉ 5 năm), mang tính
cách biểu tượng, rất ít thực quyền. Tổng thống chỉ định thành phần trong
Tối cao Pháp viện, nhiệm kỳ suốt đời (trong thực tế việc chỉ định nầy
phải thông qua và có sự chấp thuận của Quốc hội). Thủ tướng thường là
người lãnh đạo đảng có số phiếu cao tuyệt đối hay liên minh đa số ghế
trong Quốc hội. Thủ tướng nắm quyền hành pháp, trực tiếp lãnh đạo đất
nước, nhiệm kỳ 4 năm, nhưng khi hữu sự đa số trong Quốc hội có quyền
biểu quyết bải nhiệm Thủ tướng trước hạn kỳ. Ví dụ: Tháng 11 năm 1995,
Thủ tướng Yitzhak Rabin bị ám sát, ông Shimon Peres lên thay nhưng chỉ 6
tháng sau, ông bị đa số trong Quốc hội bỏ phiếu bất tín nhiệm, tổ chức
bầu bán trước hạn kỳ, ông Peres thất cử, ông Benjamin Netanyahou lên nắm
quyền (nhiệm kỳ 1, 18/06/1996 -16/07/1999).
Quốc kỳ
hiện hành của Israël vốn là biểu tượng của phong trào Sionisme từ thế
kỷ19. Nền trắng. Trung tâm là hình sao David sáu cánh với hai gạch màu
xanh dương nằm ngang trên và dưới.
Quốc khánh: 14/05.
Quân dịch (2013): Công dân Israël từ 18 tuổi bất
luận nam hay nữ ở trong hay ở ngoài nước: Nam, 3 năm toàn thời gian; Nữ,
22 tháng toàn thời gian và sau đó 1 tháng dự bị mỗi năm (nam hay nữ khi
còn độc thân).
Quân đội (2012):
187.000 lính tại nhiệm + 445.000 dự bị = 632.000. Lực lượng vũ trang
tuyệt đối trung thành với tổ quốc và dân tộc. Tuyệt đối đứng ngoài mọi
tranh chấp giữa các đảng phái chính trị trong nước, kể cả đảng đang cầm
quyền.
Đề tựa cuốn Les murailles Israël
của Jean Lartéguy, tướng độc nhãn Moshé Dayan (1915-1981) viết đại để
"Bí mật sức mạnh của quân đội chúng tôi bắt nguồn từ nguyên tắc các sĩ
quan đã được học hỏi là không bao giờ chiến đấu đàng Sau binh sĩ của
mình, nhưng càng về phía Trước họ càng hay". Thông thường khi lâm trận,
sĩ quan trong quân đội các xứ khác thường thúc quân "hãy tiến lên", còn
sĩ quan Israël lại hô "hãy theo tôi".
Đến
đầu năm 2013 này, Israël vẫn chưa có văn bản chính thức về Hiến pháp,
mặc dù trong bản Tuyên ngôn độc lập đã có lời hứa "Hiến pháp sẽ được
hoàn chỉnh bởi một Hội đồng từ nay cho đến ngày 01 tháng 10 năm 1948".
Mọi điều hành của chính phủ thường dựa vào 14 điều luật cơ bản (14 lois
fondamentales d’Israël) đã được Quốc hội thông qua, cùng các quy ước lập
hiến và bản Tuyên ngôn độc lập (1948).
Theo
tôi, không phải vô tình mà Israël chưa "có nổi" một bản Hiến pháp chính
thức đâu: Trước tiên, do mâu thuẩn Thần quyền và Thế quyền vẫn chưa
được giàn xếp ổn thoả; kế đến là hậu ý muốn cô lập hay vô hiệu hoá nhóm
công dân gốc Ả Rập (+ /- 1.5 triệu) trên mặt chính trị đối nội lẫn đối
ngoại, ít ra cho đến khi Israël giải quyết êm thấm và bền vững được sự
xung đột với Palestine và khối Ả Rập. Chưa có Hiến pháp chính thức thì
nhóm chủ thể Ashkénaze dễ dàng nắm trọn quyền điều hành đất nước. Ý kiến
về bản Hiến pháp được toàn dân phúc quyết đã được nêu ra, đòi hỏi cũng
đã được lên tiếng, kêu gào từ nhiều chục năm qua, nhưng, viện cớ còn
chiến tranh, Knesset "xin ghi nhận và đang nghiên cứu".
Việc
kiến thiết tân quốc gia Israël, xét chung, người dân phải bắt đầu từ
con số không. Ở đây, tôi chỉ xin đơn cử vài ví dụ điển hình mà theo tôi
tóm gọn được nổ lực siêu phàm san bằng những trở ngại thiên nhiên của
họ. Đó là sự phát triển kinh tế trên bãi sa mạc Neguev, "kẻ thù số một
phải khuất phục của Israël" theo lời bà Golda Meir, Thủ tướng Israël,
1969-1974).
Sa
mạc Neguev (Neguev = Phía Nam) rộng hơn phân nửa diện tích toàn xứ
Israël (13.000 cs vuông), nằm phía nam châu thành Tel Aviv, đỉnh cực nam
là Hồng Hải với thành phố biển Eilat. Trước Thế chiến vừa qua, Neguev
hoàn toàn hoang vu khô cháy, lồi lõm. Văn minh tiến bộ như thực dân Anh
mà còn chịu thua, không sao khai thác được.
Theo
tôi, có hai nguyên nhân sâu xa khiến chính phủ Israël phải khai phá
vùng cát "chết" nầy. Một là để nuôi dân: đất đai thì hẹp mà dân số tăng
rất nhanh (qua các phong trào hồi hương tập thể). Hai là để củng cố mặt
quốc phòng: không để khoảng đất rộng nào không có người ở hầu tránh sự
xâm nhập của kẻ thù, đặc biệt vùng đất thuộc dải Gaza từ năm 1967.
8. Chiến thắng sa mạc
Thường tình người ta chỉ tính năng suất của đất đai theo
diện tích, có nghĩa là mức sản xuất hàng năm được bao nhiêu mỗi éc-ta.
Riêng tại Israël thì sự tính toán hơi lạ đời vì dân ở đây tính năng suất
theo... khối nước tưới! Mỗi năm có bao nhiêu nước và mỗi khối nước sinh
lợi được bao nhiêu. Bởi vậy, một mặt họ lo cách thức kiếm nước, một mặt
họ tìm mọi cách hầu tránh chuyện nước bị hao hụt đi, chẳng hạn nước bị
bốc hơi hay thấm vào lòng đất.
Phương
pháp dẫn thủy nhập điền rất công phu tỉ mỉ ở Việt Nam hay bên Tàu đã
làm thế giới ngạc nhiên, song đem so với những nổ lực phi thường của dân
tộc được Chúa chọn thì hãy còn kém xa.
Mỗi
năm vùng sa mạc Neguev chỉ giữ được từ 2 đến 4 phân nước. Như vậy, muốn
trồng trọt thì phải có nhiều nước, nhưng làm thế nào?
Vấn
đề thiếu nước ở Israël là nguyên nhân sinh ra lắm thứ thuế oái oăm. Ví
dụ: Trong giá tiền một chai bia được tiêu thụ, một nửa là thuế dành cho
công cuộc tìm nước. Họ đã nghĩ đến việc đào giếng, dùng nước mưa và nước
biển, nhưng lấy đâu cho đủ nước trong khi ở đây mưa chẳng mấy lúc; còn
nước biển thì ngoài công dụng cho kỹ nghệ ra, súc vật còn chịu không
thấu huống hồ cỏ cây. Cho nên họ bèn thăm dò những dòng nước ngầm dưới
lòng đất nằm ven biển và đã khám phá ra những nơi nầy có một tầng đất
không thấm nước, chứa lại khá nhiều nước ngọt, chẳng hạn trong khu
Avedat.
Hiện
nay số nước rút được từ các nơi đó là khoảng 200 triệu thước khối trong
một năm. Những vùng có nước ngầm đã trở nên bồn nước thiên nhiên dành
cho cả khu vực Yarkon - Neguev. Nhất là từ khi sử dụng được dòng sông
lịch sử Jourdain, tổng lượng số nước rút được hàng năm lên tới 5, 6 tỉ
thước khối đủ dùng cho mọi nhà, mọi ngành kỹ nghệ và 4 triệu dounams đất
khô cháy (10 dounams tương đương với 1 éc-ta).
Để
tránh việc phí phạm nước, dân israéliens bơm xuống lòng đất hàng triệu
thước khối nước – kể cả nước cống đã được lọc và khử trùng – cho khỏi bị
bốc hơi. Thật chưa dân tộc nào cần "nước" như người Do Thái. Song, xét
ra phương pháp đặt ống dẫn nước vẫn hiệu nghiệm hơn cả. Ống dẫn nước ở
Israël có lẽ là loại ống dẫn kỹ lục: dài từ 4 đến 170 cs, nặng không
dưới 32 tấn, mỗi đoạn 5 thước đường kính và 3 thước bề dài, đặt ngay
trên mặt đất, có khi phải xuyên núi, vượt đèo và thung lũng. Hệ thống
dẫn nước của họ là cho nước chạy theo ống dẫn lớn, qua ống nhỏ, phân ra
làm muôn ngàn nhánh mỗi lúc mỗi bé để rồi tung ra ruộng nương, vườn tược
qua các máy nước chẳng khác gì các trận mưa nhân tạo.
Nước chảy đến đâu, người dân tìm theo đến đấy và sự canh tác tiến triển tùy nhịp nước lan mau hay chậm.
Thủ đô của sa mạc Neguev là thành phố Beersheva,
tụ điểm của hầu hết những người Do Thái hồi hương từ khắp nơi trên thế
giới. Chính Abraham đã đặt ra tên Beersheva (Giếng thề).
Dưới
bầu trời sa mạc nóng cháy Neguev (trung bình 36° C), người ta thấy gồm
đủ hạng người, từ anh kỹ sư (thứ thiệt 100%), nhạc sĩ đến chị bán hàng,
chú thợ máy; từ bác tiến sĩ (thứ thiệt 100%), thím giáo sư đến cô y tá,
em sinh viên, cậu cu li. Bấy giờ mọi dị biệt xã hội giữa họ đều được san
bằng, tất cả chỉ còn là những đứa con của Israël chung vai sát cánh hồi
sinh vùng Đất Hứa.
Nhờ
những cố gắng, những hy sinh như thế mà ngày nay du khách ghé Israël sẽ
thấy cả vùng sa mạc Neguev đã mơn mởn màu xanh của lúa và trổ đầy hoa
trái. Các giống nho lừng danh của Pháp như Bordelais, Beaujolais,
Bourgogne cũng đã "sống khoẻ" trên sa mạc, khai sinh ra một thứ rượu
vang nổi tiếng trong vùng Darom. Mỗi độ thu về, các vườn cam, vườn quýt,
vườn bưởi, vườn chanh, vườn chuối, vườn chà-là... trổ bông, hương thơm
ngào ngạt đến tận châu thành Tel Aviv.
Và không thể không nhắc tới tiến sĩ Samuel Appelbaum
(sinh năm 1942), giám đốc trung tâm Bengis thuộc đại học Ben Gourion
(Beersheva), người đã thành công trong công trình nghiên cứu ứng dụng
nước mặn và nóng dưới lòng sa mạc Neguev vào canh tác trồng trọt, đặc
biệt như Aquaculture và Pisciculture (tạm dịch: Thủy canh và Bể canh).
Trước thập niên 1990, ý nghĩ nuôi tôm cá trên sa mạc là điều không
tưởng, là ý tưởng làm phịch cười giới khoa học, thế mà Samuel Appelbaum
đã kiên trì và đã làm được, do đó được mệnh danh là nhà tiên tri thời
hiện đại.
9. Tìm hiểu Hezbollah, kẻ tử thù số 1 hiện nay của Israël
Có hai Hezbollah hoàn toàn độc lập: Hezbollah Liban và Hezbollah Turc (Thổ Nhĩ Kỳ). Ở đây chỉ nói về Hezbollah Liban.
Trong
bài này, tôi chọn sơ lược về Hezbollah Liban thay vì Tổ chức Giải phóng
Palestine (OPL/PLO) là vì chủ quan nghĩ rằng OLP/PLO đã quá nổi tiếng
trên thế giới từ lâu, hơn nữa từ khi kế nhiệm chủ tịch Yasser Arafat,
ông Mahmoud Abbas đã có ít nhiều biểu hiện bớt căng với Israël.
Hezbollah theo tiếng
Ả-rập có nghĩa là Đảng của Thượng Đế (Parti de Dieu), gồm các tín đồ Hồi
giáo người Liban theo hệ Chiite (đối lập là hệ Sunnit), được thành lập
năm 1982, ngay sau khi Israël đưa quân qua phản kích tự vệ và chiếm đóng
Liban năm 1982 (1982-2000), nghĩa là Hezbollah có tính cách Kháng chiến
chống ngoại xâm. Mục đích của Hezbollah là dựng nên một quốc gia Hồi
giáo rập mẩu Iran và phủ nhận mọi sự hiện diện không Hồi giáo tại Cận
Đông. Hezbollah có độ 65.000 thành viên, trong đó có những lực lượng đặc
nhiệm được đào tạo và huấn luyện kỹ càng; liên kết chặt chẻ với phong
trào Fatah / Organisation de Libération de la Palestine (OLP/PLO, Tổ
chức Giải phóng Palestine), thành lập năm 1964) từ sinh thời chủ tịch
Yasser Arafat (1929-2004), được Syrie và Iran ủng hộ, cụ thể về mặt tài
chánh. Bản doanh của Hezbollah đặt tại nam Liban. Báo chí Âu Tây ví
Hezbollah như một quốc gia trong một quốc gia (Liban). Về mặt truyền
thông, tuyên truyền Hezbollah có đài truyền thanh, truyền hình riêng.
Lãnh tụ hiện nay là Cheikh Sayyed Hassan Nasrallah, sinh 30/08/1960,
lãnh đạo Hezbollah từ 1992, sau khi lãnh tụ Abbas al-Mousawi bị ám sát.
Israël và Hezbollah (+ OLP/PLO) đụng nhau đẫm máu hầu như cơm…tuần, ghi không xuể; vả lại chẳng ích gì. Chỉ biết rằng:
"[...] Mọi sự sống bị
mất đi trong chiến tranh là sự sống của mỗi con người, dẫu là Ả Rập hay
Israël. Mọi phụ nữ mất chồng là một con người có quyền sống trong một
gia đình hạnh phúc, dẫu là Ả Rập hay Israël. Những đứa trẻ bị cướp đi sự
chăm sóc của người cha là những đứa trẻ của mỗi chúng ta, trên đất Ả
Rập hay trên đất Israël và chúng ta có bổn phận to lớn là lo toan sao
cho chúng có được một hiện tại sung sướng và một tương lai tốt đẹp." (11).
Tóm
lại, theo tôi, cuộc xung đột tan hoang và đẫm máu này hai bên đều sẽ đại
thắng cũng như đều sẽ đại bại trong những tháng năm sắp tới. Vậy ai là
kẻ thật sự thắng và thủ lợi? Cụ thể trước mắt là ai sẽ đóng các vai
chính trong việc tái thiết? Và ai sẽ là tác giả bản chiết tính về nỗi
đau thương mà dân tình đôi bên phải gánh chịu?
Từ lâu
tôi vẫn thắc mắc, nước Mỹ cùng các đồng minh như Gia Nã Đại, Anh, Liên
hiệp Âu châu... và đương nhiên Israël, dựa vào nguyên tắc "thật sự
thật", lý do nhân bản "thật sự thật" nào để chấm điểm nước kia, nhóm nọ
(trong đó có Hezbollah), liệt vào danh sách đen, chẳng hạn "khủng bố",
"đáng quan ngại"...? Tất nhiên, đời nào tôi lại ủng hộ chuyện độc tài
hay khủng bố, nhưng nếu đứng từ ngoài nhìn vào, tôi thấy phe nào cũng
hữu lý và phi lý hay siêu lý, đều ranh ma và ngu xuẩn, mà đại đại ngu
xuẩn là người dân Do Thái và người dân khối Ả Rập nói chung. Dĩ nhiên
tôi cũng hiểu là cả hai bên đều đã tự đánh mất thế chủ động kể từ Cuộc
Chiến Sáu Ngày (05- 10/06/1967). Hai bên là hai con gà chọi nhưng có
nhiều ông bà chủ. Đức Giê-su, Đức Phật, Đức Mahomed, Đức Yewah, hay bất
cứ Đức nào có tái thế, hạ trần và nếu chỉ dùng đối thoại ‘người’ bình
thường (vì chẳng thiếu gì người vẫn còn quyết tín rằng chư vị đại nhân
này có phép mầu, nên tôi phải thủ trước cho chắc), cũng vô phương thuyết
phục được tôi là Mỹ và đồng minh tự nguyện (hay tự phong) làm giám khảo
là do xuất phát từ cái thiện tâm không tì vết. Vạn sự rối tung rối mù,
máu đổ thịt rơi, trước trước hết và sau sau cùng, là từ cái thứ chất
lỏng lỏng màu đen đen vừa chí ích, vừa chí hại là dầu lửa. Nói như cụ Nguyễn Hiến Lê, trong cuốn Bán đảo Ả Rập và Dầu lửa, trang giới thiệu: "Ta
cứ ví dụ rằng bao nhiêu kinh sách của các tôn giáo đó bỗng dưng mất hết
và tất cả các tu sĩ trên thế giới bỗng ăn cháo lú, quên hết những lời
Chúa dạy, Phật dạy, (tôi thêm: Mohamed dạy, Yewah dạy) thì nhân
loại có thể kém văn minh một chút, nhưng nhất định là vẫn tồn tại. Nhưng
nếu các giếng dầu trên thế giới bỗng nhiên "đột tử" như giếng Kirkuk
năm 1940 thì chẳng những cả nền văn minh vĩ đại của chúng ta sụp đổ mà
nhân loại sẽ chết đói chết rét đến một nửa là ít. Không có dầu lửa thì
hết có điện, xe hơi, máy bay, máy cày, máy lạnh, máy sưởi, v.v..., (tôi thêm: hết tham nhũng, hết Internet!);
kỹ nghệ sẽ chết đứng và canh nông sẽ ngắc ngoải. Đã xây mồ cho Dầu lửa
thì tại sao người ta không nghĩ dựng tượng cho Dầu lửa? Muốn cho xứng
thì tượng phải cao lớn gấp hai tượng Thần Tự Do ở New York. Vì Tự do chỉ
là một đứa con đĩnh ngộ của văn minh cơ giới ngày nay – người ta bảo
vậy – mà dầu lửa mới chính là cha đẻ của văn minh đó. Và tôi xin đề nghị
cũng dựng nó ở cửa sông Hudson cho hợp tình hợp lý."
Tôi để ý
từ trước tới nay, các cuộc tấn công Israël của OLP, của Hamas, của
Hezbollah truyền thông Israël và Âu Mỹ gọi là Khủng bố - terroriste
(bình thường hay kamikaze - tự sát). Còn các vụ tàn sát thường dân Ả-rập
nói chung của Israël họ lại kêu là Chiến dịch (Opération), là Đột kích
(Raid). Ôi, có khác gì nhan nhản khắp nơi: xâm chiếm, tàn phá xứ người
thì xưng là giải phóng, là tự vệ; đàn áp, khủng bố, bỏ tù người yêu nước
thì cho là để giữ an ninh xã hội, khắc ghi cái ‘nghĩa ân nhường cơm sẻ
áo’, bảo vệ cái ‘khối tình hữu hảo’; người tổ chức kháng chiến nhưng vì
yếu thế nên phải chơi trò du kích (đánh lén) thì cho đó là phiến loạn,
khủng bố. Ngoại trừ những người chủ mưu và những kẻ chấp hành, chẳng ai
(trong đó có tôi) chấp nhận được chuyện đặt bom hay ôm bom giết hại
thường dân ở các nơi công cộng như 2 vụ tại Luân Đôn, Vương quốc Anh
(08/07/2005) và Charm El-Cheikh, Ai Cập (23/07/2005). Tuy nhiên, đôi khi
cũng cần bình tâm tò mò nhìn lại, nhìn vào hậu trường, đặt ngược sự
tình thành câu hỏi: Do đâu có khủng bố? Mục đích của khủng bố là gì?
Chính quyền của các nạn nhân đã làm gì ở hải ngoại để xảy ra nông nổi
nầy?
Ý nghĩa của mớ danh từ nầy xấu tốt, nặng nhẹ ra sao ai ai cũng thấy rõ:
Ví
dụ, tại Liban, ngày 25/02/2000, thủ tướng Pháp, bấy giờ là ông Lionel
Jospin, trong bài diễn văn, đánh giá nhóm Hezbollah là nhóm khủng bố,
tức khắc tạo ra khủng hoảng ngoại giao Pháp-Cận Đông. Lần đầu tiên, từ
sau 1956, khoảng 5.000 người Liban đưa nhau xuống đường phản đối Pháp dữ
dội vì Liban vẫn coi Hezbollah là một phong trào kháng chiến chống
ngoại xâm Israël.
Nhưng
mà thôi, vạn sự hoàn toàn tùy mỗi góc độ nhận định, cứ tạm cho là giặc
chữ nghĩa để khỏi phải viết dài hơn. Có điều chúng ta đừng quên rằng,
hầu hết các phương tiện truyền thông Âu Mỹ, nếu truy nguyên ra, đều nằm
trong tay các công dân bản xứ gốc... Do Thái.
Tấm gương Do Thái
Đọc
lịch sử phục quốc và kiến quốc của dân tộc Do Thái chúng ta học được
rất nhiều điều quí báu, từ tinh thần quốc gia dân tộc đến tinh thần đoàn
kết; từ ý chí phục quốc đến đức hy sinh, sức chịu đựng ghê gớm; từ kinh
nghiệm định cư, giáo dục đến nông lâm mục súc; từ tổ chức cộng đồng đến
tổ chức quân đội, tổ chức chính quyền... Nhưng 2 tấm gương cao quí nhất
mà họ đã gián tiếp vạch ra cho chúng ta thấy, đó là cái họa Thực Dân,
Đế Quốc và nhất là tinh thần Thượng Tôn Quyền Lợi Quốc Gia và Dân Tộc.
Thực dân, đế quốc
nào, bất luận Đông Tây, cũng chỉ nghĩ đến quyền lợi của họ trước hết và
sau cùng, vậy cho nên Bảo hộ, Khai hoá, Hữu nghị, Tương trợ, “Tương
liên, Tương thông, Tương đồng, Tương quan” (9); Đồng chí đồng chấy, Đồng
minh đồng mụn gì gì cũng chỉ là các loại bình phong che đậy dã tâm, tà
vọng trục lợi. Chỉ những phường lú lấp trập trệ như Lê Chiêu Thống, Trần
Ích Tắc mới không thấy điều đơn giản này; hay tập đoàn hậu Thành Đô
1990 tuy thấy rõ nhưng, vì cái gọi là đảng, vẫn giả mù sa mưa đem cả dân
tộc đút đầu vào cái kim cô 16.4 ca-ra khốn khổ khốn nạn. Lỡ gian díu
với thực dân đế quốc cũ hay mới thì chóng chầy thế nào cũng điêu đứng,
lầm than, tàn tạ với họ. Trên thế giới, Việt Nam ta là quốc gia gian díu
với thực dân đế quốc nhiều nhất (Tàu, Tây, Nhật, bộ ba Mỹ-Tàu-Nga, và
nay cụ thể lại là Tàu); kết quả hiện tiền ra sao, chắc chắn không ai
không thấy:
Phong trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả cây kia cỏ nầy.
(Cung Oán Ngâm Khúc, Nguyễn Gia Thiều)
Từ
chính sách Bao cấp, một sớm một chiều, nhảy ù qua chế độ Kinh tế thị
trường (dù vì ‘sĩ diện’ cố thòng bằng được cái đuôi định hướng, tư tưởng
tào lao kia nọ) trên 20 năm nay, mức sống của người dân quả có thay đổi
trong chiều hướng khả quan. Không ai phủ nhận sự hiển nhiên nầy. Điểm
khả quan trong việc ‘đổi mới’ càng rõ nét hơn khi ta so sánh với thời
bao cấp đóng cửa hay bị cô lập, cấm vận đến nỗi “mua cái đinh cũng phải
xin miếng miếng giấy”. Hiện nay (02/2013) thu nhập cơ bản ở ta đã bò lên
được 1.523 US$ người / năm:
Chi tiêu ra sao, có đủ sống không, lại là chuyện khác. Xin miễn biện
bàn. Đó là cái Được hoàn toàn do ‘đổi mới’ theo kiểu tụi giãy hoài không
chết mà người ta muốn sử xanh ghi nhận và người ta cũng muốn và tìm mọi
cách xóa hay lờ tịt đi bao nhiêu cái Mất trong 68 năm duy ý chí bay
theo "Chiếc áo bằng mây"
của thực dân, đế quốc bá quyền đỏ. Ai là người phải chịu trách nhiệm
trước sử xanh đối với khoảng thời gian đăng đẳng bị hoang phí nầy khi so
sánh ta với người? - Đảng phải chịu trách nhiệm! Nhưng đảng là ai? - Đố
ai trả lời đươc.
Hiện nay Israël có tất cả 13 đảng phái chính trị,
trong đó có 3 đảng của công dân Do Thái gốc Ả Rập. Mỗi mùa bầu cử Quốc
hội, các đảng phái cũng vận động sôi nổi, cũng mánh mung tương tự các
nơi khác, nhưng sau đó, đảng nào lên nắm quyền cũng tuyệt đối thượng tôn
quyền lợi quốc gia và dân tộc: Quyền lợi quốc gia vả dân tộc là trước
và trên hết. Quốc gia và dân tộc là số 1. Có thể tóm gọn thành "Dân vi
quí, xã tắc thứ chi, đảng vi khinh". Còn nói trắng ra là trên mảnh đất
nhỏ bé mới hồi sinh này, nhất định không thể hiện hữu thứ đảng phái vô
sĩ đến mức dám viện dẫn ‘công lao lịch sử’
– nhưng lờ tịt những tội ác trời than, những sai lầm đất oán – để khư
khư độc tôn tự tung tự tác, đão điên xứ sở như đã và đang xảy ra ở nước
ta!
Và
người Do Thái gián tiếp cho các dân tộc đang phát triển (nghĩa là chưa
phát triển nếu không muốn nói trong thực tế đang nghèo khó) thấy rằng
một dân tộc càng bị đẩy vào chỗ chết càng mau kiếm được lối sống, miễn
là dân tộc đó có muốn hay không muốn thôi. Một khi đã quyết sống, tự cho
mình là một thực tại dân tộc đặc thù thì thực dân, đế quốc, chủ thuyết
đến từ phía nào cũng phải nhượng bộ, nhìn nhận cái thực tại độc lập đó!
Nô lệ cấp trên và nô lệ cấp dưới cũng là nô lệ thôi!
Non 25
năm qua, tôi làm việc và tiếp xúc khá nhiều với người Do Thái tại Tây
Âu, mày mò tìm hiểu về họ và có dịp may qua Israël tu nghiệp hai lần,
cho nên ngoài niềm khâm phục dành cho họ trên tổng thể, tôi có chút nhận
xét ngoại vi, đó là có sự kỳ thị ngấm ngầm nhưng sâu sắc giữa hai nhóm
Do Thái, đặc biệt cộng đồng Do Thái chủ thể Ashkénaze - tự cho mình là
dân trí thức - vẫn có cái ‘nhìn xuống’ đối với cộng đồng Do Thái
Séfarade (hồi hương từ Bắc Phi) mà họ đánh giá là lái buôn, ít học. Lấy
ví dụ ở Israël cho đến nay không hề có Bộ trưởng nào, cũng như chưa hề
có một thẩm phán Do Thái gốc Ả Rập trong Tối cao Pháp viện. Từ khi lập
quốc năm 1948 đến đầu năm 2013 này, Israël trải qua 9 đời tổng thống, 17
nhiệm kỳ thủ tướng và 10 nhiệm kỳ chủ tịch Tối cao Pháp viên, tất cả
đều gốc Ashkénaze. Đơn cử: 1. Shimon Peres, sinh trưởng tại Wisniew (Ba
Lan, nay thuộc Biélorussie, hậu Liên Xô), thuộc đảng Kadima, nắm quyền
Tổng thống từ 15/07/2007 và 2. Benjamin Netanyahou (Bibi), sinh trưởng
tại Tel Aviv năm 1949 – gia tộc gốc Do Thái Lituanie, thuộc đảng Likoud,
nắm quyền Thủ tướng nhiệm kỳ 2, từ 31/03/2009.
Từ trái: Tổng thống Shimon Peres và Thủ tướng Benjamin Netanyahou
Sau
chiến tranh ném đá 2 (Intifada 2, năm 2000), ở Jaffa, người Ả Rập mua
bán trong các chợ trời Ả Rập, người Do Thái mua sắm trong các siêu thị.
Thu nhập khác nhau, cách sống khác nhau, hai cộng đồng vẫn song hành,
vẫn giao nhau nhưng chẳng thấy nhau. Đạo diễn Avi Mograbi từng viết "họ
đã thành công khi làm biến mất người Ả Rập trên đất nước" vì ở đây
"người ta có thể nghe tiếng Hébreu, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Anh...
và mọi thứ tiếng khác, ngoại trừ tiếng Ả Rập.[...] Văn tự Ả Rập biến mất
trên các tên đường. Mọi bảng hiệu hoàn toàn được kẻ bằng chữ Hébreu và
chữ Anh, kể cả tên họ trên các chuông cửa".
Ngày
01/10/2000, quân đội Israël bắn chết 13 công dân Israël gốc Ả Rập trong
một cuộc biểu tình tại Naplouse. Tại Tel Aviv, một số công dân
Israël-Séfarade nghiệm ra rằng người ta có thể xả súng vào họ như bắn
người Ả Rập Palestine, còn một số công dân Israël-Ashkénaze khám phá ra
rằng các thợ thuyền hay các người giúp việc - gốc Ả Rập - trong gia đình
mình có thể bất ngờ trở thành hiểm họa, cho nên đã thay thế lần lần
bằng các nhân công di cư Nga, Roumanie, Philippine... Cứ đà nầy, Tel
Aviv sẽ thực hiện được giấc mơ thuở ban đầu: Thành phố dành riêng cho
người Do Thái-Ashkénaze.
Do đó
mới nảy ra câu hỏi: Cái gì đã tạo ra cái gì? Khủng hoảng Do Thái -
Palestine đã tạo ra sự kỳ thị Ả Rập hay sự kỳ thị Ả Rập là nguyên nhân
kéo dài không biết đến bao giờ khủng hoảng Do Thái - Palestine?
Và câu hỏi này làm tôi suy nghĩ lung về chúng ta, Trong và Ngoài: "Những
chân lý khác biệt ở vẻ ngoài xem chừng tương tự vô số những chiếc lá
trông khác nhau nhưng nằm chung trên một gốc cây" (10). "Hoà giải hoà
hợp không phải là xảo thuật của các khẩu hiệu để biện hộ cho những thèm
muốn hoặc để che giấu những tham vọng. Hoà giải hoà hợp, trong tinh túy
của nó, thường đối lập với mọi thèm muốn và mọi cuồng vọng... Tôi nói
thật với quí vị rằng, hoà giải hoà hợp chỉ trở thành hiện thực khi nó
được đặt nền móng trên lẽ công bằng... Không thể nào chấp nhận được khi
quí vị đòi hỏi cho quí vị những điều mà chính quí vị từ chối cho kẻ
khác" (11).
(Bản tóm lược và cập nhật, 22/02/2013)
Hàn Lệ Nhân
___________________________________
Chú thích:
(1)
Tam nhân hành tất hữu ngã sư yên, trạch kỳ thiện giả nhi tòng chi, kỳ
bất thiện giả nhi cải chi = Ba người đi (hai người nữa với ta) tất có
hai người làm thầy ta, vậy lựa người thiện mà theo (noi gương), người
bất thiện mà sửa mình.
(2) Hébreu = ở bên kia sông Euphrate.
(3) Xin đọc thêm Exodus của Léon Uris.
(4) Vài danh nhân Âu Mỹ gốc Do Thái:
• Khoa học: Albert Einstein, Jacob Oppenheimer, Chaïm Weizmann.
• Triết học: Karl Marx, Sigmund Freud, Baruch Spinoza, Henri Bergson.
• Văn học: Heinrich Heine, Marcel Proust, Frank Kafka, André Maurois.
• Chính trị: Léon Trotsky, Benjamin Disraeli, Léon Blum, Pierre Mendès-France, Henry Kissinger…
(5)
Thời trước, giáo hội Ki Tô cấm tín đồ cho vay lấy lời nên nghề sét-ti,
nghề ngân hàng gần như thành độc quyền cha truyền con nối của người Do
Thái: Ví dụ, giòng họ Rothschilds giàu nhất Âu châu nhờ nghề làm chủ
ngân hàng. Bên Mỹ 4 giòng họ làm chủ những ngân hàng lớn: Belmont,
Seligman, Lehman, Goldman. Nắm ngân hàng tức nắm Tiền: Ông bà Will &
Ariel Durant có câu "hạng người điều khiển người, chỉ điều khiển những
người điều khiển sự vật thôi, còn hạng người điều khiển tiền bạc mới
điều khiển tất cả".
(6)
Nếu ông Linné còn sống, chắc chắn ông phải đặt lại vấn đề ‘bạc nhược’
của giống da đen, vì từ trước Thế chiến 2 đến nay, trong mọi bộ môn thể
thao, dân da đen thường lãnh huy chương vàng về cho các xứ... da trắng.
Về âm nhạc thì kể hoài không hết. Liên quan tới da đen và da trắng, Tổng
thống Cộng hoà Sénégal, nhà thơ Léopold Sedar Senghor (1906-2001) có
bài thơ:
Thưa người anh em da trắng
Khi
tớ chào đời: tớ đã đen / Khi tớ lớn lên: tớ đã đen / Khi tớ đi giữa
trời: tớ đen / Khi tớ lạnh: tớ đen / Khi tớ sợ: tớ đen / Khi tớ bệnh: tớ
đen / Khi tớ chết: tớ sẽ đen!
Nhưng còn cậu, người da trắng:
Khi
cậu chào đời: cậu hồng / Khi cậu lớn lên: cậu trắng / Khi cậu đi giữa
trời: cậu đỏ / Khi cậu lạnh: cậu xanh lam / Khi cậu sợ: cậu vàng /Khi
cậu bệnh: cậu xanh lục / Khi cậu chết: cậu sẽ xám!
(7) Đọc Les Juifs en Chine của Sidney Shiparo, Hipocrene, NY; hay Les Juifs en Chine của Henri Cordier.
(8)
Sau Thế chiến 2, toà án Nuremberg đã định nghĩa việc thảm sát người Do
Thái như một cuộc diệt chủng (génocide). Ngay sau đó, các tác giả Mỹ đã
gọi sự kiện nầy bằng từ "Holocaust" (lễ hiến vật). Nhưng từ nầy tạo
thành vấn đề đối với người Do Thái vì nó ngụ ý hy sinh: tiêu diệt người
Do Thái không thể là hiến tế lên Thượng Đế. Do đó, người Do Thái tại Âu
châu chủ trương dùng từ Shoah (hay Shoa) theo tiếng Hébreu có nghĩa là
Thảm hoạ (catastrophe) hay Judéocide (Thảm sát người Do Thái). Ngày 16
tháng 07 mỗi năm là ngày tưởng niệm Shoah.
(10) Bapu Mahatma Gandhi: Lettres à Asbram.
Tài liệu tham khảo:
* Nguyễn Hiến Lê: Bài học Israël, Nxb Nguyễn Hiến Lê - Sàigòn 1969.
* Các sách đã nêu trong bài và Internet.
0 comments:
Post a Comment