Đang
tản bộ trong một công viên ở London với mấy đứa cháu ngoại, tôi bất ngờ
nhận được tin nhắn từ Việt Nam qua Viber. Khi ấy ở Việt Nam đúng 11 giờ
trưa ngày 28.7.2019: – Cháu đã nhìn thấy ngọn núi Tiền Đồn 5 ngay trước
mặt và đang chuẩn bị vượt con suối để đến đó, chỉ còn cách chừng hơn
một cây số. Gần một giờ sau, tôi nhận mấy tấm ảnh và vài cảnh phim được
quay bằng điện thoại trên đỉnh Tiền Đồn 5. Bây giờ chỉ là một khung cảnh
hoang tàn, đầy lau sậy, vương vãi một số mảnh bao cát, mấy đoạn kẽm gai
concertina, đế của một chiếc giày trận và một vài chiếc vỏ đạn rỉ sét.
Tôi
cảm động hơn khi hình ảnh người con trai tật nguyền, chỉ còn một cánh
tay trái, đang quì lạy tứ phương với một bó nhang nghi ngút khói hương.
Và đó cũng chính là người vừa nhắn tin và gởi những hình ảnh cho tôi.
Cháu Nguyễn Thế Vinh đang đứng trên vị trí mà cha cháu đã hy sinh và nằm
lại đây đúng 45 năm, bây giờ đứa con trai mới biết được nơi này.
Khi
các chiến thắng liên tục của những người lính Việt Nam Cộng Hòa vào mùa
Hè 1972, không những đã giữ vững được thành phố Kontum mà còn gây thiệt
hại rất nặng nề cho các đại đơn vị thuộc Mặt Trận B-3 của Cộng Sản, gồm
Sư Đoàn 320, Sư Đoàn F 10, Sư Đoàn 2 và sau này có thêm Sư Đoàn tân lập
968. Tất cả buộc phải rút về vùng biên giới Tây Nguyên và Lào để tái
lập, bổ sung, thì bất ngờ Hiệp Định mạo danh Hòa Bình được Hoa Kỳ và Bắc
Việt thỏa thuận ký kết tại Paris vào ngày 27/1/1973, sau khi chính phủ
Nixon đã đi đêm, mặc cả với Trung Cộng, bất chấp sự phản đối của chính
quyền Nam Việt Nam. Hiệp định này chẳng khác nào một huyệt mộ được đào
lên nhằm chôn sống VNCH.
Các
vùng địch xâm chiếm bỗng dưng trở thành an toàn khu của chúng. Nhiều sư
đoàn cùng với chiến xa vũ khí hạng nặng, nhiên liệu, đạn dược từ miền
Bắc ồ ạt xâm nhập công khai vào Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh, cùng lúc
Quốc Hội Mỹ cắt hết mọi viện trợ quân sự cho VNCH.
Đầu
năm 1974, lợi dụng tình thế bất lợi này của VNCH, Bắc Việt đã tung đại
quân tràn ngập, ngang nhiên lấn chiếm một số căn cứ, đơn vị của ta. Đặc
biệt tại các vùng mà lực lượng của chúng được phép nằm lại theo hiệp
định Paris quái đản, trong khi Hoa Kỳ và tất cả các nước cùng ký tên
trong bản hiệp định đều im tiếng, không một lời phản đối.
Đặc
biệt, mặc dù Dak Tô, Tân Cảnh đã bị Cộng quân lấn chiếm từ cuối tháng
4/ 72, nhưng Căn cứ Biên phòng Dak Pek và Chi khu Dak Pek vẫn đứng vững
nhờ hệ thống công sự liên hoàn kiên cố và tinh thần chiến đấu vô cùng
dũng mãnh của các chiến sĩ Biệt Động Quân. Qua rất nhiều lần tấn công,
địch quân đều thảm bại. Căn cứ Dak Pek nằm ngay giữa ngã ba biên giới
Miên-Lào-Việt, án ngữ con đường huyết mạch của Cộng quân, cách thị xã
Kontum 98 cây số về hướng Tây Bắc, được phòng thủ bởi Tiểu Đoàn 88 Biệt
Động Quân Biên Phòng của Thiếu Tá Võ Ngọc Di, bên cạnh là Chi Khu Dak
Pek được bảo vệ chỉ một đại đội ĐPQ và khoảng 8 trung đội Nghĩa Quân.
Cuối tháng 4/72, sau khi Cộng quân chiếm Dak Tô, Tân Cảnh, Dak Pek trở
thành một tiền đồn cô lập, nằm giữa lòng địch, việc tiếp tế chỉ giới hạn
bằng phi cơ.
Ngày
15.5.1974, Cộng quân tập trung một lực lượng hùng hậu cấp sư đoàn, do
tướng CS Vương Phú, Tư Lệnh Phó Mặt Trận B-3 tổng chỉ huy, gồm Trung
Đoàn 3 (ĐoànThuận Hóa) thuộc Sư Đoàn 324 được điều động từ A- Lưới, Trị
Thiên vào Tây Nguyên, phối họp cùng Trung Đoàn 66 (Đoàn Pleime) của Sư
Đoàn 10, Trung Đoàn 40 Pháo hạng nặng, Trung Đoàn 37 Phòng Không, được
tăng cường một tiểu đoàn đặc công, và đại đội chiến xa T 54, tràn qua
sông Pô-Kô đánh chiếm Căn cứ Dak Pek và Chi Khu Dak Pek. Căn cứ thất thủ
chiều ngày 16.5. 74, sau gần hai ngày chống trả một lực lượng địch gấp
20 lần. Sau đó, để tránh đụng độ với các đơn vị chủ lực của ta, gồm Sư
Đoàn 23 BB và các Liên Đoàn BĐQ hoạt động ở phía Bắc và Tây Bắc Kontum,
chúng kéo xuống phía Đông Nam bao vây Măng Buk, đồng thời tăng cường lực
lượng địa phương, tiếp tục tấn công về hướng thị xã Kontum, cô lập
Chương Nghĩa (Platoni), Măng Đen nằm về hướng Ba Tơ, Quảng Ngãi. Khu vực
này hoàn toàn do lực lượng ĐPQ của Tiểu Khu Kontum đảm trách.
Tiền
Đồn 5 trở thành phòng tuyến đầu để ngăn chặn làn sóng xâm lăng của Cộng
Sản. Đây là một trong dãy tiền đồn của Tiểu Khu Kontum, nằm phía Đông
Bắc, cách thị xã Kontum khoảng 15 cây số đường chim bay, trên một ngọn
đồi có cao độ đúng 1200 mét (so với mực nước biển trung bình), và cách
con đường tỉnh lộ nối liền Kontum – Quảng Ngãi (khi ấy đang bỏ hoang)
khoảng bốn cây số, được phòng thủ bởi một tiểu đoàn ĐPQ của Tiểu Khu
Kontum.
Đầu
tháng 6/1974, Cộng quân mở nhiều đợt pháo kích, bao vây Tiền Đồn 5 nhằm
tiêu diệt lực lượng trú phòng và phục kích các đơn vị tiếp viện của
Tiểu Khu. Lực lượng và vũ khí quá chênh lệch, bên ta bị thiệt hại nặng.
Nhờ Không yểm, tiểu đoàn trú đóng mở đường máu di tản, nhưng hơn một nửa
quân số bị tổn thất, hai đại đội đóng quân bên ngoài phải phân tán,
thất lạc. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II chỉ định Sư Đoàn 23 Bộ Binh mở các
cuộc hành quân khẩn cấp giải tỏa áp lực địch và sau đó đưa một tiểu đoàn
đến trú đóng tại Tiền Đồn 5, thay thế cho đơn vị ĐPQ đã phải triệt
thoái, nhằm ngăn chặn đường tiến quân của địch. Tiểu Đoàn 1/44 nhận lãnh
trách nhiệm gay go này ngay sau khi có một vị chỉ huy mới, Đại úy Dương
Đình Chính (Khóa 20 Võ Bị) vừa thay thế Thiếu Tá Phan Văn Khánh (Khóa
12 Võ Bị) đi nhận nhiệm vụ mới.
Ngày
12.7.1974, Tiểu Đoàn 1/44 được trực thăng vận xuống Tiền Đồn 5, vừa
củng cố lại công sự phòng thủ đã bị phá hủy bởi các cuộc pháo kích và
tấn công của địch, vừa hành quân tảo thanh chung quanh căn cứ để hổ trợ
Tiểu Đoàn ĐPQ tìm gom những binh sĩ còn đang thất lạc. Do vị tiểu đoàn
trưởng ĐPQ mang cấp bậc thiếu tá, nên khó khăn trong việc chỉ huy, phối
hợp, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn chỉ thị Trung Đoàn 44 BB phải thành lập ngay một
Bộ Chỉ Huy Nhẹ đến Tiền Đồn 5 để chỉ huy tổng quát. Ngày 14/7/1974, BCH
Nhẹ gồm Thiếu Tá Lê Thái Như, Phụ Tá Hành Quân của Trung Đoàn Trưởng
cùng một toán tháp tùng được thả xuống Tiền Đồn 5, trong số này có Đại
úy Nguyễn Đức Vinh, là sĩ quan liên lạc Pháo Binh của Tiểu Đoàn 233 PB.
Thiếu Tá Lê Thái Như nguyên là Quận Trưởng Quận Phụng Hiệp (Phong Dinh)
vừa mới thuyên chuyển đến Trung Đoàn 44 BB, chưa có chức vụ chính thức,
tạm thời làm sĩ quan phụ tá hành quân cho Đại Tá Phùng Văn Quang và sau
đó là Trung Tá Nguyễn Hữu Lữ, Trung Đoàn Trưởng. (Trung Tá Nguyễn Hữu
Lữ, nguyên là Đại tá Trung Đoàn Trưởng của SĐ2/BB, nhưng do phạm sai lầm
nào đó, bị Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh QĐ I giáng cấp xuống
trung tá và thuyên chuyển về QĐ II. Vì là thuộc cấp cũ thân tín của
Tướng Nguyễn Văn Toàn lúc còn ở Sư Đoàn 2 BB, nên được Tướng Toàn ( lúc
này đang là Tư Lệnh QĐ II) đề cử giữ chức vụ Trung Đoàn Trưởng 44 thay
thế Đại Tá Phùng Văn Quang. Trung Tá Lữ có lệnh giải ngũ sau khi Tiền
Đồn 5 thất thủ và bàn giao Trung Đoàn lại cho Trung Tá Ngô Văn Xuân)
Lúc
này trên Tiền Đồn 5, ngoài BCH Nhẹ Trung Đoàn 44, BCH Tiểu Đoàn 1/44 và
Đại Đội Chỉ Huy Yểm Trợ, được bảo vệ bởi Đại Đội 2/1 của Thiếu úy
Nguyễn Xuân Quang, Quyền Đại Đội trưởng. Các đại đội còn lại hoạt động ở
các cao điểm và hành quân lưu động chung quanh, cách Tiền Đồn 5 từ 2
đến 5 cây số.
Hai
ngày sau, các công sự phòng thủ chưa được sửa chữa xong, vào sáng sớm
ngày 16.7.1974, khi sương mù còn đang phủ kín cả một vùng núi non và
thung lũng, Cộng quân pháo kích dồn dập vào Tiền Đồn 5 từ nhiều hướng
khác nhau trong suốt một tiếng đồng hồ bằng đủ các loại pháo 120 ly,
122ly và 155ly bắn thẳng. Lúc này, Pháo Binh của ta đã bị hạn chế tác xạ
vì không còn đủ đạn dược và Không Quân cũng không thể yểm trợ được bởi
thời tiết quá xấu. Ngay những loạt đạn pháo đầu tiên, hầm chỉ huy bị
sập, hệ thống truyền tin bị phá hủy và một số đông quân trú phòng đã bị
tử trận, trong số đó có Đại úy Dương Đình Chính, Tiểu Đoàn Trưởng, Đại
úy PB Nguyễn Đức Vinh và Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang, Q.Đại Đội Trưởng ĐĐ
2/1. Riêng Thiếu Tá Lê Thái Như bị thương nhẹ, chạy thoát ra ngoài,
nhưng bị bắt làm tù binh sau đó.
(Năm
1976, khi bị chuyển tù ra miền Bắc, người viết bất ngờ gặp lại Thiếu Tá
Lê Thái Như ở Trại 6 Nghĩa Lộ. Chính Thiếu Tá Như đã kể lại chi tiết
trận đánh này).
Cộng
quân tràn ngập. Tiền Đồn 5 trở thành một địa điểm “oanh kích tự do” sau
đó. Tất cả tử sĩ đều phải đành vùi thây nơi chiến địa. Gia đình họ
nhận “Tờ Trình Ủy Khúc” (một hình thức báo tử) để chỉ biết người thân
của mình đã hy sinh tại một địa danh xa lạ nào đó, với tọa độ AR 863-994
mà chỉ có những nhà quân sự mới có thể biết được.
Bà
quả phụ Nguyễn Xuân Quang cũng nhận được “Tờ Trình Ủy Khúc” như thế,
nhưng bà không tin là chồng đã chết. Vì trước đây, vào giữa năm 1973, bà
cũng nhận được giấy báo tử tương tự, nhưng sau đó mấy tháng thì bất ngờ
nhận được tin chồng còn sống và đang được điều trị tại quân y viện
Quảng Ngãi. Lần đó, Thiếu úy Quang bị địch bắt tại trận Ngô Trang, phía
Bắc Kontum, nhưng vì anh bị thương khá nặng, nên địch quân bỏ anh lại
trên đường áp giải tù binh ra Quảng Bình, họ nghĩ là anh sẽ chết, nhưng
anh đã may mắn được trực thăng bên ta phát hiện cứu sống. Sau khi được
điều trị lành vết thương, anh xin trở lại đơn vị cũ tiếp tục chiến đấu.
Thiếu úy Quang ra đi, để lại cho người vợ trẻ bốn đứa con thơ. Cháu lớn nhất chín tuổi và đứa út chưa tròn một tuổi.
Cuối
tháng 3/75 gần cả miền Trung lọt vào tay Cộng sản sau khi Ban Mê Thuột
thất thủ và cuộc di tản trên Tỉnh Lộ 7B đã trở thành một nỗi kinh hoàng.
Cuối cùng đến ngày 30/4/75 cả miền Nam cũng hoàn toàn bị nhuộm đỏ. Kể
từ đó, những mồ mả của tử sĩ miền Nam được chôn cất tại các nghĩa trang
trong thành phố còn bị CS đập phá, san bằng, thì chuyện đi tìm những
người thân hy sinh trên các vùng núi non vô danh xa lạ, như Tiền Đồn 5
đã trở thành câu chuyện hoang đường. Hơn nữa ở thời điểm ấy, người sống
chưa giữ được mạng mình thì làm sao còn có thể lo cho người đã chết.
Bà
Nguyễn Xuân Quang không còn cách nào khác, rời bỏ ngôi nhà nhỏ bên khu
trại gia binh Sông Mao, dắt bốn đứa con thơ về tá túc nhà cha mẹ ở Phan
Thiết. Khổ nỗi, bà còn có người anh là một sĩ quan cấp tá tốt nghiệp
(Khóa 16) Trường Võ Bị Đà Lạt và hai cậu em đều là sĩ quan Thủ Đức, nên
cha mẹ bà cũng bị đuổi ra khỏi nhà. Bây giờ ông bà già phải cưu mang cả
cô con gái và bốn đứa cháu ngoại tuổi còn thơ dại. Ông bà, con cháu cùng
dắt díu nhau, bỏ thành phố Phan Thiết thân yêu, chạy về vùng quê Chợ
Lầu, dựng tạm căn nhà lá bên bờ sông Lũy, kiếm sống qua ngày bằng khoai
sắn tự trồng và cá lưới dưới dòng sông. Vậy mà cuộc sống lang bạt ấy vẫn
chưa một ngày yên ả. Những hành xử và lời nói khắc nghiệt của những
người bên thắng cuộc đã làm cho bà Quang không còn con đường sống. Bà đã
uống mấy chai thuốc rầy để chết đau đớn trước mặt cha mẹ mình và bốn
đứa con thơ. Bà xin lỗi vì đã để lại cho cha mẹ già một gánh nặng, và
xin lỗi các con đã phải đành lòng bỏ con lại bơ vơ, bà không thể bắt các
con phải chết theo mình. Sau đó vài năm, đứa con trai lớn cũng đã uống
thuốc rầy theo mẹ. Đứa con trai thứ nhì, Nguyễn Thế Vinh, năm 1975 mới
lên năm, bây giờ trở thành người phụ giúp đắc lực cho ông ngoại trong
cuộc mưu sinh đầy khốn khó. Nhưng đau đớn thay, “họa vô đơn chí”, năm
chín tuổi, khi chăn hai con bò của Hợp tác xã, lấy mấy ký lúa phụ ông
ngoại, Vinh bị té xuống đất từ trên lưng bò. Cánh tay phải bị gãy. Do
không có thuốc thang và băng bó không đúng cách, cánh tay bị nhiễm
trùng, hoại tử phải bị cắt bỏ đến gần bả vai.
Ông
bà ngoại lần lượt qua đời, mấy chị em Vinh lại được bà dì Út không lấy
chồng, ở vậy cưu mang. Dù khốn khó, bữa no bữa đói, nhưng Vinh không
chịu bỏ học hành. Bị tật nguyền, nhưng cậu bé lên mười vẫn thừa hưởng ý
chí sắt đá của người cha để lại, Vinh vượt qua tất cả khó khăn, làm đủ
thứ nghề để học hành thành đạt, mặc dù với cái lý lịch rất “đen”, Vinh
không chút hy vọng gì mình có thể được ngoi lên trong một xã hội đang
còn đầy dẫy những đố kỵ, hận thù. Đỗ Đại học Kinh tế ưu hạng, nhưng
không kiếm được việc làm. Ngày tốt nghiệp có hai ba nơi gởi thư chọn
Vinh khi thấy số điểm tối ưu của Vinh, nhưng không bao giờ gọi Vinh đi
nhận việc. Vinh đi dạy kèm, mở các lớp luyện thi, và đặc biệt hơn, Vinh
đã thành công bằng nghề tay trái – với cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: Đánh
đàn – tất nhiên chỉ bằng tay trái.

Những
năm còn nhỏ, đặc biệt khi cậu hai Minh vừa trong tù cải tạo trở về, như
để giải sầu trước một tương lai mịt mờ đen tối, ông thường ngồi đàn
trong đêm vắng, lúc chỉ còn có hai cậu cháu. Vinh đã say mê, vì dường
như chỉ có tiếng đàn mới làm tan biến những đau buồn, trắc ẩn trong
lòng, làm cho Vinh tạm quên đi bao nỗi bất hạnh khi tuổi đời mới lớn, mà
chung quanh tưởng chừng chỉ còn là bóng tối luôn bao trùm chụp phủ lấy
Vinh. Chuyện đàn guitar bằng một tay mà lại là tay trái là một điều
không tưởng, nhưng rồi với đam mê và ý chí, Vinh đã thành công. Tài năng
và nổ lực phi thường của cậu bé chưa thành niên đã được Nhạc sĩ Nguyễn
Ánh Chín biết tới, nâng đỡ, chỉ dạy thêm, và cuối cùng chính ông đã giới
thiệu Vinh đến đàn cho Phòng Trà ATB của nữ ca sĩ Ánh Tuyết. Sau đó
Vinh được một số đài truyền hình mời biểu diễn. Người nhạc sĩ một tay,
đàn guitar bằng tay trái và thổi harmonica, đặc biệt những bản tình ca
của Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Từ Công Phụng đã làm rung động lòng
người, được cả nước tán dương. Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải là điều mà
mọi người biết đến để ngưỡng mộ Nguyễn Thế Vinh như sau này.
Từ
lúc bỏ Sài gòn lên Bến Cát, Bình Dương mở các lớp dạy kèm và luyện thi
đại học, Vinh có dịp được gặp nhiều học sinh nghèo, mồ côi, tật nguyền
nhưng hiếu học. Suy nghĩ từ thân phận của chính mình, Vinh đã vận động
bạn bè, đi khắp nơi kêu gọi những nhà hảo tâm, đứng ra mở Trung Tâm
Hướng Dương, bảo bọc, nuôi dạy trên một trăm các em học trò nghèo, mồ
côi và khuyết tật. Bây giờ thầy giáo Vinh trở thành chủ gia đình Hướng
Dương, là cha, là anh cả của đám học trò mà chính Vinh đã đi khắp nơi,
những vùng xa xôi, nghèo khổ để gom góp dắt díu về đây nuôi dạy. Đến hôm
nay, trong số những học trò ấy, đã có nhiều em tốt nghiệp đại học, trên
ba mươi em du học tại Nhật Bản, một em du học tại Úc Châu và một em
đang du học tại Hoa Kỳ. Cậu bé, có cha là lính VNCH tử trận khi chưa
tròn bốn tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm lên bảy, mất cánh tay phải từ
năm lên chín, giờ trở thành người nổi tiếng được bao nhiêu người trong
và ngoài nước yêu thương cảm phục. Nhưng Vinh vẫn vậy, hiền lành, nhân
hậu, chân chất, không ai tìm thấy trong nụ cười đôn hậu của Vinh một nét
kiêu hãnh hay mối hận đời nào. Điều đáng phục hơn, trong bất cứ hoàn
cảnh nào, ngay cả khi được các đài truyền hình và báo chí trong nước
phỏng vấn, lúc nào Vinh cũng hãnh diện để nói về người cha quá cố, một
sĩ quan QLVNCH đã hết lòng chiến đấu và hy sinh cho lý tưởng của mình.

Để
có đủ tiền trang trải việc điều hành và nuôi dạy các em tại Trung Tâm
Hướng Dương, hằng năm Vinh đều phải đi vận động, trình diễn khắp nơi ở
hải ngoại, qua chương trình “Góp Lá Mùa Xuân” từ Úc, Âu, Á đến Mỹ Châu,
phối họp với các cơ quan từ thiện khác, đặc biệt cùng tham gia tổ chức
“Ngọc Trong Tim”, Vinh được mọi nơi hưởng ứng và hỗ trợ hết lòng. Đến
đâu Vinh cũng hãnh diện để nói về người cha của mình, một sĩ quan VNCH
đã anh dũng hy sinh. Hình ảnh người cha khá mơ hồ trong ký ức nhưng lại
là một động lực để Vinh đứng lên từ nỗi bất hạnh tột cùng, và giúp tha
nhân bằng tất cả trái tim mình. Tâm sự với bạn bè, Vinh bảo, điều hạnh
phúc nhất của Vinh là nghĩ cha mẹ đang dõi bước chân mình và mỉm cười
nơi chín suối.
Tháng
7/ 2019 trong dịp đến Úc Châu, Vinh cũng trình bày về cái chết của cha
và ước mong được liên lạc với những người đồng đội cũ cùng đơn vị của
ông ngày trước để được biết tường tận hơn về cái chết và địa điểm nằm
xuống của cha mình. “Tờ trình ủy khúc” cũng đã thất lạc sau ngày mẹ Vinh
qua đời.
Vinh
được Luật sư Nguyễn Văn Thuần giới thiệu đến tôi, vì Thuần là người bạn
đồng hương khá thân, biết tôi từng phục vụ gần mười năm ở Trung Đoàn 44
BB, đơn vị cuối cùng mà cha của Vinh, Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang đã hy
sinh. Vợ chồng LS Nguyễn Văn Thuần cũng là những người có nặng tấm lòng,
tích cực hỗ trợ tổ chức “Ngọc Trong Tim”, gom góp yêu thương mang đến
cho những người khuyết tật cùng các anh Thương Binh VNCH còn đang sống
khốn khổ ở quê nhà.
Tôi
liên lạc với Vinh qua điện thư, rồi qua điện thoại. Ngay sau khi biết
rõ cấp bậc, tên họ và đơn vị cuối cùng của người đồng đội Nguyễn Xuân
Quang, tôi liên lạc hỏi thăm một số bạn bè cùng Tiểu Đoàn 1/44 với anh
Quang lúc xưa, được biết chắc chắn là anh Quang đã hy sinh tại Tiền Đồn 5
ở Kontum. Tôi nhớ ngay đến trận đánh tại địa danh này qua lời kể của
Thiếu Tá Lê Thái Như, lúc chúng tôi bất ngờ gặp nhau tại trại tù số 6 ở
Nghĩa Lộ. Thiếu tá Như là người may mắn sống sót và bị bắt làm tù binh
trong trận này.
Tôi
còn nhớ mang máng Tiền Đồn 5 nằm không xa, nhìn xuống con đường đất nối
liền Kontum – Quảng Ngãi, lúc ấy bỏ hoang vì chiến tranh, nhưng không
biết ở quãng nào, thuộc địa danh nào, hơn nữa thời gian đã quá lâu, hơn
45 năm rồi, có biết bao biến đổi. Tôi tìm cách liên lạc với một số sĩ
quan thâm niên ở Tiểu Khu Kontum, may mắn gặp một anh đồng hương với vợ
tôi, trước kia anh là Đại úy Chi Đoàn Trưởng Chiến Xa M-48, vì phản đối
một khẩu lệnh hành quân của cấp chỉ huy mà anh cho là vô lý, chắc chắn
sẽ đưa Chi đoàn của mình vào sa lầy, thảm bại, như trường hợp một chi
đoàn bạn, anh bị kỷ luật, cho ra khỏi binh chủng, chuyển về Tiểu Khu
Kontum giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn ĐPQ. Anh đã từng đóng
quân tại Tiền Đồn 4, Tiền Đồn 5, và giữa tháng 10/1974, đơn vị anh bị
địch quân tràn ngập ở Chương Nghĩa, anh bị bắt làm tù binh, khi ấy anh
vừa được thăng cấp Thiếu Tá hơn một tháng. Anh ngồi vẽ lại vị trí Tiền
Đồn 5 cho tôi, và để bảo đảm chính xác hơn, anh gọi cho một anh trung
úy, đại đội trưởng dưới quyền của anh lúc xưa, là người Kontum và cũng
đã từng đóng quân một thời gian dài tại Tiền Đồn 5. Trí nhớ anh bạn này
rất chính xác.
Tôi liền viết một điện thư khá dài cho Vinh :
“Hai
hôm nay, chú đã liên lạc với chú Sơn, chú Khanh (ở cùng Tiểu Đoàn 1/44
với ba cháu) và vài người khác, đã tham dự các trận chiến trong cùng
thời gian, cùng và chung quanh địa điểm mà ba cháu đã hy sinh, đặc biệt
trong số này có người từng sinh ra, lớn lên và đi lính tại Tiểu Khu
Kontum.
Đến hôm nay chú và chú Sơn, chú Khanh đã có được một số chi tiết tương đối chính xác về trường hợp hy sinh của ba cháu.
Ba
cháu hy sinh tại Tiền Đồn 5 (khác với Căn Cứ 5 ở Tân Cảnh). Tiền đồn
này nằm bên con đường từ Kontum đi Quảng Ngãi (lúc ấy bỏ hoang, không sử
dụng từ lâu vì chiến tranh), bây giờ là Quốc Lộ 24.
Tiền
Đồn 5 này nằm cách Thị Xã Kontum khoảng 15 km, gần khu vực Kon Xom Luh,
giữa 2 địa danh có tên Kon Cha Re và Kon Se Tieu (không tìm thấy tên
trên Google Map, có lẽ vì hai địa danh quá nhỏ).
Đặc
biệt, tại Kon Xom Luh hiện có nhà thờ Kon Xom Luh.Nếu có dịp đến
Kontum, cháu tìm đến nhà thờ này hỏi thăm các vị linh mục, nhờ quí ngài
chỉ giúp, hay hỏi thăm người dân địa phương (lớn tuổi) Kon Cha Re và Kon
Se Tieu nằm ở đâu.
Riêng
ngày mất của ba cháu, chú nghĩ trong khoảng 15 đến 30 Tháng Sáu, 1974,
nhưng chú Sơn và chú Khanh đang tìm hiểu từ những bạn bè có tham dự trận
đánh ấy, để cho cháu một ngày chính xác hơn.
Tiếc
quá, nếu cháu còn giữ ‘giấy báo tử’,lúc ấy được gọi là “Tờ Trình Ủy
Khúc”, dành cho người mất tích (Lính hy sinh nhưng không tìm thấy xác
đều gọi là mất tích), trong đó có ghi rõ ngày giờ và đặc biệt là tọa độ
(địa điểm chính xác nhất) nơi ba cháu hy sinh.
Thời
gian đã quá lâu, mọi sự đã thay đổi, các dấu tích chiến tranh và cả
xương thịt những người lính hy sinh, chắc cũng không còn. Tuy nhiên tất
cả đều để lại trong lòng những người còn sống như các chú và nhất là
cháu, những vết thương khó lành cùng với một nỗi hoài niệm khó nguôi.
Các
chú xin được thành tâm chia sẻ về sự mất mát và nỗi buồn lớn lao này
của cháu và cầu nguyện ơn Trên che chở và giúp cháu tìm lại được những
điều mà cháu từng mong ước…”
Vinh
nhận được email này của tôi lúc đang trên đường ra phi trường Sydney để
rời Úc trở về lại Việt nam. Vinh chỉ kịp gởi cho tôi vài hàng tin nhắn
qua Viber:
– Cháu sẽ lên Kontum ngay sau khi về lại Việt nam, cháu sẽ làm theo lời hướng dẫn của chú. Có gì cháu sẽ gọi chú qua Viber.
Trời
đã không phụ lòng những con người hiếu thảo, dù trong bất cứ hoàn cảnh
nào vẫn giữ được trái tim, đặc biệt đối với một tâm hồn không hề vướng
chút bụi bẩn của một xã hội kim tiền, vô cảm, Vinh đã được tất cả mọi
người giúp đỡ tận tình, từ các vị nữ tu, đến người lính Thượng miền Nam
thuở trước và cả những người lái xe ôm nghèo khổ, tận tình hướng dẫn và
giúp Vinh đến Tiền Đồn 5.
Vinh kể:
“Cháu
đến chân núi của Tiền Đồn 5 là 11 giờ trưa ngày 28 Tháng Bảy, 2019. Lúc
đó trời muốn mưa và mây phủ kín hết ngọn đồi của Tiền Đồn 5. Những ngọn
đồi thấp hơn nằm chung quanh thì còn thấy thấp thoáng. Nhiều người dân
nơi đó lo lắng cho cháu, khuyên không nên lên vì đường khó đi, nhưng
lòng cháu lại cảm thấy rất nôn nóng, muốn đi liền ngay tức khắc.
Với
sự giúp đỡ của người dân, hai thanh niên địa phương dùng hai chiếc xe
gắn máy mà bánh xe phải ràng dây xích, một chiếc chở cháu, một chiếc chở
đồ ăn, thức uống, hoa quả, bắt đầu leo núi.
Sau
một tiếng leo núi bằng xe Honda qua nhiều đồi khác nhau, khi đến chân
đồi của Tiền Đồn 5 thì không còn đường để xe gắn máy chạy nữa, nên cháu
bắt đầu đi bộ, vừa đi vừa phải dùng rựa chặt cây mở đường. Sau 30 phút,
cháu đến được đỉnh đồi của Tiền Đồn 5.
Những
bao cát dùng làm chiến hào bị rách nát, vài đế giày bốt-đờ-sô vương
vãi, những cục pin dẹp nằm chỏng chơ, những cọng kẽm gai phần chôn dưới
đất, phần ló lên trên… là những gì cháu nhìn thấy trên khoảng đồi trống
của Tiền Đồn 5. Cháu có cảm giác dấu tích trận đánh và âm thanh súng đạn
năm nào vẫn còn hiển hiện, phảng phất nơi đây.
Nhìn
những gì còn sót lại đó, cháu cảm thấy rất xúc động. Và thật lạ, là từ
lúc lên đây sương mù đã phủ kín hết bầu trời, nhưng khi cháu lấy hoa quả
bày ra và thắp bó nhang cho ba cùng các chú, các bác đã nằm lại nơi
này, thì trời lại bỗng dưng ló nắng”.
Cuối
cùng thì Vinh cũng đã đến được đỉnh Tiền Đồn 5, nơi mà xác thân Thiếu
úy Quang, người cha thân yêu của Vinh đã nằm lại đó từ 45 năm trước, giờ
chắc cũng đã tan cùng tro bụi.
Quỳ
giữa đỉnh đồi vắng lặng, bàn tay trái duy nhất cầm chặt bó nhang, Vinh
cúi đầu khấn vái hồn thiêng của cha và những người lính miền Nam đã chết
cho quê hương và lý tưởng cao đẹp của mình. Bốn mươi lăm năm, đã trải
qua biết bao chia lìa, khốn cùng, bi thảm, nhưng Vinh đã vươn lên, vượt
qua những thử thách cay nghiệt nhất, để ngẩng cao đầu trong một xã hội
mà cả gia đình mình từng là nạn nhân, luôn bị bên thắng cuộc cố tình xô
đẩy ra bên lề xã hội, đến bước đường cùng, bởi một thứ hận thù không còn
nhân tính. Nhưng cuối cùng, nhờ dòng máu của người cha còn luân lưu
trong huyết quản, Vinh đã chiến thắng. Không chỉ thắng được số phận của
chính mình, mà cao cả hơn, cũng giống như cha mình và những đồng đội của
ông, Vinh đã thắng được lòng người. Cái thắng xem chừng vinh quang và
bất diệt nhất.
Vinh
đã được mời lên nói chuyện ở các đài truyền hình, tọa đàm trong các
buổi tu học tại các cơ sở Phật giáo trước hàng vài ngàn Phật tử, được ví
như “Cây Xương Rồng Trên Cát”, nói chuyện trong các hội văn nghệ, văn
học. Cuốn tự truyện “Ông Giáo Làng Trên Tầng Gác Mái” của Vinh được độc
giả cả nước bình chọn là “Tác phẩm Xuất Sắc Nhất của năm 2018, với nội
dung truyền cảm hứng và động lực nhất để sống và để cống hiến”. Vinh
nhận được giải thưởng lớn,100 triệu đồng, và đã góp hết vào ngân quỹ của
gia đình Hướng Dương.
Trong
cuốn tự truyện của mình, Nguyễn Thế Vinh cho biết: “Chính những ngày
tháng dạy học cho các trẻ em nghèo, mồ côi, khuyết tật… đã làm nảy nở
trong tôi ước mơ về một ngôi trường, cũng là mái nhà cho mấy đứa trẻ
thiệt thòi ấy chui ra chui vào, vừa học chữ, vừa học làm người. Lũ trẻ
và tôi sẽ dũng cảm bước đi trên con đường hướng tới tương lai bằng tinh
thần tích cực và độc lập nhất”.
Một nhà phê bình đã viết về cuốn tự truyện của Vinh:
“Cuốn
sách này kể cho bạn nghe chuyện đời của một “hạt bụi” ngát hương, hết
sức hồn nhiên trong cõi trăm năm đi về. Sức sống của “hạt bụi” ấy có thể
khiến những ai đang bị cuộc đời dồn ép hoặc thấy mình sắp bị đời xô ngã
sẽ kiên cường đứng vững và chân thật mến yêu cuộc đời”
Một nhạc sĩ tên tuổi đã từng thổ lộ: “Một lời tử tế chưa đủ để nói về Vinh”.
Hầu hết học trò của Vinh đều bảo “Thầy Vinh là cha, là bạn và cũng là vĩ nhân”
Vinh
dự trù sẽ tổ chức một buổi tưởng niệm và cầu siêu cho cha và những đồng
đội của ông đã hy sinh trên ngọn đồi Tiền Đồn 5, vào dịp cuối năm hay
Tết Nguyên Đán với sự đồng tế của các vị lãnh đạo tinh thần các tôn
giáo. Tất cả sẽ cùng thắp sáng lại trong tâm hồn một mùa Xuân, mùa của
lòng biết ơn và hy vọng.

Vinh
cũng nhờ các cơ quan truyền thông, báo chí và đồng đội của cha, giúp
tìm cách thông báo đến thân nhân của những chú, bác đã cùng hy sinh với
cha Vinh. Xin hãy liên lạc với Vinh để cùng tham dự buổi lễ tưởng niệm
đặc biệt này. Người đầu tiên đã nghe được tiếng gọi của Vinh, một thanh
niên hiện định cư ở bên Úc , chính là trưởng nam của cố Thiếu Tá Nguyễn
Đức Vinh, sĩ quan liên lạc Pháo Binh của Tiểu Đoàn 233/PB cũng đã nằm
lại trên Tiền Đồn 5 ngày ấy. Điều may mắn là cậu ta còn giữ được “Tờ
Trình Ủy Khúc” trong đó có ghi rõ ngày giờ và địa điểm chính xác nơi cha
anh đã hy sinh: ngày 16 tháng 7 năm 1974, tại Tiền Đồn 5, Tọa độ AR
863-994. Những chi tiết mà cháu Nguyễn Thế Vinh cũng đang cần muốn biết.
Sau đó Vinh cũng đã liên lạc được với con của Cố Thiếu Tá Dương Đình
Chính ở Sài Gòn, và sẽ gặp một thuôc cấp cũ của ba Vinh ở Sông Mao, để
có thể liên lạc với gia đình những tử sĩ khác.
Cuộc
chiến đã kết thúc – dù trong tột cùng bất công và tức tưởi – nhưng mãi
đến 45 năm sau, hơn nửa đời người, những người con mới tìm đến được nơi
cha mình đã hy sinh, xác thân vùi chôn ở đó. Nhìn hình ảnh người con
trai chỉ còn một cánh tay với những nén nhang thắp muộn trên ngọn đồi
hoang vắng, điêu tàn, từng xảy ra bao trận chiến đẫm máu đồng đội, lòng
tôi lắng xuống. Hồi tưởng lại thời gian cuối cùng của cuộc chiến, tôi
bỗng thấy đồng cảm, thấm thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul
Bäumer, nhân vật chính trong “Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh” (All Quiet
On The Western Front), tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà
văn Erich Maria Remarque, mặc dù câu chuyện đã xảy ra từ thời Đệ Nhất
Thế Chiến:
“Ngày
tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm máu và kinh hoàng nhất.
Thời gian giống như những thiên thần đang bay lượn trên vùng hủy diệt
một cách không thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ
phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng
tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu,
đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc tổng công kích này. Duy chỉ
có các chiến dịch hành quân là còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ
vẫn còn tiếp tục…”
Chỉ
có một điều khác biệt. Anh Paul Bäumer may mắn hơn chúng tôi, đối
phương của anh dù là người không cùng một nước, nhưng chắc chắn không
tàn ác và man rợ như kẻ thù đã chiến thắng chúng tôi, những người có
cùng dòng giống nhưng không hề có trái tim người.
Phạm Tín An Ninh
0 comments:
Post a Comment