Từ cuối năm 1974, chiến cuộc VN thay đổi hẳn vì sự chênh lệch giữa hai bênvề tiếp tế và hỏa lực ngày càng rõ nét. Phía QLVNCH thì quân viện đã bịQuốc Hội Mỹ cắt giảm trầm trọng nên hỏa lực sút giảm thấy rõ. Phe Cộng sảnthì được Nga và Trung Cộng tăng cường việc trợ ồ ạt, tải vào Nam một sốlượng khổng lồ vũ khí gồm cả xe tăng hạng nặng và trọng pháo tối tân nhất.Tháng Ba năm 1975, tỉnh Phước Long bị CS đánh chiếm, không lâu sau đó đếnlượt Ban-Mê-Thuột thất thủ, mở đầu cho những tổn thất và di tản liên tụccủa phía VNCH, đưa đến ngày Quốc Hận 30/4 khi miền Nam VN hoàn toàn bị CSchiếm.
Vào những ngày cuối của cuộc chiến, đơn vị tôi đóng tại Gò Dầu Hạ, cùngvới Sư Đoàn 25 BB phụ trách mặt trận Tây Ninh, lúc bấy giờ đang bị áp lựcnặng nề từ một lực lượng địch quân đông đảo gấp nhiều lần, với vô số xetăng và trọng pháo, liên tục tấn công và pháo kích vào các vị trí đóngquân của ta. Chiều ngày 28/4, sau khi bị mất liên lạc với Quân Đoàn và BộTổng Tham Mưu, trước tình hình vũ khí ngày càng hao hụt mà không có tiếptế, cũng chẳng còn yểm trợ pháo binh hay phi cơ, lại phải chịu hỏa lựcpháo khủng khiếp của địch, đơn vị quyết định di tản, mở đường máu băngđồng chạy về hướng Hậu Nghĩa. Chạy suốt đêm, bị địch truy kích liên tục,đơn vị rã thành những nhóm nhỏ. Đến sáng 29/4 thì nhóm của tôi gồm chừnghơn trăm người bị bộ đội CS vây kín. Kiểm lại thì chẳng còn bao nhiêu súngđạn, chúng tôi đành chịu bị địch bắt và giải vào nhốt trong một khu rừngthuộc mật khu Chà Rầy.
Ngày hôm sau thì nghe tin sét đánh: Dương Văn Minh đã đầu hàng, Việt NamCộng Hòa đã chính thức bị khai tử! Nhiều anh em trong chúng tôi đã bậtkhóc, lòng vô cùng đau đớn trước cái chết nhanh chóng không ngờ của miềnNam thân yêu.
Sau 1 tuần lễ bị giam, đến sáng sớm ngày 6/5, bộ đội và du kích CS tập họphết mấy trăm tù binh VNCH bị giam tại khu rừng đó lại, đọc “Lệnh Tha” của“Cách Mạng”, thả tất cả mọi người vô điều kiện không phân biệt cấp bậc,cho về “trình diện tại địa phương”, chỉ cần “chấp hành tốt các qui địnhcủa chính quyền mới”. Không những thế, “Cách Mạng” còn phát cho mỗi tùbinh mấy chục bạc để mua vé xe đò về nguyên quán!
Chúng tôi ngẩn ngơ, vì không ngờ họ lại thả mình dễ dàng như vậy, tronglòng không khỏi lấy làm lạ, có phần thầm phục cái “mã thượng” của “CáchMạng”! Đi bộ mấy tiếng đồng hồ ra đến bến xe Trảng Bàng, chúng tôi gặp lạirất nhiều đồng đội bị bắt và giam ở chỗ khác, cũng được thả về, trong đócó cả ông Trung Tá Liên Đoàn Trưởng, mấy ông Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng.Lại càng ngẩn ngơ, càng thấy “Cách Mạng” sao mà “khoan hồng nhân đạo” quásức tưởng tượng!
Về nhà, tôi bước vào trước sự ngạc nhiên sung sướng của gia đình, vì thằngcon bấy lâu mất tích ngoài mặt trận tưởng đã chết, nay bỗng trở về như mộtbóng ma! Trong những ngày sau đó, rất nhiều bạn bè của tôi, phần đông cũnglà sĩ quan rã ngũ, nghe tin tôi về thì ghé thăm. Nghe chuyện phóng thíchvô điều kiện mà tôi là chứng nhân trực tiếp, ai cũng lắc đầu le lưỡi, phục“Cách Mạng” sát đất!
Vài tuần sau đó, có lệnh tập trung các anh em binh sĩ, hạ sĩ quan “học tậptại chỗ” 3 ngày. Rồi sĩ quan cấp tá trở lên “trình diện học tập, đem theo1 tháng tiền ăn”. Cấp tá vừa đi xong là đến bọn sĩ quan cấp úy chúng tôibị kêu trình diện, “đem theo 10 ngày tiền ăn”. Tôi đến trình diện tạitrường nữ trung học Gia Long vào chiều ngày 23/6/1975, gặp rất nhiều bạnbè cũng trình diện tại đó. Bữa ăn chiều hôm ấy, “Cách Mạng” đặt nhà hàngSoái Kinh Lâm ở Chợ Lớn nấu đồ ăn tầu mang vào phát cho anh em ăn. Ai nấyđều phởn phơ vui vẻ, cứ ngỡ rằng chỉ có 10 ngày mà ăn uống ngon lành thoảimái như thế thì có nhằm nhò gì! Ở trường Gia Long mấy hôm, đến chiều 27/6một đoàn xe Molotova đến chở chúng tôi đi suốt đêm, đổ vào Trảng Lớn. Ởđó, cán bộ CS mà chúng tôi phải gọi là “Quản Giáo”, chia chúng tôi rathành đội, thành tổ, vào ở trong những căn nhà bỏ hoang của một trại línhcũ. Họ kêu các đội lên lãnh thực phẩm mang về tự nấu, gồm gạo mốc, raumuống đã gần hư thúi và muối hột. Chúng tôi bắt đầu cảm thấy hơi kỳ kỳ,ngờ ngợ, nhưng vẫn còn bám vào cái tin tưởng “10 ngày”. Rồi màn tự khaiđầu tiên xẩy ra, rồi tập họp học tập “Nội qui, Qui định”, “8 câu hỏi nhậnthức”… 10 ngày qua đã lâu mà chẳng thấy động tĩnh gì, trong khi mọi chỉthị, sinh hoạt đều mang dấu chỉ của một sự ở lại lâu dài.
Sự tương phản rõ rệt giữa thái độ “mã thượng” của “Cách mạng” lúc đầu vàthực tế phũ phàng bấy giờ khiến chúng tôi mau chóng nhận ra là mình đã bịCộng sản lừa ! Khi mới chiếm xong miền Nam vào 30/4/1975, họ chỉ nắm đượctrong tay, có nghĩa là đang bắt giữ được, giỏi lắm là 10% tổng số sĩ quanQLVNCH - trong đó có tôi và các sĩ quan trong đơn vị tôi. Đại đa số đã rãngũ, lột bỏ quân phục, sống lẫn lộn rải rác trong dân chúng, muốn tìm bắtkhông phải là chuyện dễ. Mà đây lại chính là thành phần được CS đánh giálà nguy hiểm nhất cho chế độ mới, cần phải tập trung giam giữ bằng mọigiá. Những bộ óc lợi hại, xỏ lá nhất của “Cách Mạng” đã bày ra một mưu kếkhá cao cường: thả con tép bắt con tôm! Khi họ phóng thích vô điều kiệnnhững sĩ quan bắt được trong những ngày cuối của cuộc chiến như nhóm sĩquan trong đơn vị tôi, thì chính chúng tôi là những nhân chứng sống chocái gọi là “khoan hồng nhân đạo” của “Cách Mạng”, khiến các anh em còn tạiđào tin tưởng. Vì thế mà khi có lệnh gọi trình diện thì đại đa số sĩ quancòn ở ngoài đều chui đầu vào rọ, CS tóm gọn một mẻ lớn ngon ơ!!! Họ đãtính toán rất kỹ và ấn định trình tự gọi “trình diện học tập” rất bài bảnđể không ai có thể nghi ngờ gì. Qua sự việc này, CSVN đã chứng tỏ rõ ràngkhả năng điếm đàng lưu manh đệ nhất, xứng đáng là bậc thầy của mọi tậpđoàn độc tài gian ác trên thế giới! “Thấp cơ thua trí”, chúng tôi bị lừamột quả lớn, lớn quá! Khi tỉnh ra thì cá đã nằm trong rọ!!!
Trong thời gian 8 tuần lễ ở Trảng Lớn, tôi biết ở trại bên có một anh Dượcsĩ cùng khóa 20 Quân Y Hiện Dịch với tôi, Trung úy Mai Gia Thược, trongcơn tuyệt vọng đã tự tử bằng một quả lựu đạn lượm được khi đi lao động.Tinh thần của tất cả các trại viên đều sa sút, ai cũng buồn bã, bi quan vìkhông biết tương lai sẽ đi về đâu, tựa như ở tù mà không hề có bản án,không biết ngày nào ra.
Ngày 17/8/1975, cán bộ CS tập họp toàn bộ trại viên, chia thành từng nhóm.Họ dùng một danh từ mới lạ tai là “biên chế” để chỉ việc làm này. Rồi từngnhóm được lệnh lên Molotova, di chuyển về những trại khác nhau. Nhóm tôiđược đưa vào doanh trại cũ của Tiểu đoàn Pháo binh Sư đoàn 18 nằm gần thịxã Long Khánh. Lại có màn chia đội, tổ, v.v... Rồi bắt đầu các công tácgọi là “ổn định chỗ ăn chỗ ở”, tức là sửa lán trại, đào giếng lấy nướcxài, khai quang khu vực chung quanh…v.v... Rồi đắp nền, xây “Hội trường”để “sửa soạn bước vào học tập”.
Trong các trại viên, các anh lớn tuổi, có gia đình con cái rồi thì hẳn làlo buồn, rầu rĩ hơn bọn trẻ chưa vợ chưa con như lũ chúng tôi. Mà còn buồnhơn khi những dịp lễ, dịp nghỉ lớn trước kia của mình, như Giáng Sinh vàTết Nguyên Đán, vì càng thêm nhớ gia đình và không khí xum họp vui vẻnhững ngày xưa… Tay Chính Trị Viên của Tiểu đoàn Bộ đội CS quản lý trạitôi là một anh già người miền Trung, tên là Năm Sinh. Tay này hay tập họpcả trại lại để “lên lớp” - chữ của “Cách mạng”, thí dụ như “Quán triệtchính sách khoan hồng nhân đạo của Đảng và Nhà nước”, “Giải thích thêm vềNội qui, Qui định”. Y nói lè nhè, vừa nói vừa đi tới đi lui, tay chắp sauđít, mặt luôn luôn ngước lên trần nhà. Bọn trẻ chúng tôi ngồi tít phíasau, thường lén chơi cờ croix-zero với nhau hoặc lơ mơ suy nghĩ chuyệnriêng, dư biết những gì hắn nói chỉ như là một đoạn băng rè phát ra từ mộtcái máy thu âm cũ, có nghĩa là học thuộc lòng bài bản do Đảng giao cho rồicứ thế mà “bài tiết” lại! Đôi khi, sự dốt nát của những tay cán bộ CS nàycũng mua vui cho chúng tôi được đôi chút. Tôi nhớ lần “lên lớp” trước mùa Giáng Sinh đầu tiên trong tù năm 1975, sau khi đọc lệnh cấmtrại viên tụ tập cầu nguyện trong dịp lễ này, Năm Sinh gật gù nói với vẻđắc ý : “Các anh nên nhớ là Kinh Thánh đã dạy rằng “Phật tức tâm, tâm tứcPhật”, nên đâu cần gì phải tụ họp cầu nguyện?”. Cả lũ tù cười ồ, trong khimặt y ngớ ra, ngạc nhiên không hiểu tại sao!
Mùa Giáng Sinh đầu tiên trong trại trôi qua trong tẻ nhạt. Mọi trại viênđều thấm thía về thân phận cá chậu chim lồng, không ai còn mơ hồ gì nữa.Rồi Tết đến, cũng một bầu không khí ảm đạm, thê lương y hệt như thế. Cũngmay là Ban Quản Giáo cho gia đình gửi quà Tết lên cho bọn tù từ tuầntrước, nên anh em cũng có tí đồ ăn “cải thiện”, vui vẻ với nhau một chúttrong mấy ngày Tết.
Thời gian trong tù chẳng bao lâu sau đã chứng tỏ rõ ràng khả năng dồi dàovà đa dạng của các cựu sĩ quan quân đội miền Nam, khác hẳn bọn sĩ quanquản giáo, rặt là một lũ vô học, không có trình độ, dốt nát ngoài sự tưởngtượng của mọi người. Chỉ với tay không và óc sáng tạo, anh em chế ra đủthứ. Trước tiên là các dụng cụ để làm việc, họ dùng các tấm sắt đường rầyxe lửa cũ, các thứ vật liệu phế thải thu nhặt được mà làm ra mọi thứ: từcuốc, xẻng, xà beng…v.v... cho đến “xe cải tiến”, ròng rọc gỗ, lò rèn vàống bễ... Nhiều anh em có những khả năng đặc biệt, thí dụ như anh NguyễnThanh Thu, họa sĩ kiêm điêu khắc gia, người tạc bức tượng Thương Tiếc nổitiếng đặt trước Nghĩa Trang Quân Đội bên lề Xa lộ Biên Hòa, được các quảngiáo chiếu cố tận tình, nhờ vẽ hết cái này đến cái khác.
Còn nhớ có một anh quản giáo tên là Tý, mà chúng tôi gọi là anh Quản Bia,vì anh có bộ mặt đần độn và hàm răng vẩu, trông giống y hệt như hình tênVC trên tấm bia tập bắn ở các quân truờng. Anh này đem xuống cho anh Thutấm hình bà vợ, một chị nhà quê miền Bắc tiêu biểu, đầu quấn khăn vành dâycó đuôi gà, răng đen mã tấu, mặt rỗ hoa, mắt lác xệch. Anh Quản Bia cungcấp giấy croquis vẽ, màu nước…v.v... không biết kiếm ở đâu ra, bắt anh Thuvẽ cho bà vợ một bức họa chân dung, với yêu cầu là phải “hiện đại hóa” chothành phụ nữ tân thời, nguyên văn lời anh là “giống như phụ nữ miền Nam”!Vài ngày sau, anh Thu trình tác phẩm nghệ thuật đã hoàn tất: chị vợ nhàquê nay môi son má phấn, mặt hết rỗ, mắt không còn lác, tóc phi-dê ngonlành, đeo bông tai, vòng vàng đàng hoàng, trông rất chi là hiện đại vàsang trọng. Anh Bia hài lòng lắm, bèn thưởng cho anh Thu mấy tán đườngthẻ, hí hửng đem tranh về cất kỹ, đợi dịp đi phép sẽ mang về Bắc làm quàcho vợ!
Sau này anh em tù “ngụy” có phong trào đi lượm những mảnh bom, mảnh nhômvụn. Những khi rảnh rỗi ngoài giờ lao động, cả trại thi nhau hì hục cưa,mài, dũa… làm lược, làm trâm cài tóc… để mai này tặng vợ con khi có dịp.Những tấm tôn phế thải được đem về đập cho thẳng, cưa ra, gò thành gầu múcnước, nồi, chảo, thùng… để dùng hàng ngày. Anh em còn làm cả những chiếcva-ly đựng đồ, có khóa đàng hoàng, trông rất “chiến”, chỉ thua va-lysamsonite chút đỉnh. Các anh quản giáo trông thấy, suýt soa khen đẹp, vàđều xuống đặt làm cho mỗi anh một hai cái, chờ đi phép sẽ xài. Tuyệt vờihơn, anh em bắt đầu “chế” đàn guitare, thùng đàn gò bằng tôn, cần đàn thìđẽo bằng gỗ củi, dùng dây điện và dây điện thoại xe lại làm đủ bộ 6 dâyđàn, từ dây “mì” thấp nhất đế dây “mí” cao nhất. Từ những cây đàn đầu tiêncòn thô sơ chưa được chính xác và nghe chưa hay, qua kinh nghiệm dần dầnkỹ thuật được cải tiến nên những cây đàn làm về sau trông đẹp hơn và ngherất được. Nghe nói ở trại khác, anh em còn làm cả vĩ cầm, có archet kéođàng hoàng! Rồi trong trại nổi lên phong trào học nhạc, anh này dạy anhkia, cho qua thời giờ rảnh sau khi lao động mệt nhọc.
Tôi được một anh bạn gò tặng cho cây đàn, sướng quá vì vốn mê nhạc mà đãlâu không được chơi. Cùng tổ với tôi, người tôi thân nhất là Nguyễn NgọcNgạn, giáo chức, Trung úy biệt phái, mà chúng tôi gọi là Giáo Ngạn. Thânvới hắn vì cả hai thằng đều khoái văn nghệ, đều có máu tếu và đều “phảnđộng ngầm”. Thí dụ như bài hát ca tụng già Hồ: “Bác đến từng nhà, thăm cáccụ già, cầm tay chúng con, bác bắt nhịp bài ca Kết Đoàn”, được chúng tôisửa lời thành: “Bác đến từng nhà hăm các cụ già, còng taychúng con, bác bắt buộc người ta kết đoàn…”, hát nho nhỏ với nhaurồi khoái chí cười hinh hích! Người ta đâu có muốn “kết đoàn” theo kiểucủa “Bác” đâu, nhưng bị “Bác” bóp cổ bắt buộc nên rất chán!
Có được cây đàn, tôi và Giáo Ngạn tối tối nghêu ngao ca hát các loại “nhạcvàng”, vì thời còn trẻ tôi thuộc lòng rất nhiều nhạc cả VN lẫn ngoại quốc.Tiếng đồn bay xa, dần dần anh em các đội tổ khác muốn nhớ lại “hương xưa”,mời chúng tôi đi “du ca”, hát “nhạc yêu cầu”, đổi lại anh em đãi chúng tôithuốc lào, chè cháo! Được mấy tháng thì chuyện “du ca” bị chấm dứt sau khichúng tôi bị quản giáo và vệ binh rình bắt quả tang, may chỉ bị làm kiểmđiểm. Báo hại các anh em trong đội tôi cả mấy buổi tối phải “ngồi đồng”sau giờ lao động, kiểm thảo phê bình chúng tôi thay vì có thời giờ làmviệc riêng, nên phàn nàn quá xá!
Cuối tháng 8 năm 1976, chúng tôi bị lùa lên hội trường, bắt đầu “học” bàiđầu tiên của loạt “10 bài học cải tạo dành cho sĩ quan chế độ cũ”, do cánbộ chính trị từ Trung đoàn xuống “lên lớp”, to chuyện lắm. Nói chung thìcác bài bản của CS đều là thứ tuyên truyền rẻ tiền, với những tiêu đề đạiloại như “Đế quốc Mỹ to nhưng không mạnh”, “Đế quốc Mỹ: con đỉa hai vòi”,“Ba giòng thác Cách mạng”, “Nhiệm vụ xây dựng tổ quốc trong thời đại mới”…Bọn tôi xách cái ghế con lên ngồi giả vờ nghe, nhưng kỳ thực hoặc đánh cờ,hoặc “bút đàm” với nhau, hoặc ngủ gật. Lên lớp xong rồi, cán bộ còn ralệnh phải về họp tổ thảo luận, đào sâu thêm để sau đó làm “thu hoạch” chotốt! Tổ tôi cũng phải họp lại vào buổi tối cho có lệ, nhưng bàn với nhaucử hai “lính gác giặc”, một anh thủ cửa trước, một anh cửa sau, còn mọingười ai nấy cứ làm việc riêng - anh thì vá quần áo, anh thì dũa lượcnhôm, anh thì đánh cờ tướng…v.v... Khi thấy có quản giáo hay vệ binh xuấthiện từ xa là “lính gác giặc” báo động, tất cả các đồ linh tinh biến mấttrong chớp mắt, nhìn vào người ta chỉ thấy cả tổ đang ngồi nghiêm chỉnh,nghe một tổ viên (dĩ nhiên là đã có cắt cử từ trước) đang thao thao phátbiểu, đúng y chang yêu cầu học tập! Theo nhận xét và kinh nghiệm của cánhân tôi, đại đa số anh em tù chỉ vờ vịt, vì trót lâm vào cảnh “cá nằmtrên thớt” nên đành cắn răng “nín thở qua sông” cho qua chuyện, chứ họctập học tiếc cái gì! Chẳng đời nào CS “cải tạo” được các cựu sĩ quanQLVNCH!
Thấm thoắt đã lại gần Tết, cái Tết thứ nhì trong tù cải tạo. Các trại viênsau hơn một năm bị tù, dường như đã cam phận hơn và chấp nhận thân phận tùđày không biết ngày ra. Trong hoàn cảnh ấy, làm gì cho vui một chút thìvẫn hơn là rầu rĩ, suốt ngày nhìn trời hiu quạnh! Cán bộ trại cũng ra lệnhcho trại viên sửa soạn văn nghệ đón Xuân để ra điều là “an tâm cải tạo”.
Các đội, tổ được phân công dựng sân khấu ngay tại hội trường chính. AnhNguyễn Thanh Thu xin cán bộ cung cấp vải và sơn để trang trí sân khấu. Anhthực hiện hai tấm vải treo dọc hai bên cánh gà, vẽ hai con hạc rất đẹp,đối xứng với nhau, ngóc mỏ nhìn lên mặt trăng màu vàng trên nền trời đêmđen bạc. Cán bộ xuống xem, tấm tắc khen. Anh Thu nói nhỏ với tôi :”Mấythằng cán bộ này ngu thiệt! Tôi vẽ hai con hạc đứng một mình này có ýnghĩa là bọn mình cô đơn trong tù, nhìn trăng nhớ nhà, rầu thúi ruột, màtụi nó không hiểu, cứ khen tới…”
Ngày mồng một Tết năm ấy, trại viên cũng làm đầu lân bằng tre và giấy bồi,đi múa khắp trại, có cả ông Địa phe phẩy quạt. Giáo Ngạn mặc quần tây, áosơ mi trắng đem theo từ lúc đi trình diện cải tạo, chơi thêm cái cà-vạtlàm bằng bao cát, đi vòng vòng chúc Tết anh em “mau chóng cải tạo tốt đểđược về sớm”. Tôi phụ trách ban nhạc gồm hơn chục anh em, mỗi người mộtcây đàn tôn, cũng ráo riết tập dợt. Trong buổi trình diễn đón Xuân, GiáoNgạn vẫn trong bộ đồ kẻng, đeo cà-vạt, làm MC. Có lẽ đó là lần làm MC đầutiên trong đời của hắn, có thể cũng là điềm báo hiệu sự nghiệp MC sau nàychăng?
Ban nhạc chúng tôi thì ngoài mấy cây đàn guitare tôn, còn có một bộ trốngcũng gò bằng tôn, phất giấy có thoa nước cơm đặc nhiều lần cho cứng, vàmột cây contre-basse làm bằng một cái thùng phuy cưa đôi, dây bật phìnhphình, cũng xôm tụ ra phết. Chúng tôi hòa tấu bài “Those were the days”(khi nộp chương trình văn nghệ cho “khung”, tôi khai là nhạc Liên xô). Bàihát này thời trước 75 khá phổ thông, và lời ca tiếng Anh, nếu ai biết,cũng rất thấm thía đối với hoàn cảnh chúng tôi bấy giờ, ngụ ý nhớ tiếcnhững ngày vui cũ: “Those were the days, my friend - We thought they'dnever end - We'd sing and dance forever and a day - We'd live the life wechoose - We'd fight and never lose - 'Cause we were young and sure to haveour way…” Dĩ nhiên anh em tù cải tạo rất khoái, vỗ tay tán thưởng nhiệtliệt. Cũng may là không có tay ăng-ten nào đâm thọc, nên chúng tôi khôngbị rắc rối. Tối về thì tổ anh nuôi phát cho anh em mỗi người một mẩu thịtheo bé tí, đặc ân của “Cánh mạng” đãi ngộ bọn tù nhân dịp Xuân về… Từngnhóm nhỏ, chúng tôi gom chung đồ tiếp tế, pha cà phê hoặc trà, nấu nồi chèđậu xanh, ngồi quây quần trò chuyện tới khuya, ngậm ngùi nhắc những kỷniệm Tết vui những ngày xưa cũ…
Không lâu sau cái Tết năm ấy, trại viên lại được lệnh “biên chế”, từng độitừng tổ lại bị xé ra, ráp trở lại thành những nhóm mới, đi đến những địađiểm tù khác nhau. Thì ra đây cũng nằm trong kỹ thuật “giam tù phản động”của Cộng sản: họ sợ rằng để bọn tù ở chung với nhau lâu ngày thì sẽ kết bèkết nhóm, thân nhau tin nhau đủ để có thể âm mưu tổ chức trốn trại hoặcnổi loạn. Vì thế cứ độ hơn một năm là họ “biên chế”, chẻ nát các đội, tổ,xào xáo lung tung và chia thành nhiều nhóm mới, chuyển đến nhiều trại mớikhác nhau để tránh hậu họa. Kỹ thuật này do quan thầy Liên Xô và TrungCộng nghiên cứu và áp dụng thành công từ bao nhiêu năm, nay đệ tử ViệtCộng dùng để khống chế bọn tù “ngụy”.
Mới đó mà đã ba mươi mấy năm. Những bạn tù hồi đó, người may mắn vượtthoát ra ngoại quốc, kẻ còn ở lại sống chật vật dưới chế độ CS. Điều lạlùng là có những người trước đây ở trong tù khốn khổ thì giữ được tư cách,lập trường, đáng mặt trượng phu, mà khi vượt biên thành công, ra ngoàisống thoải mái ở nước tự do thì lại dần dà biến chất, lập trường chao đảomột cách quái đản khó hiểu, thậm chí còn ra mặt ca tụng cảnh “phồn vinh”bây giờ của Saigon, thán phục trình độ ăn chơi sang trọng của tầng lớp cánbộ CS ăn trên ngồi trước mà nay họ được “hân hạnh” quen biết! Nói chuyệnvới những người ấy, có khi mình có cảm tưởng là thằng bạn tù ngày xưa đãchết, người mình đang gặp đây là một nguời khác, một người hoàn toàn xalạ! Giáo Ngạn thì từ mười mấy năm nay, kể từ sau vụ Paris By Night “B40”,chắc là ngượng ngùng nên dù qua Úc nhiều lần nhưng chẳng liên lạc với ainữa. Thì thôi! Điểm chung đã không còn, có gặp nhau cũng chỉ là gượng gạo,thà là nghỉ cho rồi!
Trại tù L9T5 Long Khánh của chúng tôi có được hơn chục anh em cựu tù cùngsống tại Sydney, từ 1994 đến nay năm nào cũng họp mặt mỗi cuối năm, hànhuyên chuyện cũ chuyện mới. Những mái đầu xanh ngày xưa giờ đã lốm đốmbạc. Trong nhóm cũng đã có người ra đi vĩnh viễn. Vài anh em ở đây hàngnăm vẫn chung góp để tiếp tế cho một vài bạn tù hồi đó nay còn ở VN, giúphọ có được một cái Tết tương đối tươm tất cho gia đình.
Nhớ lại những kỷ niệm xưa mà lòng không khỏi bồi hồi. Và buồn vì khôngbiết bao giờ mới được về thăm một quê hương Việt Nam, khi thực sự có tự dodân chủ...
0 comments:
Post a Comment