******
Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa
Monday 24 October 2016
Home »
Dân Muốn Biết
» Dân Muốn Biết: Chim khôn chọn cành mà đậu
Dân Muốn Biết: Chim khôn chọn cành mà đậu
Monday, October 24, 2016
No comments
“Từ
bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ chế độ độc quyền đảng trị của đảng cộng
sản, từ bỏ Điều 4 Hiến pháp 2013, chấp nhận hệ thống chính trị đa
nguyên, đa đảng, gia nhập trào lưu chủ nghĩa xã hội dân chủ và đổi tên
đảng. Bằng không thì nguy cơ tha hóa quyền lực dẫn đến tự sụp đổ là
không thể tránh khỏi”.
******
******
Trong bài “Sự trộn lẫn khái niệm của ĐCSVN”,
đăng trên trang Ba Sàm ngày 16/10/2016, GS Nguyễn Đình Cống nói rất
chính xác rằng cần phân biệt 2 khái niệm hoàn toàn khác nhau là “Suy
thoái đạo đức” và “Tự chuyển hóa tư tưởng”. Kẻ suy thoái đạo đức là kẻ
xấu. Người biết tự chuyển hóa là người thức thời, thông minh, dứt khoát
chia tay với những kẻ xấu không thể thay đổi. Tổ tiên ta chả từng răn
dạy “Chim khôn chọn cành mà đậu” đó sao?
Nhận
ra được những nọc độc ở học thuyết Mác – Lenin và những tai họa do học
thuyết đó gây ra, phủ định học thuyết đó, thay đổi lập trường, tư tưởng
Mác-xít để đi theo một con đường khác, nhằm xây dựng một xã hội mang bộ
mặt người tử tế, lương thiện, công bằng, thịnh vượng, văn minh chính là
làm theo lời của tổ tiên.
Chẳng
phải chỉ có người Việt chúng ta mới biết thức thời. Ngay từ trước khi
các quốc gia cộng sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ vào những năm 1989 và
1991, nhiều đảng cộng sản ở các nước này đã “xét lại học thuyết
Mác-Lênin” và hướng sang một con đường khác là chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Xét lại và tự chuyển hóa như họ là khôn, là thức thời, tại sao chúng ta
không học hỏi họ. Trong hàng ngũ những người cộng sản Việt Nam, không
phải bây giờ mà lúc bấy giờ đã từng có nhiều người xét lại chủ nghĩa Mác
-Lênin và thừa nhận sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội dân chủ. Những
người này đã thức thời, khôn trước chúng ta nhiều.
Sau
hơn hai chục năm hô hào chống tham nhũng mà vô vọng, đến nay ông Nguyễn
Phú Trọng đã không dám mạnh tay chống tham nhũng. Ông nói phải thông
cảm với ông vì đây là ta đánh ta. Ông sợ việc đưa ra công khai trị tội
các quan tham và tha hóa của đảng trước pháp luật sẽ làm vỡ bình quý của
ông. Như vậy nguy cơ đảng của ông tự sụp đổ là không thể tránh khỏi,
Đến lúc này, vấn đề đáng suy nghĩ không còn là “có nên tự chuyển hóa tư
tưởng hay không” mà là “Chủ nghĩa xã hội dân chủ và mô hình Bắc Âu có
những ưu việt gì mà có sức hấp dẫn như thế, để chúng ta học hỏi họ, để
tự chuyển hóa”.
Ngày
02/2/2013, tờ The Economist đăng bài “The Nordic countries: The next
super model”, đã được dịch giả Bùi Xuân Bách chuyển sang tiếng Việt với
đầu đề “Các nước Bắc Âu: Siêu mô hình sắp tới” và đăng trên tạp chí Nghiên cứu quốc tế ngày 02/01/2015. Theo tác giả trong tờ The Economist thì các chính khách, dù tả hay hữu, đều có thể học từ các nước Bắc Âu.
Bài
báo này mở đầu: Trong những năm 1980, nước Anh đã dẫn đầu nhờ “Đường
lối Thatcher và tư hữu hóa”. Nước Singapore bé xíu cũng đã từ lâu là một
mô hình cho nhiều nhà cải cách tham khảo. Giờ đây các nước Bắc Âu có
thể cũng đóng một vai trò như thế. Họ (các nước Bắc Âu: Thụy Điển, Đan
Mạch, Na Uy, Phần Lan) đã tránh được cả 2 căn bệnh hiện đại là
bệnh xơ cứng kinh tế của các nước Nam Âu và sự bất bình đẳng cùng cực
của nước Mỹ. Họ đã giải quyết tốt khủng hoảng nợ trong những năm 1990,
trong khi các nước Phương Tây bị công nợ ngập tận cổ. Họ cải cách được
khu vực công, giúp nhà nước của họ hoạt động có hiệu quả và đáp ứng được
những thách thức mà họ phải đối mặt. Những người Pháp tả khuynh đang
hướng tới mô hình Bắc Âu và những người Mỹ bảo thủ cũng đang sợ Barack
Obama ngả theo mô hình Thụy Điển.
Tại
sao vậy? Quả thật trong những thập niên 1970 và 1980, Bắc Âu là những
nước nổi tiếng là “Đánh thuế và chi tiêu” nhưng nay họ đã thay đổi. Chi
tiêu của Chính phủ đã giảm. Thuế cũng đã giảm. Thuế xuất doanh nghiệp
của họ hiện nay là 22%, thấp hơn Mỹ. Họ đang tập trung vào quân bình
ngân sách. Trong khi Obama và Quốc hội Mỹ đang còn ngập ngừng đối với
việc cải cách phúc lợi an sinh xã hội thì Thụy Điển đã cải tạo hệ thống
hưu bổng của họ. Thâm hụt ngân sách của họ chỉ chiếm 0,3% GDP, so với Mỹ
là 7% GDP. Các nước Bắc Âu còn chứng minh rằng hoàn toàn có thể kết hợp
chủ nghĩa tư bản cạnh tranh với guồng máy nhà nước lớn có hiệu quả và
họ đã tìm ra được nhiều cách để hạn chế hiệu ứng tiêu cực của chủ nghĩa
tư bản. Những thành tựu này không tách khỏi những nhân tố có tính quyết
định là chủ nghĩa xã hội dân chủ và vai trò của các đảng xã hội dân chủ
Bắc Âu.
* Quốc tế 2 và chủ nghĩa xã hội dân chủ Tây Âu – Bắc Âu ra đời, phủ định những sai lầm của Marx:
Giữa
thế kỷ 19, ngày 28/9/1864, Marx và Engels đã thành lập Hội Quốc tế công
nhân tại London, thủ đô Vương quốc Anh để lãnh đạo phong trào công nhân
thế giới.
Ngay
từ thời gian này, trong phong trào đã có ý tưởng “xét lại” những tiền
đề mác-xít căn bản của chủ nghĩa Marx. Ý tưởng này dẫn đến quan điểm
khẳng định chủ nghĩa xã hội (hướng đến sự công bằng hơn so với chủ nghĩa
tư bản) mà Marx nói đến (sau này Lênin gọi là giai đoạn đầu của chủ
nghĩa cộng sản) có thể thực hiện thông qua những cải tổ dần dần trong hệ
thống tư bản, không cần phải làm cách mạng vô sản bằng bạo lực. Người
đầu tiên khởi xướng ý tưởng này là Eduard Bernstein (1850-1932). Ông cho
rằng Marx đã sai lầm về dự đoán và về chiến lược. Marx kết hợp chủ
nghĩa xã hội với cách mạng là sai lầm vì đây là 2 vấn đề hoàn toàn khác
nhau về nguồn gốc và về bản chất. Bernstein bác bỏ học thuyết Marx về
giá trị lao động và đấu tranh giai cấp. Ông cho rằng tư bản càng tích tụ
thì số người giàu tăng lên, các cuộc khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa
tư bản có thể khắc phục được và tiên đoán của Marx về sự sụp đổ đến nơi
của chủ nghĩa tư bản là sai lầm.
Phong trào xét lại chủ nghĩa Marx đã đưa đến sự chia rẽ trong phong trào công nhân quốc tế.
–
Tại Tây Âu và Bắc Âu, nhánh xét lại chủ nghĩa Marx đã thành lập liên
minh quốc tế các Đảng xã hội (sau này còn có các Đảng xã hội dân chủ)
tại Paris nước Pháp vào ngày 14/7/1869, tức là Quốc tế 2. Tham gia thành lập Quốc tế 2 có 400 đại biểu của các tổ chức công nhân ở 22 quốc gia Châu Âu và Mỹ.
Quốc
tế 2 đã có nhiều đóng góp quan trọng vào phong trào công nhân thế giới.
Nhiều Đảng xã hội và Đảng xã hội dân chủ đã trở thành đảng cầm quyền (ở
Pháp, Đức, Thụy Điển, Phần Lan…). Trước khi nổ ra Thế chiến thứ nhất,
do bất đồng về chiến lược, Quốc tế 2 tự giải tán vào năm 1876, đến năm
1923 thì phục hồi.
– Tại Nga, Lênin lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng vô sản tháng 10 năm 1917, sau đó thành lập và lãnh đạo Quốc tế cộng sản, gọi
là Quốc tế 3, phát động đường lối bạo lực, nhằm cướp chính quyền ở các
nước tư bản, thành lập nhà nước chuyên chính vô sản, do đảng cộng sản
độc quyền lãnh đạo và cầm quyền.
* Trào lưu dân chủ xã hội và “Con đường thứ ba” từ sau khi kết thúc chiến tranh lạnh:
Chiến
tranh lạnh trên thế giới kết thúc kể từ sau khi Liên Xô sụp đổ vào năm
1991. Từ đó, xu thế toàn cầu hóa phát triển mạnh, tác động sâu sắc cả
mặt tích cực và mặt tiêu cực của nó đến mọi quốc gia. Chủ nghĩa tự do
mới nổi lên chiếm ưu thế ở hầu hết các nước tư bản phát triển.
Chính sách của các đảng xã hội dân chủ theo con đường thứ ba, trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế có một số điểm chung:
1-
Kiên trì các giá trị cơ bản của trào lưu xã hội dân chủ là “Tự do, Bình
đẳng, Dân chủ”. Dân chủ được xem là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội dân
chủ.
2-
Các đảng xã hội dân chủ phải thích ứng linh hoạt trước những diễn biến
của tình hình quốc tế cũng như trong nước, nhằm từng bước thực hiện các
giá trị cơ bản này.
3-
Thừa nhận tính đặc thù của mỗi quốc gia (Anh, Hà Lan, Thụy Điển, Pháp,
Đức …), tính năng động của mỗi đảng xã hội dân chủ trong việc hoạch định
chính sách của mình.
Quá
trình toàn cầu hóa diễn ra cùng với xu thế chính của tình hình thế giới
sau chiến tranh lạnh là hòa bình và phát triển. Xã hội ở các nước theo
chủ nghĩa xã hội dân chủ không phải là xã hội tư bản nhưng cũng không
phải là xã hội xã hội chủ nghĩa. Về cơ bản, “Con đường thứ ba” của trào
lưu xã hội dân chủ là xã hội tư bản hiện đại được điều chỉnh bởi một số
chính sách của các đảng xã hội dân chủ, với các điểm sau:
–
Các đảng xã hội dân chủ từ bỏ quan điểm chính trị dựa trên phân tích
mâu thuẫn giai cấp, do đội ngũ công nhân thời Marx khảo sát ở thế kỷ 19
nay đã teo lại nhanh chóng, đồng thời “Thế giới 2 cực” (XHCN và TBCN) đã
mất dần. Hiện nay sự phân hóa xã hội không do sự phân chia giai cấp mà
do sự phân chia các nhóm lợi ích, gắn liền với mức sống và nghề nghiệp
của họ. Đây là một yếu tố quy định chính sách của các đảng xã hội dân
chủ
Các
đảng xã hội dân chủ đả phá quan điểm đối lập 2 cực, không lấy giai cấp
làm cơ sở cho các chính sách nhưng nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng
trong việc giải quyết những vấn đề cơ bản, thiết yếu của xã hội, có
chính sách bao quát điều kiện sinh sống của mọi thành viên của xã hội.
Các
đảng xã hội dân chủ vẫn tiếp tục đường lối dung hòa mâu thuẫn xã hội,
thực hiện nguyên tắc dân chủ trong quản lý xã hội, nhưng có điều chỉnh,
về cơ bản là chuyển từ dân chủ theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số
sang nguyên tắc đồng thuận xã hội.
–
Trước đây “công bằng” được hiểu là san đều mức sống giữa các cá nhân
thì nay công bằng là phải tạo ra các cơ hội như nhau cho mọi người trong
xã hội.
–
Các đảng xã hội dân chủ cho rằng trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự phát
triển của khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin đang đặt ra
hàng loạt vấn đề mới về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Sự hình
thành xã hội thông tin, kinh tế trí thức đòi hỏi các đảng xã hội dân chủ
phải có nhũng chính sách thích hợp.
–
Vai trò nhà nước ở các nước tư bản phát triển đang đứng trước một mâu
thuẫn mới: một bên là sự cần thiết của vai trò quản lý quốc gia tập
trung, một bên là hoạt động ngày càng mạnh mẽ của các tổ chức phi chính
phủ NGO (non government organization). Chính sách của các đảng xã hội
dân chủ phải thích ứng với bối cảnh này, tạo điều kiện cho công dân làm
quen và tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội đó.
– Trên lĩnh vực kinh tế- xã hội, con đường thứ ba tập trung giải quyết 2 mục tiêu lớn:
1- Gạt bỏ mọi trở ngại cho kinh tế phát triển.
2- Hạn chế tối đa nạn thất nghiệp.
Để đạt được 2 mục tiêu này, Chính phủ do các Đảng xã hội dân chủ cầm quyền thực hiện:
a)– Cân bằng cán cân thu-chi, cắt giảm phúc lợi xã hội theo kiểu bao cấp.
b)- Khuyến khích đầu tư sản xuất kinh doanh bằng cách giảm thuế và hạn chế sự can thiệp của nhà nước.
c)-
Chuyển mục tiêu đầu tư phúc lợi từ đầu tư cho sinh hoạt sang đầu tư cho
việc làm và đào tạo nguồn nhân lực. Chuyển nguyên tắc của nhà nước phúc
lợi (the welfare state) sang nguyên tắc nhà nước đầu tư cho xã hội (the
social investment state).
* Đã từng có những người cộng sản Việt Nam thừa nhận sức hấp dẫn của trào lưu xã hội dân chủ.
Sau
khi Liên Xô sụp đổ, một số nhà lý luận của ĐCSVN đã nghiên cứu về trào
lưu xã hội dân chủ và về Đảng xã hội dân chủ Thụy Điển, trong đó có Trần
Nhâm, Đào Duy Quất, Hồ Châu, Trần Nhu, Lưu Đạt Thuyết, Thái Văn Long,
Đặng Công Minh, Nguyễn Hoàng Giáp.
–
Trong bản báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài KX 01. 02 năm 1995 của Viện
Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, PTS Đào Duy Quất, chủ nhiệm Viện
thông tin khoa học của Viện này viết: “Quan điểm khá thịnh hành ở
Liên Xô và Đông Âu trước khi sụp đổ, đối với trào lưu xã hội dân chủ là
Chủ nghĩa xã hội đích thực và là Chủ nghĩa xã hội hiện thực”. Ở một đoạn khác, ông viết: “Không
phải ngẫu nhiên mà sau cuộc khủng hoảng dữ dội làm sụp đổ một bộ phận
quan trọng của chủ nghĩa xã hội thì nhiều đảng cộng sản ở Liên Xô cũ và
Đông Âu đã chuyển sang trào lưu xã hội dân chủ”.
–
Trong bài khảo sát “Về Đảng xã hội dân chủ Thụy Điển” đăng ngày
10/11/2009 trên tạp chí xây dựng đảng, GS TS Nguyễn Hoàng Giáp, Viện
trưởng Viện quan hệ quốc tế của Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh đã viết,
trích nguyên văn như sau:
“Đảng xã hội dân chủ Thụy Điển đã có 65 năm cầm quyền và thực sự là kỷ lục độc nhất vô nhị trong nền chính trị đa đảng ở Phương Tây đương đại. Thành
công của Đảng XHDC Thụy Điển có nhiều nguyên nhân, trước hết phải kể
đến những thành tựu đạt được trong việc phát triển kinh tế -xã hội khi
Đảng này cầm quyền. Đảng XHDC Thụy Điển đã có công lớn trong việc đưa
Thụy Điển từ một quốc gia lạc hậu ở Châu Âu trở thành một quốc gia phát
triển, được ca ngợi là một mô hình thành công của Con đường thứ ba theo
chủ nghĩa xã hội dân chủ. Bước sang thế kỷ 21, Thụy Điển đã có GDP tính
trên đầu người 22. 000 USD. Thụy Điển về cơ bản đã thanh toán xong sự
cách biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động
chân tay. Mức chênh lệch giữa người giầu và người nghèo ở Thụy Điển
không lớn Ở Thụy Điển, 10% số người có thu nhập thấp nhất chiếm 3,7%
GDP, trong khi 10% số người có thu nhập cao nhất chiếm 20,1 % GDP. Trong
cùng thời gian thì ở Pháp tỉ lệ so sánh này là 2,5% GDP và 24,9% GDP,
còn ở Mỹ là 1,5% GDP và 28,5 GDP.
Thành
công của Đảng XHDC Thụy Điển còn từ sách lược liên minh với các Đảng
khác, tập họp lực lượng một cách mềm dẻo. Đảng XHDC Thụy Điển có nửa
triệu đảng viên, chiếm khoảng 6% tổng dân số, có cơ sở đảng ở tất cả 21
tỉnh, thành trong cả nước nhưng bộ máy cơ quan đảng rất gọn nhẹ và hoạt
động rất hiệu quả. Cơ quan của trung ương đảng chỉ có khoảng 100 cán bộ,
nhân viên. Trong
hệ thống chính trị đa nguyên, Đảng XHDC Thụy Điển luôn luôn giữ cho
mình hình ảnh giầu mà không xa xỉ, đối xử bình đẳng với quần chúng nhân
dân, bảo đảm công bằng xã hội. Quan chức của Đảng tham gia chính quyền
được giám sát chặt chẽ, không thể và không dám tham nhũng”.
Ở cuối bài, GS Giáp viết: “Những
kinh nghiệm của Đảng xã hội dân chủ Thụy Điển trên các lĩnh vực, đặc
biệt trong quản lý kinh tế và xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền có
giá trị tham khảo rất bổ ích cho Đảng cộng sản Việt Nam”. Tuy
nhiên hình như Đảng cộng sản Việt Nam không học được gì từ những cái
hay của Đảng xã hội dân chủ Thụy Điển. Có thể vì lý do nhạy cảm nào đó
của bản thân, GS Giáp không cho Đảng biết những điều kiện cần và đủ, để
Đảng cộng sản Việt Nam có thể trở thành “tốt” như Đảng xã hội dân chủ
Thụy Điển. Đó là: Từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ chế độ độc quyền đảng
trị của đảng cộng sản, từ bỏ Điều 4 Hiến pháp 2013, chấp nhận hệ thống
chính trị đa nguyên, đa đảng, gia nhập trào lưu chủ nghĩa xã hội dân chủ
và đổi tên đảng. Bằng không thì nguy cơ tha hóa quyền lực dẫn đến tự
sụp đổ là không thể tránh khỏi.
19-10-2016
Hoàng Vân Khải
____
Tư liệu tham khảo:
1- Toàn cầu hóa là gì? – Tạp chí nghiên cứu quốc tế 09/7/2016
2- Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau – Tạp chí nghiên cứu quốc tế 12/11/2014
3- Tác động chính trị của toàn cầu hóa – Tạp chí nghiên cứu quốc tế 27/5/2014
4- Cách dung hòa toàn cầu hóa và các giá trị dân chủ – Tạp chí nghiên cứu quốc tế 11/10/2016
5- Thúc đẩy dân chủ trong vai trò một giá trị toàn cầu – Tạp chí nghiên cứu quốc tế 12/01/2014
Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!
.
.
0 comments:
Post a Comment