Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa
Sunday, 26 October 2014
Home »
Chính trị
» Nhân ngày ban hành Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà 26-10-1956 nghĩ về: SỰ HÌNH THÀNH NỀN CỘNG HOÀ VÀ CHẾ ĐỘ VIỆT NAM CỘNG HOÀ TẠI VIỆT NAM
Nhân ngày ban hành Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà 26-10-1956 nghĩ về: SỰ HÌNH THÀNH NỀN CỘNG HOÀ VÀ CHẾ ĐỘ VIỆT NAM CỘNG HOÀ TẠI VIỆT NAM
Sunday, October 26, 2014
No comments
· Giả
mạo về một nền dân chủ cộng hoà, vì trước sau đều chỉ nhằm mục đích lừa
bịp công luận thế giới để tìm hậu thuẫn quốc tế, ru ngủ nhân dân, trong
khi thực chất vẫn là độc tài cộng sản phản dân chủ.
· Và
vì vậy, có thể nói nền cộng hoà thực sự đã chỉ được thiết lập và thực
hiện tại Việt Nam kể khi Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà được ban hành ngày
26-10-1956. Vì nền cộng hoà ấy đã là nền tảng cho một chế độ chính trị
dựa trên nền cộng hòa, với ý nghĩa chủ quyền thuộc về toàn dân, một chế
độ dân chủ cả hình thức lẫn nội dung, dù phôi thai còn nhiều khuyết tật,
song đã phản ánh đúng ý nghĩa của từ ngữ Cộng Hòa và ý nguyện của toàn
dân Việt Nam.
Hôm
nay, nhân ngày 26-10- 2014, nghĩ về Hiến pháp Việt Nam Cộng Hoà ban
hành ngày 26-10-1956, chúng tôi muốn gửi bài viết này đến quý độc giả
người Việt Nam không cộng sản trong cũng như ngoài nước, đề cùng tự hào
với quá khứ rằng chúng ta đã chọn đúng nền tảng một chế độ chính trị phù
hợp với ý nguyện của toàn dân và tin tưởng mãnh liệt ở tương lại, rằng nhất
định chúng ta sẽ thiết lập được một chế độ dân chủ trên nền tảng cộng
hoà đã được xác lập 58 năm trước đây tại Việt Nam.Nội dung bài viết lần
lượt trình bầy:
1.- Bối cảnh hình thành Nền Cộng Hòa tại Việt Nam.
2.- Nền Cộng Hòa và Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm
3.- Nền Cộng Hòa và các bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa.
4.- Nền Cộng Hòa và các chế độ Việt Nam Cộng Hòa (Đệ nhất và Đệ Nhị VNCH)
I/- BỐI CẢNH HÌNH THÀNH NỀN CỘNG HÒA TẠI VIỆT NAM.
Như
quý độc giả đã biết, sau Thế Chiến Hai, chủ nghĩa thực dân cũ đã buớc
vào thời kỳ suy tàn,xu thế giải thực đã buộc các đế quốc từng có nhiều
thuộc địa như Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bố Đào Nha, Hà Lan ….. đã phải lần
lược trao trả độc lập cho các nước bị trị. Điển hình là một số nước
trong vùng như Ấn Đô và Hồi Quốc được Đế Quốc Anh trao trả độc lập năm
1947; Indonesia được Hà Lan trao trả độc lập năm 1949; Triều Tiên được
Nhật trao trả độc lập năm 1945; Lào và Cao Miên Pháp trao trả độc lập
năm 1953. . . Do đó, theo nhận định của nhiều sử gia và học giả nghiên
cứu chính trị và lịch sử, thì chẳng cần cuộc kháng chiến gian khổ 9 năm
do đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) phát động và chủ đạo tiến hành (1945-
1954) làm hao tổn nhiều xương máu nhân dân, tàn phá tài nguyên đất nước
vô ích, để có được cái gọi là “Chiến thắng Điện Biên lịch sử”(7-5-1954),
thì thực dân Pháp sớm muộn cũng phải trao trả độc lập cho Việt Nam cũng
như nhiều thuộc địa khác. Chẳng qua Hồ
Chí Minh và Cộng đảng Việt Nam tiến hành cuộc chiến tranh này, chỉ là
lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân, dùng chiêu bài độc lập dân tộc để
chiếm quyền thống trị đất nước, để áp đặt chế độ độc tài đảng trị CS,
theo chủ trương bành trướng lãnh thổ, nhuộm đỏ tòan cầu của cộng sản
quốc tế, đứng đầu là hai tân đế quốc Đỏ Nga – Tầu
Thật
vậy, trên thực tế, trước áp lực của xu thế giải thực, thực dân Pháp đã
phải lùi từng bước, trao trả độc lập từng phần cho Việt Nam, qua các
Hiệp Định Vịnh Hạ Long ngày 5 tháng 6 năm 1948, “đề cử” hòang đế Bảo Đại
làm Quốc Trưởng bù nhìn, và Pháp thừa nhận Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Quốc Trưởng Bảo Đại như là một quốc gia độc lập nằm trong Liên Hiệp
Pháp. Ngày 8 tháng 3 năm 1949 Tổng Thống Pháp Vicent Auriol và Quốc
Trưởng Bảo Đại đã ký “Thỏa Ước Elysée”. Theo đó, Pháp hứa sẽ xây dựng
cho Việt Nam một quân đội quốc gia chống cộng. Đây là khởi điểm của sự
thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, gốm có các binh lính và sĩ quan
“Khố Xanh Khố Đỏ” của Pháp chuyển qua. Chính những sĩ quan có xuất thân
này, đã nắm vận mệnh quốc gia sau khi đảo chánh lật đổ Tổng Thống Diệm,
và là một trong những nguyên nhân chủ yếu tạo tiền đề cho cộng sản Bắc
Việt cưỡng đoạt được Miền Nam vào tay cộng sản (30-4-1975).
Thề
rồi, cuối cùng thực dân cũng đã Pháp phải trao trả độc lập hòan tòan
cho Việt Nam. NhưngViệt Nam có số phận không may đã rơi vào thế gọng kìm
của một chiến lược quốc tế mới, với cuộc chiến tranh ý thức hệ (cộng sản chủ nghĩa và
tư bản chủ nghĩa), nên đất nước bị qua phân theo Hiệp Định Genève ngày
20-7-1954, do sự áp đặt của các cường quốc, trái với nguyện vọng chung
của quốc dân Việt Nam.
Hệ
quả là một nửa nước Miền Bắc rơi vào tay đảng Cộng sản Việt Nam, thiết
lập “Nền Chuyên Chính Vô Sản” , trên đó xây dựng chế độ độc tài tòan trị
cộng sản, với quyền thống trị độc tôn, độc quyền của đảng CSVN, một
công cụ chiến lược của hai tân đế quốc đỏ Nga-Tầu .
Nửa nước Miền Nam Việt Nam được trao trả cho chính quyền chính thống
quốc gia Việt Nam, thiết lập nền Cộng Hòa trên đó xây dựng chế độ tự do
dân chủ, tức Việt Nam Cộng Hòa, với sự hổ trợ của Hoa Kỳ và các đồng
minh Thế Giới Tự Do trên nguyên tắc, song trên thực tế đã bị Hoa Kỳ biến
thành công cụ chiến lược của mình, một công cụ ngay tình khác
với công cụ tri tình cho Nga- Tầu của Cộng đảng VN và chế độ Cộng sản
Bắc Việt do Ông Hồ và đảng CSVN tự nguyện. Vì vậy, đảng Cộng sản Việt
Nam đã là một công cụ tri tình thực hiện âm mưu bành trướng của cộng sản
quốc tế, đứng đầu là Nga Tầu lúc đó, nên đã phát động và tiến hành cuộc
chiến tranh cốt nhục tương tàn để thôn tính Miền Nam Việt Nam.
Chính
quyền chính thống quốc gia và nhân dân Miền Nam,trong thế chẳng đặng
đừng đã phải làm tiền đồn chống cộng cho Hoa Kỳ và Thế giới tự do, buộc
lòng phải thực hiện cuộc chiến tranh tự vệ để ngăn chặn, đẩy lùi cuộc
chiến tranh xâm lược đó của Cộng sản Bắc Việt, để bảo vệ phần đất tự do
Miền Nam, trong ý hướng giữ vững độc lập quốc gia, chủ quyền dân tộc, để
vừa chiến đấu chống cuộc xâm lăng của CSBV, vừa nỗ lực xây dựng thành
công chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa, tiến tới thống nhất đất
nước, không phải bằng bạo lực quân sự, mà bằng sự ưu thắng của chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa và nền kinh thị trường phát triển phồn vinh ở Miền Nam, trên chế độ độc tài tòan trị CS và nền kinh tế chỉ huy nghèo nàn lạc hậu ở Miền Bắc .
Nghĩa là chúng ta, muốn tiến tới tình trạng như Nam Bắc Hàn hiện nay,
mà sự thống nhất Hàn Quốc một cách hòa bình, với sự ưu thắng của Nam Hàn
dân chủ phồn vinh trên Bắc Hàn độc tài cộng sản nghèo đói và lạc hậu,
chỉ còn là vấn đề thời gian.
Chính
vì mục tiêu và lý tưởng vừa nêu, Nền Cộng Hòa đã được xác lập tại Việt
Nam, trên đó xây dựng chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa thay thế cho chế
độ quân chủ chuyên chế tồn tại nhiều thế kỷ trước đó tại Việt Nam.
II/- NỀN CỘNG HÒA VÀ CỐ TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM:
Theo
tự điển Hán Việt của học giả Đào Duy Anh, Cộng Hòa (Republic:Cộng đồng,
dân chúng)có ý nghĩa như là nền tảng cho một chế độ dân chủ, “Chế độ
Cộng Hòa” (Repubican Regime)với “Chủ quyền quốc gia thuộc về tòan dân”.
Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm được coi là người khai sáng Nền Cộng Hòa như
thế tại Việt Nam.
Sử
liệu cận đại Việt Nam ghi nhận các sự kiện có ý nghĩa sau đây: ngày 7
tháng 7 năm 1954, chí sĩ Ngô Đình Diệm đang sống lưu vong ở hải ngọai đã
về nước chấp chánh theo sự ủy thác của Vua Bảo Đại trong ngôi vị Thủ
Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam, để chống cộng và nếu cần chống cả
thực dân và phong kiến để bảo vệ tổ quốc (Như hồi ký của cựu hòang Bảo Đại đã viết).
Vì xu thế thời đại, Thủ Tướng Diệm không thể duy trì thể chế quân chủ
chuyên chế, nên với sự hậu thuẫn của 18 đòan thể chính trị (Hội Đồng
Cách Mạng Quốc gia), họp tại Dinh Độc Lập đã quyết định thiết lập chế độ
Cộng Hòa, theo xu thế thời đại, đáp ứng ý nguyện của quốc dân, qua cuộc
trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955 truất phế vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng
của nền phong kiến Việt Nam thiết lập nhiều thế kỷ trước đó, tôn vinh
Thủ Tướng Ngô Đình Diệm là Tổng Thống đầu tiên chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Để
có căn bản pháp lý, ngày 26-10-1955 Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã ban hành
Hiến Ước Tạm Thời Số 1, và ngày 23 tháng 1 năm 1956 đã ký ban hành Dụ
Số 8 thiết lập Quốc Hội Lập Hiến định hướng cho chế độ Cộng Hòa sẽ được
xác lập. Trên căn bản các văn kiện pháp lý hành chánh này, nhân dân Miền
Nam lần đầu tiên được cầm lá phiếu với tư cách là người dân một nước
độc lập, bầu người đại diện vào Quốc Hội Lập Hiến để thay mặt mình sọan
thảo ra một bản hiến pháp dân chủ trên nền tảng Cộng Hòa đầu tiên. Trong
vòng 9 tháng sau, Quốc hội do dân bầu này đã hòan thành bản Hiến Pháp
Việt Nam Cộng Hòa và ngày 26 tháng 10 năm 1956,Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
đã ký ban hành bản hiến pháp đầu tiên làm căn bản thíêt lập các định chế
quốc gia, với tam quyền phân lập và cơ cấu của một chính quyền cộng hòa
với chủ quyền quốc gia thuộc về tòan dân.
III/- NỀN CỘNG HÒA VÀ CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM CỘNG HÒA.
Như
trên đã trình bầy Nền Cộng Hòa là nền tảng của một chế độ chính trị với
chủ quyền quốc gia thuộc về tòan dân, theo học thuyết chính trị dân chủ
Phương Tây, tương tự quan niệm dân chủ Phương Đông “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, đều lấy “Dân làm gốc”.
Tiếc rằng, quan niệm dân chủ này chỉ có trong sách vở ở xã hội phong
kiến, thực tế Vua vẫn là tối thượng, chủ quyền quốc gia thuộc về vua,
chứ không phải của tòan dân. Cũng như trong “nền chuyên chính vô sản” chủ quyền quốc gia thuộc về đảng cộng sản, quyền “Làm chủ của nhân dân” chì là bánh vẽ.
Vì
vậy muốn chủ quyền quốc gia thuộc về tòan dân, cần xây dựng một chế độ
dân chủ trên nền tảng Cộng Hòa. Để thiết định chế độ Dân Chủ Cộng Hòa
này, cẩn có một bản Hiến Pháp, một văn kiện pháp lý căn bản qui định rõ
quyền lợi nghĩa vụ người dân trong tương quan với các cơ quan công
quyền, với các viên chức được người dân ủy quyền qua lá phiếu trong các
cuộc bầu cử tự do, cử người đại diện cho dân, làm nhiệm vụ công bộc ăn
lương của nhân dân, điều hành guồng máy công quyền quốc gia, từ thượng
tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở, theo ý nguyện của người dân, sao cho
xã hội ổn định, phát triển, quốc gia phú cường, mọi tầng lớp nhân dân có
điều kiện phát triển đồng đếu, “cộng đồng đồng tiến”, có đời sống sống ấm nó, mưu cầu hạnh phuc riêng (cá nhân) cũng như chung (tập thể).
Trong
ý hướng trên, bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa đầu tiên được sọan thảo
và ban hành ngày 26-10-1956 và bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa thứ hai
đuơc ban hành ngày 1-4-1967. Bản
Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 26-10-1956 được sọan thảo dựa trên hai nền
tảng triết lý và chính trị. Nền tảng triết lý là triết học duy tâm, lấy
con nguời là trung tâm, là chủ thể xã hội và là đối tuợng phục vụ của xã
hội.Nền tảng chính trị là chủ nghĩa nhân vị, trên đó thiệt lập chế độ
cộng hòa với chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân,các quyền dân chủ, dân
sinh và nhân quyền được tôn trọng và bảo vệ . Chủ đích của các nhà lập hiến khi chọn chủ nghĩa Nhân Vị làm nề tảng cho chế độ Cộng Hòa để soạn thảo ra Hiến Pháp hữu thần Việt Nam Cộng Hòa là để đối kháng với triết học duy vật và
chủ nghĩa Cộng Sản vô thần, là nền tảng hiến pháp của chế độ vô thần
Cộng sản Bắc Việt, vốn coi con nguời là sản phẩm, là công cụ của xã hội,
cá nhân phải phục vụ xã hội và quyền lợi cá nhân phải hy sinh cho quyền
lợi tập thể (thực chất là hy sinh cho quyền lợi của một tập đòan thống trị CS),
trong một xã hội mà những nguời cộng sản muốn thiết lập, đó là xã hội
“Xã hội chủ nghia”, giai đọan đầu của “xã hội cộng sản”.
Tham vọng của các nhà lập hiến Việt Nam khi chọn chủ nghĩa Nhân Vị làm
nền tảng cho chế độ Cộng Hòa đối kháng với chủ nghĩa cộng sản Bắc Việt
với chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (giả hiệu) như là một võ khí lý
luận để đánh bại đối phương về mặt ý thức hệ, song song với nỗ lực quân
sự đập tan cuồng vọng xâm lăng Miền Nam của Cộng sản Bắc Việt lúc bấy
giờ. Với võ khí lý luận là chủ nghĩa Nhân Vị và chế độ Cộng Hòa, các nhà
lập hiến Việt Nam Cộng Hòa tin rằng, nguời dân sẽ thấy đuợc hai con
đuờng “Nhân vị chủ nghĩa” và “Cộng sản chủ nghia” dẫn đến mục tiêu tối hậu hòan tòan trái nguợc: Chủ nghia nhân vị “Xây dựng một xã hội vì con nguời,tôn trọng phẩm giá con nguời và xã hội phải phục vụ lợi ích tối thuợng của con nguời”. Trong khi chủ nghĩa cộng sản “xây dựng một xã hội Vì đảng cộng sản, nô dịch và xã hội hóa con nguời, biến con nguời thành công cụ phục vụ xã hội(thực chất là phụng vụ giai cấp thống trị), nhân vị bị hạ thấp ngang tầm lòai vật”(theo lý luận và thực hành Duy vật biện chứng của CS).
Đồng thời, chủ nghĩa Nhân
Vị sẽ là nền tảng cho chế độ chính trị Cộng Hòa, để bảo đảm được nhân
vị và các nhân quyền căn bản của người dân. Trong bối cảnh cuộc chiến
tranh chống cộng bảo vệ nền Cộng Hòa và chế độ dân chủ VNCH, chủ nghĩa
Nhân Vị giúp nguời dân phân biệt đuợc mục tiêu và lý tuởng tranh đấu tối
hậu của nguời Việt Quốc gia là thiết lập cho kỳ đuợc một chế độ dân chủ
cộng hòa là vì nhân vị và phẩm giá con người, vì hạnh phúc của nhân
dân, quyền dân chủ dân sinh và nhân quyền được bảo đảm với tam quyền
phân lập, trái nguợc với chế độ độc tài tòan trị cộng sản độc tài, độc
tôn và độc quyền thống trị của đảng CSVN, vì quyền lợi của giai cấp
thống trị là các cán bộ đảng viên CS.
Chính vì vậy mà chủ thuyết nhân vị đuợc xác tín qua phần “Mở Đầu” của Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa ngày 26-10-1956 như sau:
“ Tin tuởng ở sự truờng tồn của nền văn minh Việt Nam, cần có trên nền tảng duy linh mà tòan dân đều có nhiệm vụ phát huy;
“
Tin tuởng ở giá trị siêu việt của con nguời mà sự phát triển tự do.
Điều hòa và đầy đủ trong cương vị cá nhân cũng như trong đời sống tập
thể phải là mục đích của mọi họat động quốc gia. . .”.
Như
vậy, chính trên nền tảng chủ nghĩa Nhân Vị, Quốc hội Lập Hiến đầu tiên
của Quốc Gia Việt Nam đã sọan ra bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa đầu
tiên,(hòan tòan khác với cái gọi là Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Cộng sản Bắc việt “ngụy cộng hòa”),
và đã đuợc Thủ Tướng Ngô Đinh Diệm, sau trở thành vị Tổng Thống đầu
tiên chế độ Việt Nam Cộng Hòa, đã ký ban hành ngày 26-10-1956.
Nội
dung Bản Hiến Pháp này,ngòai phần “Mở Đầu”, gồm 10 Thiên và 98 Điều thể
hiện rõ Nguyên tắc phân quyền: Thiên thứ nhất quy định những “Điều
khỏan căn bản”; Thiên Thứ Hai: “Quyền lợi và Nhiệm vụ nguời dân”; Thiên
thứ ba:“Tổng Thống”; Thiên thứ tư: “Quốc Hội”; Thiên thứ năm “Thẩm
Phán”; Thiên Thứ sáu “Đặc biệt Pháp Viện”; Thiên Thứ Bẩy “Hội ĐồngKinh
Tế Quốc gia”; Thiên thứ tám “Viện Bảo Hiến”; Thiên Thứ Chín “Sửa Đổi
Hiến Pháp” và Thiên Thứ muời “Các Điều Khỏan Chung”.
Cuộc
đảo chánh quân sự ngày 1-11-1963, với sự trợ giúp của ngọai bang đã đưa
đến cái chết thảm thương cho Cố Tổng Thống Ngô Đinh Diệm, nguời có công
khai sáng nền Cộng Hòa Việt Nam. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa ngày
26-10-1956 bị hủy bỏ cùng với sự cáo chung nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng
Hòa.
Sau những năm bất ổn chính trị triền miên, xã hội xáo trộn do các phe phái chính trị, quân sự tranh giành quyền lực (1963-1967) Bản Hiến Pháp Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa
đã được Quốc Hội Lập Hiến thông quan ngày 18-3-1967 và đã được Tướng
Nguyễn Văn Thiệu trong tư cách Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc gia ban
hành ngày 1-4-1967. Cuộc bầu cử ngày 3-9-1967 đã đưa Tướng Nguyễn Văn
Thiệu lên ngôi vị Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, là vị Tổng Thống thứ hai
của nền Cộng Hòa Việt Nam.
Ngày
5-4-1975,truớc áp lực của ngọai bang và biến chuyển của tình thế, Tổng
Thống Thiệu đã phải từ chức và trao quyền cho Phó Thổng Thống Trần Văn
Hương theo qui định của Hiến Pháp. Chưa đầy một tháng sau, ngày
28-4-1975, Tổng Thống Trần Văn Huong, vị Tổng Thống thứ ba và cũng là vị
Tổng Thống hiến định cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa , do áp lực của
tình thế, đã lại phải từ chức để trao quyền ngoài dự liệu của Hiến Pháp
cho Tướng Dương Văn Minh làm nhiệm vụ khai tử chế độ đệ nhị Việt Nam
Cộng Hòa theo sự đạo diễn, sắp xếp của ngọai bang, như ông ta đã từng
theo lệnh ngọai bang cầm đầu nhóm đảo chánh phá đổ chế độ Đệ nhất Việt
Nam Cộng Hòa, sát hại Tổng Thống Diệm, người khai sáng nền Cộng Hòa Việt
Nam 12 năm trước đó (1963-1975)
Nếu
so sánh tổng quát hai bản Hiến Pháp chế đô đệ nhất và đệ nhị Việt Nam
Cộng Hòa, cả hai có nền tảng chung là Cộng Hòa, cùng vận dụng nguyên tắc
phân quyền theo học thuyết chính trị dân chủ Phương Tây, trong việc
thiết lập và điều hành các định chế quốc gia và guống máy công quyền,
nhằm thể hiện “Quyền lực quốc gia thuộc về tòan dân” và bảo đảm các nhân
quyền và dân quyền cơ bản của công dân được tôn trọng, bảo vệ và hành
xử.
Nhưng khác là Hiến pháp 26-10-1956 dựa trên hai nền tảng chủ nghĩa nhân vị và học thuyết dân chủ Phương Tây để thiết lập chế độ Cộng Hòa, với nguyên tắc phân quyền, còn bản Hiến Pháp 1-4-1967, chỉ dựa trên nền tảng chủ thuyết chính trị dân chủ Phương Tây để thiết lập chế độ Cộng Hòa. Nếu so sánh nội dung
thì Hiến pháp VNCH ngày 1-4-1967 hòan chỉnh hơn Hiến Pháp 26-10- 1956,
với các định chế quốc gia và cơ cấu tổ chức chính quyền có nhiều điểm
giống Hiến Pháp Hoa Kỳ nên có tính dân chủ cao hơn, như phân định rõ
Tổng Thống nắm quyền hành pháp, Quốc Hội lưỡng viện (Thượng viện và Hạ
viện)lập pháp và Tối cao Pháp Viện nắm quyền tư pháp, thể hiện rõ quyền
lực quân bình của nguyên tắc tam quyền phân lập. Trong khi, Hiến pháp
26-10-1956, chỉ có quyền hành pháp mạnh (Tổng Thống) và lập pháp
yếu(Quốc Hội) là thể hiện qua cơ chế, còn tư pháp chỉ quy định như một
đòan thể (Thẩm phán đoàn) không có tính cơ cấu mạnh. Thế nhưng, việc vận
dụng Hiến Pháp vào thực tế thì có lẽ, Hiến Pháp VNCH 26-10-1956 có thể
là phù hợp hơn trong bối cảnh đất nước đang có chíến tranh lúc bấy
giờ(cần một hành pháp mạnh), với trình độ ý thức dân chủ người dân chưa
cao và đối phương CS có thể lợi dụng quyền dân chủ rộng rãi để lũng đọan
chính quyền, quân đội và các lực lương an ninh của VNCH, như thực tế
cho thấy.
IV/- NỀN CỘNG HÒA VÀ CÁC CHẾ ĐỘ VIỆT NAM CỘNG HÒA.
Như
vậy nền cộng hòa thể hiện rõ mục tiêu chống cộng bấy lâu nay của người
Việt Quốc gia hay là người Việt Nam không cộng sản là để nhằm thành đạt
mục tiêu tối hậu là xây dựng một chế độ dân chủ đích thực, chế độ Việt
Nam Cộng Hòa đã được xác lập tại Việt Nam, đánh dấu bằng sự ra đời của
bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 26-10-1956. Chế độ đó là chế độ đệ nhất
và đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa kế tiếp nhau (1956-1975).
Ngày
30-4-1975, cộng sản Bắc Việt đã cưỡng chiếm Miền Nam, vi phạm trắng
trợn Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973 , tức vi phạm luật pháp quốc tế,
trước sự đồng lõa, phủi tay của đồng minh Hoa kỳ, và sự làm ngơ của quốc
tế, cụ thể là các cường quốc đế quốc đóng vai trò trung tâm quyền lực
thế giới bảo đảm việc thực thi Hiệp Định Paris, thông qua tổ chức Liên
Hiệp Quốc, vốn là công cụ của họ, do họ dựng lên và vì quyền lợi ưu tiên
của họ, nhân danh nền hòa bình thế giới áp chế các dân tộc nhược tiểu.
Như thế là Chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã bị cưỡng tử về mặt thực tế tại Việt Nam, song chúng tôi cho rằng vẫn
tồn tại về mặt pháp lý căn cứ theo Điều 15 và nhiều điều khỏan khác
trong Hiệp Định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình cho Việt
Nam. Chế độ Việt Nam Công Hòa chỉ không tồn tại trên đất nước Việt Nam
trong tư thế một quốc gia với đầy đủ ba yếu tố cấu thành: lãnh thổ,
chính quyền và dân chúng, song vẫn tồn tại về mặt pháp lý, với
thực tế là hầu hết bộ phận đầu não chính quyền, và một số khá đông (nay
ước chừng 3-4 triệu) các thế hệ quân, dân, cán chính của chế độ Việt
Nam Cộng Hòa đã kịp di tản ra nước ngòai trước ngày 30-4-1975, hay chậy
trốn chế độ CS sau này, trong thân phận lưu
vong, vẫn không bỏ cuộc, đã quy tụ lại tại hải ngọai tiếp tục cuộc
chiến đấu chống cộng, với cùng mục tiêu đánh đổ chế độ độc tài cộng sản,
thành đạt mục tiêu tối hậu là tái lập chế độ Dân Chủ trên nền Nền Cộng
Hòa đã được xác lập tại Việt Nam từ năm 1956;và
hiện vẫn tồn tại trên đất nước Việt Nam, trong lòng hơn 90 triệu nhân
dân Việt Nam với khát vọng tự do dân chủ, vì các quyền tự do, dân chủ,
dân sinh, nhân quyền đã và đang bị “nền chuyên chính vô sản” với chế độ “Độc tài tòan trị cộng sản” cướp
đọat và chà đạp. Khát vọng này đã và đang được nhân dân trong nước thể
hiện ngày một lan rộng và mạnh mẽ qua các cuộc đấu tranh đòi dân chủ,
dân sinh, nhân quyền, tức đòi tái lập nền
Cộng Hòa đã được xác lập trước đây,bởi chính quyền Quốc gia chính
danh,kế thừa lịch sử dựng nước và giữ nước của tiền nhân; trái
với chính quyền cộng sản ngụy danh, kế thừa lịch sử bành trướng quyền
thống trị thế giới của cộng sản quốc tế, phản dân hại nước,
như mọi người đều biết qua việc làm của họ, kề từ khi những môn đồ đầu
tiên, đứng đầu là Hồ Chí Minh tình nguyện làm môn đồ của cộng sản quốc
tế, du nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam, tụ đảng từ ngày 3-2-1930 làm
công cụ thực hiện nghĩa vụ quốc tế cộng sản để mở mang bờ cõi cho các
tân đế quốc đỏ Nga-Tầu, phá họai tòan diện đất nước, để lại hậu quả
nghiêm trọng nhiều mặt, di hại lâu dài cho dân tộc Việt Nam, mà mai hậu
các thế hệ mai sau sẽ phải mất nhiều thời gian và công sức dọn dẹp, tái
tạo.
• KẾT LUẬN:
Tóm
lại, như vậy là cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân Miền Nam bảo vệ
chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa đã thất bại, song chỉ là thất bại tạm
thời, có tính giai đọan. Vì sau đó và cho đến nay, cuộc chiến đấu chống
cộng sản độc tài để tái lập chế độ cộng hòa trên cả nuớc vẫn đang tiếp
diễn. Đây là giai đọan chống cộng cuối cùng vì dân chủ, cho nền cộng hòa
Việt Nam của nguời Việt Quốc gia hay là nguời Việt Nam không cộng sản
trong cũng như ngòai nuớc. Thực tế đã và đang ngày một khẳng định chính nghĩa “Cộng Hòa”(Chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân) tất thắng ngụy nghĩa “Cộng sản” (Chủ quyền quốc gia thuộc về đảng CSVN)
Nhân dân Việt Nam nhất định sẽ thiết lập đuợc nền “Đệ Tam Cộng Hòa” trên tòan cõi Việt Nam trong một tương lai không xa, với một Bản Hiến Pháp Cộng Hòa “thể hiện đuợc nguyện vọng của nhân dân (Việt Nam), từ Mũi Cà Mâu đến Ải Nam Quan”, như từng đuợc khẳng định trong lời “Mở Đầu” của bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa tiên khởi ngày 26-10- 1956.
Năm
mươi tám năm qua, mục tiêu chống cộng để thực hiện lý tướng thiết lập
cho kỳ được môt chế độ dân chủ cộng hòa trên quê hương đất nước Việt Nam
thân yêu của chúng ta vẫn kiên định. Chúng ta tạm thời thất bại trong
giai đọan chiến đấu bảo vệ chế độ Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến
tranh Quốc-Công vừa qua (1954-1975), song không chỉ có niềm tin mãnh
liệt mà cả thực tế đã và đang ngày một khẳng định: Chân
lý tất thắng, chính nghĩa quốc gia tất thắng ngụy nghĩa cộng sản. Nền
cộng hòa nhất định sẽ thay thế nền độc tài chuyên chính cộng sản hiện
nay tạiViệt Nam trong tương lai không xa.
Kỷ niệm 58 năm ngày thành lập nền Cộng Hòa Việt Nam vào thời điểm này, ngòai mục đích tưởng
niệm và ghi ơn những người đã có công thiết lập nền cộng hòa Việt Nam,
như Cố TổngThống Ngô Đình Diệm và các dân biểu Quốc Hội Lập Hiền đã sọan
thảo ra bản Hiến Pháp Việt Nam Công Hòa ngày 26-10-1956, chúng ta còn tưởng nhớ và ghi ơn hai vị Tổng Thống kế nhiệm Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương (
dù cả ba vị Tổng Thống ai cũng có những khiếm khuyết sai lầm về lãnh
đạo khi còn tại chúc, song đều một lòng bảo vệ nền Cộng Hòa Việt Nam), cũng
như các Tướng lãnh, quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu
hy sinh để bảo vệ nền Cộng Hòa non trẻ ấy. Đồng thời, cũng là dịp nhắc
nhở chúng ta về mục tiếu chống cộng để thành đạt lý tưởng xây dựng môt
chế độ dân chủ cộng hòa đích thực trên quê hương Việt Nam hậu cộng sản,
chứ không nhằm thay thế chế độ độc tài cộng sản bằng một chế độ độc tài
không cộng sản.
Vì
thực tế, đã có những biểu hiện cho thấy một số cá nhân và một số chính
đảng quốc gia, đòan thể chống cộng ở Hải ngọai nói chung, Houston nói
riêng, dường như đã coi nhẹ mục tiêu tối hậu này của sự nghệp chống
cộng. Do đó đã có những chủ trương, họat động và cách ứng xử thiếu khôn
ngoan, có tính “Độc tài không cộng sản” với
những chiến hữu và đồng hương cùng bè quốc gia dân tộc, phái tự do dân
chủ cộng hòa, có chung mục tiêu chống cộng với mình, chỉ vì khác quan
điểm và phương thức chống cộng.
Thực tế điều này đã tác hại rất lớn đến sức mạnh đòan kết, niềm tin tất thắng vào “Chính nghĩa Quốc gia” của quần chúng và các lực lượng lãnh đạo công cuộc chống cộng ở hải ngọai cũng như trong nước. Do đó cần phải được chấn chính kịp thời, nếu
chúng ta, những cá nhân hay đòan thể muốn chống cộng vì dân chủ và
chống cộng để thắng cộng, chứ không phải chống cộng để lấy tiếng, chống
cộng mà chơi, hay chống cộng chỉ để cho vơi bớt thù hận, dù cộng sản
thực tế quả đã gây và để lại quá nhiều thù hận trong lòng mỗi người Việt
chúng ta. Nhưng chúng ta không chống cộng vì thù hận mà vì lòng yêu
nước muốn đem lại những điều tốt đẹp cho Đất nước, cho tự do, dân chủ và
hạnh phúc thật sự của quốc dân Việt Nam thế hệ hiện tại cũng như tương
lai trường tồn của Dân Tộc Việt.
Thiện Ý
Houston, ngày 26 tháng 10 năm 2014
Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!
.
.
0 comments:
Post a Comment