“Đây phương Nam, đây ruộng Cà Mâu no lành, với tiếng hát êm đềm trong
suốt đêm thanh…”.
Dẫu cung đàn đã xưa, lời nhạc đã cũ; nhưng sẽ không bao giờ trở thành xưa
cũ, khi chúng ta, những người dân của nước Việt Nam Cộng Hòa đã một thời
được sống trong cảnh thanh bình, tự do, no ấm; vì thế, hôm nay, chúng ta,
dù mái tóc đã phai mầu, nhưng mỗi lần lướt đôi tay trên chiếc dương cầm,
hay trên những cây đàn tuyệt hảo của đầu thế kỷ 21, thì có lẽ trong chúng
ta, dễ mấy ai quên đi những chiếc phím ngà xưa cũ của những cây đàn
Mandoline của thế kỷ trước, với bài hát Trăng Phương Nam, để rồi có thể có
nhiều người sẽ rưng rưng, khi vọng tưởng về những năm tháng thanh bình xưa
đã mất, và không bao giờ tìm thấy lại, dù một lần nào nữa!
Hôm
nay, ngày 20 tháng 7 năm 2012; để tưởng nhớ đến một ngày đất nước đã bị
chia cắt, phân ly! Người viết muốn nhắc lại một bài đã viết trước đây:
Kể
từ khi nước Việt Nam Cộng Hòa rơi vào tay cộng sản, thì người Việt tỵ nạn
chúng ta chỉ còn biết và tưởng niệm ngày 30/4/1975, là ngày Quốc Hận.
Nhưng ngược thời gian trở về cuối thập niên 1950, và đầu thập niên 1960.
Khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Người đã khai sinh ra Thể chế Cộng Hòa Việt
Nam, thì người dân miền Nam đã từng tưởng niệm Ngày Quốc Hận là ngày
20/7/1954. Ngày ấy, theo hiệp định Genève, đất nước đã bị Cộng sản Bắc
Việt và Pháp chia cắt thành hai miền bởi giòng sông Bến Hải. Miền Bắc do
Hồ Chí Minh cai trị, với những cuộc “cách mạng” máu đổ đầu rơi, con tố cha
mẹ, vợ tố chồng. Rồi “cách mạng văn hóa” làm cho không biết bao nhiêu
người đã phải chết thảm, hoặc bị tù đày, tàn hại đến cả một đời người, mà
đến cả sóng nước của giòng sông Bến Hải cũng phải khóc hờn ai oán:
“Con sông Bến Hải từ độ chia hai,
Đêm đêm nó khóc than hoài
Hờn căm cộng sản chia hai nhịp cầu
Lớn lên từng đợt u sầu
Bao giờ Nam-Bắc nhịp cầu sang ngang
Bên đây đời sống thênh thang
Bên kia kiếp sống điêu tàn xác xơ
Ruộng đồng lúa mọc lơ thơ
Máu pha nước mắt ngập bờ tre xanh!”
Trong khi đó, tại miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm
đầy lòng nhân ái, Người đã sống một cuộc đời thanh bần, liêm khiết, quên
mình, để tận hiến cho Quốc Gia và Dân tộc. Như mọi người đã biết, vào thời
kỳ ấy, Nền Cộng Hòa Việt Nam còn non trẻ, lại còn thêm loạn sứ quân cát
cứ, và không được đồng minh và quốc tế viện trợ như Việt Nam Cộng sản hiện
nay. Nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã xây dựng được một nước Việt Nam
Cộng Hòa tự do, phồn thịnh. Từ thành thị cho đến thôn quê, nơi đâu cũng
được sống trong cảnh thanh bình, no ấm.
“Tiên thiên hạ vi ưu, vi ưu - Hậu thiên hạ vi lạc, vi lạc”; đó là, cách
Sống của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Bởi vậy, cho nên chính vì xót đau
cho những cảnh đời lầm than, đau khổ của đồng bào đang ở bên kia Vĩ tuyến,
nên Tổng Thống Ngô Đình Diệm và là vị Tổng Tư Lệnh đầu tiên của Quân đội
Việt Nam Cộng Hòa
đã
có chủ trương Bắc Tiến. Nhưng tiếc rằng, con đường Bắc Tiến chỉ mới ở bước
đầu, thì vị Tổng Thống đã có công nghiệp khai sáng Nền Cộng Hòa Việt Nam
đã đi vào lịch sử.
Những điều ấy, đã được Thi sĩ Vũ Hoàng
Chương viết thành những vần thơ, vì cứ ngỡ rằng “Từ
nay trăm họ câu an lạc-Đàn khúc đầm Dao, rượu chén Quỳnh”,
và với ước mơ Bắc tiến, để có một ngày “trở lại Cố đô- Đại định
Thăng Long, một bóng Cờ”.
Người viết xin chép lại những vần thơ của
Thi sĩ
Vũ Hoàng Chương, để mọi người
cùng “chiêm nghiệm” như sau đây:
“Lò phiếu trưng cầu, một hiển linh
Đốt lò hương, gửi mộng bình sinh
Từ nay trăm họ câu an lạc
Đàn khúc đầm Dao, rượu chén Quỳnh!
Có một ngày ta trở lại cố đô
Lưỡi lê no máu rửa Tây Hồ
Trên tầng Chí Sĩ bàn tay vẫy
Đại định thăng Long, một bóng cờ”.
Nhưng không riêng Thi sĩ Vũ Hoàng Chương, mà Nhạc sĩ Lam Phương cũng đã
viết thành một ca khúc Chuyến đò Vĩ
tuyến, và đã đi vào Nhạc sử:
“Đêm nay trăng sáng quá anh ơi
Sao ta lìa cách bởi dòng sông bạc hai màu
Lênh đênh trên sóng nước mông mênh
Bao đêm lạnh lẽo em chờ mong gặp bóng chàng
Vượt rừng vượt núi đến đầu làng
Đò em trong đêm thâu sẽ đưa chàng sang vĩ tuyến
Phương Nam ta sống trong thanh bình
Tình ngát hương nồng thắm
bên lúa vàng ngào ngạt dâng
Ơ... ai... hò ...
Giòng sông mơ màng và đẹp lắm
Anh ơi ai nỡ chia đôi bờ
để tình ta ngày tháng phải mong chờ
Hò... hớ .... hò .... hơ ...
Em và cùng anh xây một nhịp cầu
Để mai đây quân Nam về Thăng Long
Đem thanh bình sưởi ấm muôn lòng !
Sương khuya rơi thấm ướt đôi mi
Tim em lạnh lẽo như chiều đông ngoài biên thùy
Ai gieo chi khúc hát lâm ly
Như khơi niềm nhớ cuộc từ ly lòng não nùng
Bùi ngùi nhìn cách xa ngàn trùng
Giờ đây em điêu linh nơi quê nhà đang chìm đắm
Bao đêm thổn thức dưới trăng ngà
Hồn đắm say chờ đón ngày anh về sưởi lòng nhau”.
Nhưng than ôi! Những hoài bão, những ước mơ, mà chắc của rất nhiều người;
đặc biệt nhất, là những đồng bào của Miền Bắc đã đành phải nuốt nước mắt
khi quyết định phải vào miền Nam để tỵ nạn Cộng sản. Và chỉ có chính họ,
mới thấu được những nỗi đau thương khi phải rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn,
có nhiều gia đình đã phải lạc mất người thân, khiến cho gia đình của họ
đành phải đôi bờ bên giòng sông Bến Hải và cầu Hiền Lương, với ước mơ:
“Bao giờ Nam-Bắc nhịp cầu sang ngang”, và “anh cùng em xây một nhịp cầu,
Để mai đây quân Nam về Thăng Long, Đem thanh bình về sưởi ấm muôn lòng”.
Những nỗi đau thương của đồng bào miền Bắc, vào thời điểm sau ngày
20/7/1954 ấy, tại miền Nam ít ai hiểu thấu; nhưng cho đến sau ngày
30/4/1975, thì những người Việt Nam tỵ nạn Cộng sản thực sự, và khi bước
xuống những con thuyền mong manh để vượt biển, hoặc chạy trốn khỏi đất
nước trên những con đường rừng; chỉ đến lúc đó, khi ngoái nhìn về nơi cố
quốc, thì họ mới thấy lòng quặn thắt, mới thấu được những nỗi đau của đồng
bào miền Bắc ngày xưa, khi không còn con đường nào để chọn bằng con đường
phải ra đi!
Ôi!
Những dòng nước mắt nào đã rơi rơi trên suốt con đường từ Bắc vào Nam, và
những dòng nước mắt nào đã rơi xuống những bãi biển, rơi trên những con
thuyền đã đưa người ra khơi, để đi tìm sự sống trong cái chết, và đã có
biết bao nhiêu người đã phải bị vùi chôn dưới đáy nước, hay đã vĩnh viễn
bỏ mình ở các trại tỵ nạn xa xôi!
Làm
sao nói hết được nỗi đau; bởi vì tất cả những ngôn từ của nhân loại không
làm sao diễn đạt cho vừa với những vết thương, những nỗi đau đớn quá kinh
hoàng, và những mất mát, mà không có bất cứ một thứ vật chất nào có thể bù
đắp, mà mãi mãi sẽ không bao giờ quên được, và trong số người ấy, đã có
rất nhiều người là đồng bào miền Bắc đã từng đứt ruột rời bỏ tất cả, để
vào Nam tỵ nạn Cộng sản, những tưởng rằng đã chạy thoát; đâu có ngờ rằng,
mình sẽ phải chạy giặc tới hai lần, và trong số ấy, cũng có nhiều người đã
vĩnh viễn không bao giờ còn nhìn thấy lại chốn cũ, làng xưa!
Giờ
đây, kể từ ngày Quốc Hận: 20/7/1954; 58 năm dài đã trôi qua, với bao nhiêu
những biến cố tang thương, dâu bể, dù là người miền Bắc hay người miền
Nam, và dù một lần, hay hai lần bỏ xứ ra đi, sống đời tỵ nạn trên những
đất nước tạm dung, hoặc ngay cả những đồng bào tại quốc nội; nhưng hôm
nay, với hệ thống thông tin toàn cầu, với những hình ảnh, và những thước
phim tài liệu hoàn toàn trung thực, thì có lẽ đa số đồng bào đã biết được
cuộc sống tương đối tự do, no ấm, thanh bình của đồng bào tại miền Nam
dưới thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa: 1954-1963; thì chắc chắn sẽ thấy
được công nghiệp của Người đã khai sáng Thể chế Cộng Hòa Việt Nam, và rồi
sẽ bồi hồi thương tiếc cho tất cả những gì đáng phải trân-quý, đáng phải
gìn giữ; nhưng bây giờ đã mất, để rồi mãi mãi chỉ còn biết tìm lại qua dư
âm của những lời ca, tiếng nhạc và những vần thơ năm cũ:
Đẹp thay Chính Thể Cộng Hòa,
Vui thay tiếng hát câu ca thanh bình.
Cộng Hòa như ánh Bình Minh,
Như giòng nước mát như tình lúa xanh.
Pháp
quốc, 20/7/2012
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
http://hon-viet.co.uk/HanGiangTranLeTuyen_TuongNiemQuocHan20Thang7.htm
Sáu Mươi Năm Ngày Chia Đôi Đất Nước !
ReplyDeleteNgày nào nước Việt chia đôi
Buồn cho vận nước đến hồi chia ly
Thương về Bến Hải nhiều khi
Hiền Lương buồn bã , từ ngày chia hai !
Vì đâu nên nỗi , vì ai ?
Vì đâu Bến Hải một giòng chia hai ?
Vì đâu cuộc chiến kéo dài ?
Vì đâu dân sống từng ngày âu lo ?
Miền Nam no ấm tự do
Dân tôi miền Bắc ốm o gầy mòn !
Trải bao biến cố sống còn !
Dã tâm xâm chiếm miền Nam từng ngày !
Việt Nam kiếp sống đoạ đày !
Từ ngày thống nhất , quê hương đỏ bờ !
Hiền Lương , cầu vẫn mong chờ
Quê hương sống lại , khi tan cộng thù !
Hoàng Hạc