Kỷ
niệm 60 năm di cư tị nạn cộng sản
và
công lao của các vị cha già
Kỷ
niệm 60 năm di cư tị nạn cộng sản và công lao của các vị
cha già.
Sàigòn,
Việt Nam (VietCatholic News 20-07-2014) - Các vị cha già là danh xưng
vừa đầy lòng kính trọng vừa dạt dào tình cảm thương mến,
biết ơn của đồng bào di cư Công Giáo tị nạn Cộng Sản 1954
dành cho các vị linh mục có công dẫn dắt họ đi mở xứ.
Mặc dù là thế, nhưng trong bài này, chúng tôi xin gác sang
một bên khía cạnh tôn giáo, chỉ thuần đứng trên phương
diện đời, phương diện dân sự để đánh giá công lao của
các vị cha già trong công cuộc di cư 1954 mà chúng tôi coi như
là một cuộc di dân vĩ đại, đưa dân đi từ Bắc vô Nam
để khai khai khẩn đất đai, tạo dựng đời sống ấm no, an cư
lạc nghiệp cho hàng trăm ngàn đồng bào vào thời kì đặc
biệt của đất nước sau Hiệp định Genève chia đôi lãnh thổ
năm 1954.
Cuộc
di cư tị nạn Cộng Sản năm 1954 đã đưa vào Miền Nam gần
một triệu đồng bào miền Bắc.
|
Chúng
tôi viết bài này vì gia đình chúng tôi cũng ở trong đoàn
lưu dân ấy. Lúc đó tuy tuổi còn nhỏ, song chúng tôi vẫn
còn nhớ tình cảnh đồng bào di cư đã phải trải qua tại
các trại định cư lúc ban đầu đầy khó khăn. Chúng tôi
đã nhìn thấy vai trò lãnh đạo của các vị linh mục cần
thiết như thế nào trong việc ổn định cuộc sống mới cho
đồng bào. Sau này lớn lên đi ra ngoài xã hội, mỗi khi có
dịp trở về một trại định cư năm xưa, chúng tôi đều kinh
ngạc về khả năng thay hình lột xác mau chóng và tốt đẹp
trong đời sống mọi người. Công cuộc định cư đã thành
công tốt đẹp, chẳng những là ơn ích cho chính những lưu
dân mà còn là phúc lợi xét về nhiều mặt cho đất nước
nữa.
Nhiều
sách báo đã nói về cuộc di cư vĩ đại năm 1954, nhưng chưa
có tác giả nào đề cập tới công lao của hàng trăm vị
linh mục đã góp sức đáng kể vào sự thành công tốt
đẹp cho công cuộc này. Hôm nay nhân là thời điểm kỉ niệm
việc thành lập các trại định cư được đúng một nửa
thế kỉ, chúng tôi cảm thấy cần phải nói lên tình cảm
biết ơn đối với các vị cha già bằng cách tuyên dương
công lao của các vị. Các vị linh mục năm xưa ấy hầu hết
đã ra người thiên cổ, chỉ một số rất ít còn sót lại nay
đã lên bậc đại thọ. Tuy là chậm trễ song vẫn hơn là
không bao giờ.
Cuộc
di cư tị nạn Cộng Sản năm 1954 đã đưa vào Miền Nam gần
một triệu đồng bào miền Bắc. Trong số này, có khoảng 200
ngàn quân nhân, công chức và dân các thành thị, đã cung
cấp cho Miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa) nhiều người có tài
năng, học thức, đóng góp xuất sắc trên các lãnh vực:
chính trị, hành chánh, an ninh, quân sự, văn hóa, giáo dục,
văn học, nghệ thuật, kinh tế, thương mại, khoa học kĩ thuật,
v. v.. Nhưng thành phần ưu tú này không phải là đối tượng
của bài này. Ở đây chúng tôi chỉ nói tới khối đa số
đồng bào di cư thuộc thành phần thợ thuyền và nông dân
Công Giáo. Họ là những người bình dân, là nông dân chưa
bao giờ ra khỏi lũy tre làng, nay vì nạn Cộng Sản mà phải
rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, trốn chạy vào Miền Nam xa
xôi, tương lai không biết sẽ ra sao. Họ mới là thành phần
cần có người lãnh đạo, hướng dẫn trong cuộc sống mới.
Người hướng dẫn, lãnh đạo họ chính là các vị linh mục
được sai tới.
Trong
tình hình rối loan lúc đó, mỗi người, mỗi gia đình trốn
thoát Cộng Sản một cách khác nhau. Chỉ có rất ít trường
hợp vị linh mục ra đi cùng giáo dân, đa số là những cuộc
vượt thoát cá nhân, không có tổ chức. Gia đình chúng
tôi trốn khỏi làng bằng 3 đợt khác nhau. Cuối cùng chúng
tôi được gặp lại nhau tại trường trung học Dũng Lạc
cạnh nhà thờ lớn Hà Nội, trước khi được tổ chức đi
máy bay Dakota vào Sài Gòn. Không biết vị linh mục chính xứ
của chúng tôi ra đi cách nào, chỉ biết chắc là ông đã
phải bí mật vượt thoát, bởi khi Cộng Sản về làng, chúng
tôi còn thấy ông mặc bộ quần áo màu nâu, hằng ngày
cuốc đất ngoài vườn, mặt lúc nào cũng đăm chiêu lo
lắng. Cảnh ông linh mục cuốc đất chúng tôi chưa từng thấy
xẩy ra trước đó.
Lúc
ban đầu, hàng trăm linh mục di cư thuộc 10 giáo phận miền
Bắc và Bắc Trung phần sống tập trung với nhau tại những
địa điểm riêng của từng giáo phận di cư. Ðến khi các
trại đinh cư được thành lập, các linh mục lần lượt
được giáo quyền gửi đi theo với giáo dân. Ðồng bào
Công Giáo chiếm tới 80% tổng số dân di cư và đa số họ
là những nông dân, một số ít là ngư phủ, cho nên hầu
hết các trại định cư cũng trờ thành các xứ đạo, họ
có khuynh hướng chọn làm nghề cũ và ở rất nhiều nơi,
những người đồng hương lại tìm về với nhau. Do đó mà
có các địa danh như Hà Nội, Hà Ðông, Hải Dương, Tân Hà,
Bắc Hà, Lạng Sơn, Bùi Chu, Tân Bùi, Bùi Môn, Phát Diệm,
Tân Phát, Bùi Phát, Thanh Hóa, Tân Thanh, Tân Sa Châu, Kẻ
Sặt, Xã Ðoài, Phúc Nhạc, Ninh Phát, Kim Thượng, Bạch Lâm,
Ngọc Ðồng, v.v.
Theo
luật lệ thuở trước, các linh mục Công Giáo được huấn
luyện kĩ lưỡng qua 7 năm Trung học (Tiểu chủng viện), rồi ít
nhất là 2 năm Triết học, 1 năm đi thử và 4 năm Thần học,
trước khi có thể trở thành linh mục. Do đó, vừa vì niềm
tin tôn giáo của giáo dân vào thiên chức linh mục, vừa vì
các linh mục, nói chung, có kiến thức cao hơn giáo dân cho
nên giáo dân rất kính trọng các linh mục. Gặp thời buổi
quốc biến, trong lúc nông dân Công Giáo di cư tị nạn Cộng
Sản đang lâm cảnh biệt xứ, hoang mang, lạc lõng thì các linh
mục được sai tới với họ tự khắc trở thành người
lãnh đạo họ cả về tinh thần lẫn vật chất.
Về
tinh thần, hàng ngày, sớm tối, các linh mục cùng với bổn
đạo tụ họp để kinh sách, lễ hạt, giảng giải, đem đến
nguồn an ủi vô biên, niềm tin kính tuyệt đối vào tình
thương của Chúa Nhân Lành, giúp cho tín hữu cảm nhận đầy
đủ nghị lực hầu có thể vượt qua mọi đau thương thử
thách. Chúng tôi đã từng tham dự thánh lễ ở ngoài
trời tại một vài trại định cư, vì cảnh chân ướt chân
ráo trại chưa kịp dựng lên một nơi thờ phượng, dù là
bằng cây lá thô sơ. Chính trong cảnh thiếu thốn vật chất
ấy, dường như lại thấy giầu có hơn, sung mãn hơn về tin
tưởng, sốt mến.
Người
mẹ Việt Nam tay bế tay bồng di cư vào nam tỵ nạn
cộng sản.
|
Lúc
ban đầu này, vị linh mục không phải chỉ chăm lo phần tinh
thần cho đồng bào mà còn đóng vai trò lãnh đạo phần
đời lo đời sống vật chất cho đồng bào ở trại định cư
nữa, bởi vì ông là người hiểu biết luật lệ thủ tục
hơn, có uy tín hơn. Ở trại định cư nào chúng tôi cũng
thấy chính vị linh mục, cùng với vài ba giáo dân thân tín,
tương đối có trình độ và lòng chung hơn, đã đôn đáo,
đi đi về về, lo tiếp nhận và phân phát những đồ viện
trợ như quần áo, thực phẩm, máy may, nông cụ, v.v.. Có
một số trại định cư vì một lí do nào đó xét thấy không
thích hợp cho cuộc sống mới của đồng bào, vị linh mục đã
'nhổ' toàn trại ra đi tìm một nơi sinh sống thuận tiện hơn.
Công việc này thật sự khó khăn, nhưng các vị linh mục ấy
đã làm được, chẳng hạn như linh mục Phạm Bá Nha đã đưa
đồng bào từ Ðốc Vàng, Châu Ðốc về tái định cư tại An
Hiệp, Bến Tre; linh mục Nguyễn Duyên Mậu đưa đồng bào từ
Hố Ðồn, Tây Ninh về tái định cư tại Ninh Phát, Long Khánh,
v. v.. Tại một số trại, Phủ Tổng Ủy Di Cư đã làm nhà sẵn
cho đồng bào, cách xếp đặt trang trại do Phủ Tổng Ủy quy
hoặch có lớp lang thứ tự. Nhưng ở nhiều trại, nhà cửa
do đồng bào tự làm lấy với sự trợ cấp từ Phủ Tổng
Ủy. Trong những trường hợp này, vị linh mục cùng những
người phụ tá đã cùng nhau vẽ phác sơ đồ toàn trại,
sắp xếp vị trí thánh đường, trường học, nhà xứ, trạm y
tế, chợ, đường xá, các dẫy nhà của đồng bào, nghĩa
trang, v.v.. Ðã có nhà thờ bao giờ cũng có trường học
kế bên. Nhiều nơi còn có trường trung học đệ nhất cấp
và đệ nhị cấp (cấp ba ngày nay) nữa. Nhờ vậy, chỉ sau
khoảng 10 năm, các trại định cư đã cung cấp cho quốc gia rất
nhiều sinh viên, hạ sĩ quan, sĩ quan, công chức, giáo chức,
v.v.. Cũng do vị trí đặc biệt của một vị lãnh đạo vừa tinh
thần vừa vật chất, mà linh mục có thể đóng góp tích
cực, hữu hiệu vào việc giáo dục thanh thiếu niên trong
trại, góp phần giữ gìn an ninh trật tự. Những tội phạm
như trộm cắp, vô luân, ẩu đả, v.v., là tối thiếu. Ðã có
một thời, vị linh mục còn đóng được cả vai trò của một
vị thẩm phán hòa giải cho những cặp vợ chồng bất hòa,
bất trung, những vụ tranh chấp nhà cửa, đất đai, v.v..
Ngày
nay ai xuôi Miền Hậu Giang - Rạch Giá, tất phải đi qua vùng
định cư Cái Sắn trù mật bát ngát, sẽ thấy làng mạc, kinh
rạch, ruộng nương và các cơ sở văn hoá giáo dục có
lớp lang, ngoạn mục. Các bô lão kể lại trước khi đồng
bào di cư tới đây khai phá từ năm 1956, toàn vùng này chỉ
là cỏ lác cao ngút đầu và muỗi mòng thì dầy đặc như
trấu. Nếu có ai lên xứ hoa đào qua quốc lộ 1, tiếp nối qua
quốc lộ số 20, sẽ chứng kiến các thị trấn nhỏ sầm uất
mọc lên như nấm, nhà cửa đan kín dọc hai bên đường, dân
chúng đông vui tấp nập. Có ai ngờ trước năm 1955, vùng
Hố Nai chỉ là vùng đất bạc mầu, hoang vu và khô chồi; còn
vùng Gia Kiệm, Dốc Mơ, Túc Trưng, La Ngà, Phương Lâm chỉ là
rừng tre già và mây gai ra tới tận lề đường; quốc lộ 20
hoàn toàn mất an ninh, xe cộ không thể lưu thông được. Rồi
còn những Ðức Lập, những Ban Mê Thuột, những Bình Giả,
những Bảo Lộc...
Song
dù thế nào, cuối cùng linh mục vẫn chỉ là người có
nhiệm vụ chuyên biệt lo phần thiêng liên tôn giáo chứ
không có nhiệm vụ phần đời. Các vị ra gánh vác giúp
đỡ đồng bào di cư, vì gặp hoàn cảnh đặc biệt ngoại lệ.
Cho nên tới ngày 10 tháng 4 năm 1956, giám mục Phạm Ngọc Chi,
phụ trách Ủy Ban Hộ Trợ Ðịnh Cư Công Giáo, đã yêu cầu
các linh mục chuyển giao mọi việc thuộc hành chánh cho dân
chúng để trở về thuần túy lo việc đạo. Từ nay, các linh
mục có chăng chỉ còn là vị cố vấn giúp đỡ chính quyền
xã, ấp địa phương mà thôi.
Trở
lên, chúng ta đã thấy cuộc di cư tị nạn Cộng Sản năm 1954
của gần một triệu đồng bào Miền Bắc và Bắc Trung phần
chẳng những có ý nghĩa chính trị, quân sự quan trọng mà
còn là một cuộc di dân khổng lồ góp phần phát triển quốc
gia. Cuộc di cư ấy đã được chính phủ và quốc tế giúp
đỡ tích cực, đưa tới thành công tốt đẹp. Từ bàn tay
trắng, vậy mà các trại định cư đã mau chóng ổn định cuộc
sống.
Riêng
về các trại định cư mà hầu hết là của đồng bào Công
Giáo thì các vị linh mục đã góp công to lớn xây dựng cả
về mặt tinh thần lẫn vật chất. Các vị ấy, nhà nước
không mất công đào tạo, huấn luyện, nhưng đã trở thành
một thứ 'cán bộ' đầy khả năng, giúp vào công tác có
tầm vóc quốc gia, xem ra còn cách đắc lực hơn là các cán
bộ nhà nước thứ thiệt.
Người
ta hết sức cảm động chứng kiến lễ tang của mỗi vị cha
già, tất cả đồng bào trong trại định cư xưa, không biệt
tuổi tác, có gia đình gồm cả ba thế hệ, đều chít khăn tang
để tỏ lòng kính trọng, nhớ ơn vị ân nhân có công khai
sáng. Nhiều nơi đồng bào an táng vị cha già ngay cạnh giáo
đường để hằng ngày khi tới giáo đường, đồng bào như
còn được nhìn thấy, như là ngài vẫn còn đấy, chưa đi xa!
Ước
mong các trại định cư xưa thu thập lại những tài liệu, hình
ành, những con số thống kê trong lịch sử thành lập trại;
thâu thập tiểu sử và điếu văn của cha già khai sáng để
lưu truyền cho con cháu hoặc là tập trung về tàng trữ tại
một trung tâm Công Giáo nào đó để trở thành tài liệu
lịch sử.
Cuộc
đời dâu bể. Sáu mươi năm trôi mau như bóng câu vút qua
song. Năm theo mẹ di cư vào Nam chúng tôi là cậu bé 9 tuổi
thế mà nay đã vừa gần 7 bó! Hồi tưởng lại cuộc di cư,
đối với số phận mỗi cá nhân, mỗi gia đình, việc ra đi hay
ở lại, có thể có cái hay cái dở, nhưng nói chung cái hay
là vượt trội. Song đối với quốc gia, cuộc di cư ấy hoàn
toàn là một cuộc di dân chỉ đem lại lợi ích to lớn mà
thôi. Các vị cha già đã đóng góp tích cực, làm cho cuộc
di cư ấy thành công tốt đẹp, tức là đã đóng góp đắc
lực vào cuộc di dân phát triển quốc gia.
Tham
khảo:
*
Văn Phòng Tổng Thư Ký Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam. Giáo
Hội Công Giáo Việt Nam Niên Giám 2004. Nhà xb Tôn giáo. Hà
Nội, 2004.
*
Trường Cao Ðẳng Sư Phạm Thành phố Sàigòn & Cục Ðo
Ðạc Và Bản Ðồ Nhà Nước. Việt Nam Tập Bản Ðồ Hành
Chính Và Du Lịch. 1989.
*
Phan Phát Huồn. Việt Nam Giáo Sử. Quyển II. Cứu Thế Tùng
Thư. Sài Gòn, Việt Nam. 1962.
*
Ðoàn Thêm. Hai Mươi Năm Qua 1945 - 1964 Việc Từng Ngày. Xuân
Thu.
*
Ðoàn Thêm. 1969 Việc Từng Ngày. Xuân Thu.
*
Lâm Thanh Liêm & Gustave D. Meillon. Từ Sàigòn Tới Thành
phố Sàigòn. Nam Á.
*
Ðỗ Hữu Nghiêm. Giáo Hội Và Các Ðồng Bào Thiểu Số Ở
Việt Nam. Ðịnh Hướng 26.
*
Tôn Thất Trình. Khảo Luận về Công Cuộc Phát Triển Vùng
Hậu Giang Việt Nam. Ðịnh Hướng. Số 45.
Trần
Vinh
http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/14news/14news0590.htm
0 comments:
Post a Comment