"Khi đất nuớc tôi không còn
chiến tranh, trẻ thơ đi hát đồng dao ngoài đường." - T.C.
S
Hơn bốn mươi năm trước, khi cuộc
chiến ở Việt Nam còn đang ở giai đoạn khốc liệt, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã mường
tượng ra một viễn ảnh thanh bình làm say đắm lòng nguời: "Khi đất nuớc tôi không
còn chiến tranh, trẻ thơ đi hát đồng dao ngoài đường."
Sau cuộc chiến, quả nhiên, trẻ con
có la cà và tụm năm tụm ba hơi nhiều trên đường phố. Chỉ có điều là tuyệt nhiên
không nghe một đứa nào hát đồng dao; đã thế, phần lớn tụi nhỏ đều tham dự tích
cực vào nhiều sinh hoạt không thích hợp cho lắm với tuổi thơ: bới rác, móc túi,
ăn mày, bán cần sa, và nài nỉ mời khách mua... dâm – với một thứ ngôn ngữ sỗ
sàng và sống sượng đến độ có thể làm đỏ mặt một người da đen hay da đỏ: “Chú ơi,
chú chơi cháu đi…” (Hoàng Hữu Quýnh– Tôi Bỏ Đảng, Tập I: Bản Cáo Trạng Chế Độ Hà
Nội, trang 140, 1989, trích từ Phản Tỉnh Phản Kháng Thực Hay Hư của Minh Võ,
Thông Vũ xuất bản năm 1999).
Đó là những chuyện chỉ có tính cách
“hiện tượng,’’ xẩy ra mấy thập niên về trước, khi hòa bình mới đuợc vãn hồi, và
xã hội còn nhiều tệ đoan do tàn tích của chiến tranh và xã hội cũ để lại. Với
thời gian, bản chất của chế độ cộng sản Việt Nam mỗi lúc được nhận biết rõ ràng
hơn.
Từ Hà Nội, ký giả Huw Watkin tường
thuật rằng “cứ năm đứa bé đang lê trên vỉa hè của ba mươi sáu phố phường là có
một đứa... ăn xin. Bốn đứa còn lại, xem chừng, cũng bận: đánh giầy, năn nỉ người
đi đường mua vé số, dắt mối, bán ma túy...”(“VIETNAM: CHILDREN SOLD INTO
BEGGING, PIMPING AND DRUG DEALING”).
Cũng vẫn theo y như lời Huw Watkin
thì lực lượng trẻ con đi ăn mày, làm ma cô và bán ma túy... ở Việt Nam đang dần
được đưa vào tổ chức (“... recent media reports that children are being
increasingly used by organized begging gangs, pimps and drug
dealers”).
Chuyện này thì thằng chả nói hơi...
thừa! Ở một xứ sở mà nhà nước bao biện mọi chuyện, và lãnh đạo khắp nơi – kể cả
chùa chiền, giáo đuờng hay thánh thất... – làm sao để cho trẻ em (những mầm non
tương lai của tổ quốc) sống vô tổ chức được, cha nội?
Trong tương lai gần, lũ trẻ thơ bụi
đời ở Việt Nam (dám) sẽ được đoàn ngũ hoá – và cho thắt khăn quàng có màu sắc
khác nhau – để dễ điều phối. Đại loại như, khăn quàng xanh: đánh giầy; khăn
quàng tím: dắt mối; khăn quàng trắng: ma túy; khăn quàng hồng: mãi dâm; khăn
quàng nâu: ăn mày; khăn quàng đỏ: thu thuế và theo dõi hoạt động, cũng như tư
tưởng, của những loại khăn quàng khác!
Chiến tranh Việt Nam kết thúc cũng
chấm dứt luôn sự chia cách giữa hai miền Nam - Bắc. Viễn tượng thống nhất (cũng)
đã được hình dung bởi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trước đó, và cũng là một hình ảnh
khiến cho không ít kẻ phải ước mơ: “Một đoàn tầu đi tỏa khói trắng hai bên
đường...’’
Một lần nữa nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
lại đúng, dù vẫn chưa đúng hết. Sau cuộc chiến, quả nhiên là có đoàn tầu Thống
Nhất xuôi ngược Bắc - Nam. Điều đáng tiếc là hành khách lại luôn luôn ở tâm
trạng bất an. Kẻ lo bị móc túi, nếu có tí tiền. Người lo bị công an xét hỏi và
tịch thu hàng hoá, nếu là dân buôn lậu. Và tất cả đều lo sợ bị ném đá vỡ đầu.
Những hòn đá xanh, to bằng nắm tay, được trẻ con dọc hai bên đuờng – đợi xe lửa
đi qua – thi nhau ném vun vút vào cửa sổ!
Do vậy, tầu Thống Nhất được “cải
tiến” bằng cách rào kín mọi khung cửa bởi dây kẽm theo hình mắt cáo. Từ đó, nó
trông y như những toa xe dùng để chở tù. Những đoàn tầu như thế mà đi phom phom,
hớn hở hú còi, và hân hoan thơ thới, sung sướng ’’toả khói trắng hai bên đuờng’’
thì trông (e) hơi mỉa mai và (có phần) lố bịch!
Trịnh Công Sơn chỉ gần hoàn toàn
đúng khi mô tả thảm cảnh sau đây: “Khi đất nước tôi không còn chiến tranh, mẹ
già lên núi tìm xương con mình...’’ Nói là “chỉ gần hoàn toàn đúng” vì cuộc
chiến đã tàn từ lâu. Thế hệ của những “mẹ già lên núi tìm xương’’ đã qua nhưng
chuyện đào bới hài cốt vẫn được tiếp tục bởi anh chị em, hay bạn đồng đội của
những người đã khuất – theo như tường thuật của Rajiv Chandrasekaran, trên
The Washington Post: ’’Vietnamese Families Seek Their MIAs.”
Tổ Quốc Ghi Công. Nguồn ảnh:
tranhung09
Bài báo mở đầu bằng một câu chuyện
thương tâm. Ông Nguyễn Dinh Duy tử trận ngày 29 tháng 3 năm 1975. Suốt mấy mươi
năm qua, chị của ông ta (Bà Thắm) vẫn không ngừng đi tìm kiếm xác em trong... vô
vọng. Ông Duy chỉ là một trong 300.000 lính Bắc Việt chết trận mất xác – và kể
như là mất luôn (Duy is one of about 300,000 North Vietnamese soldiers killed in
the war whose remains have not been located - and likely never will
be).
Tiếp theo là một câu chuyện cảm
động về tình đồng đội: “Mỗi tuần một lần, ông Ban thức dậy lúc 5 giờ sáng, leo
lên chiếc xe gắn máy màu xanh lá cây đã cũ, đi đến những nơi mà ông còn nhớ khi
còn là một y tá trong quân đội. Trí nhớ của ông quả tốt; mười năm qua, ông tuyên
bố, đã đào được 2.000 xác chết và đã nhận diện được một nửa trong số này...’’
Vẫn theo lời ông Ban: “Là kẻ sống sót, tôi tự thấy mình phải có bổn phận
với những nguời đã chết (Being still alive, I feel responsible for the dead
people).
Quan niệm sống của ông Ban, tiếc
thay, không được chia sẻ bởi những người hiện đang nắm quyền bính ở Việt Nam –
dù họ đều là những kẻ sống sót sau cuộc chiến vừa rồi. Khi bị chất vấn về thái
độ vô trách nhiệm này, giới chức có thẩm quyền của Hà Nội, ông tướng Trần Bạch
Đằng nào đó đã giải thích với phóng viên Rajiv Chandrasekaran như sau: ’’...tìm
kiếm những binh sĩ quá tốn kém mà tiền thì phải dùng vào việc chăm lo cho cho
những kẻ còn sống sót.’’(Dang said the cost of searching for missing soldiers
must be weighed against the need to care for the survivors of the
war).
Vì đảng viên Cộng Sản Việt Nam là
những nguời theo chủ thuyết duy vật nên không quan tâm đến những việc làm có
tính cách duy tâm chăng? Nói vậy e không được ổn. Nhìn cái cách họ ’’thờ’’ ông
Hồ Chí Minh thì biết. Họ có cả một Bộ Tư Lệnh để bảo vệ lăng ông ta mà. Họ đâu
phải là những kẻ vô tâm và lo tốn kém.
Họ ướp xác ông Hồ và bảo trì cũng
như bảo vệ nó tới cùng chỉ vì nó có giá trị như một thứ môn bài (patent) cho
phép họ tiếp tục hành nghề cách mạng – hay ít nhất thì họ cũng tưởng hoặc
mong như thế; còn 300.000 ngàn bộ xuơng của đám binh sĩ chết dấm chết dúi đâu
đó, trong cuộc chiến vừa rồi, đâu còn một chút giá trị thực tiễn nào nữa khiến
họ phải quan tâm.
Rõ ràng họ không phải là những
người duy vật, cũng không phải là những kẻ duy tâm mà là những tên duy... lợi !
Hãy nhìn vào thực tế, xem cô nhi quả phụ hay bố mẹ của những kẻ đã hy sinh được
“chăm lo’’ ra sao – từ nửa thế kỷ qua ?
‘’Lúc ấy người ta sợ nhất là nhìn thấy người phát
thơ. Hàng ngày hàng trăm cái thơ báo tử để trong xắc cốt nguời cán bộ xã. Anh ta
đi đến nhà nào là mang đau thương tang tóc đến nhà đó... họ sợ nhất là sau cái
’lễ truy điệu trọng thể để ’Tổ Quốc ghi công’ là họ bị đẩy ra lề xã hội, không
ai nuôi dưỡng.’’ (sđd trang 136 -138).
“’Lúc ấy’’, qua đoạn văn vừa dẫn, là hình ảnh của
xã hội miền Bắc vào thập niên 60 và đầu 70 - khi mà Đảng Cộng Sản Việt Nam còn
cần động viên xương máu người dân cho chinh chiến. Cuộc chiến đã tàn. Bây giờ
thì họ còn cần gì đến ai nữa? (Nói chi đến mộ phần của những tên “lính ngụy” ở
Nghĩa Trang Quân Đội!)
Phế binh: Nguồn ảnh: tranhung09
Do đó, khi thấy một phế nhân lê la
xin ăn trên hè phố Sài Gòn hôm nay đừng vội nghĩ đó là thương binh của quân đội
miền Nam. Không nhất thiết như thế đâu. Bây giờ ăn mày là một cơ hội đồng đều
(equal opportunity), không phân biệt tuổi tác, giới tính hay thành phần xã
hội.
Ranh giới giữa kẻ thắng và người
bại đã bị xoá nhòa từ lâu ở đất nước này. Nơi đây – trước đói rách, khủng bố và
mọi bất công xã hội – tất cả đều bình đẳng. Việt Nam hôm nay chỉ còn một nhóm
người thu tóm hết quyền bính, đất đai, cũng như sở hữu mọi tài sản xã hội, và cả
một dân tộc bị trị vì đã bị lừa gạt trắng trợn - thế
thôi.
Bài báo của Rajiv Chandrasekaran
kết thúc bằng một tâm sự não lòng: “Tháng 4 năm nay khi cả nước đang chuẩn bị kỷ
niệm 25 năm sau ngày ’giải phóng miền Nam’ và thống nhất đất nước nhiều gia đình
đã đến nghĩa trang để thăm mộ thân nhân. Riêng bà Thắm thì có cảm tưởng mình bị
bỏ rơi. Theo bà ta thì ’em tôi đáng lẽ phải nằm trong nghĩa trang liệt sĩ chứ
đâu phải ở rừng sâu.’(My brother belongs in the Martyrs’ Cementery,’’ Tham said,
’’not out in the jungle’’).
Người ta có thể hiểu được tình
thương yêu vô hạn của bà Thắm đối với người em vắn số nhưng thực khó mà chia sẻ
với bà ta cái ảo tưởng rằng ông Nguyễn Dinh Duy là liệt sĩ. Cùng với hàng triệu
người khác nữa, sự hy sinh của ông Duy – chung cuộc – chỉ đẩy cả một dân tộc vào
cảnh lầm than và băng hoại.
Bà Thắm vẫn chưa nhận ra được rằng
cái được mệnh danh là cuộc chiến “chống xâm lược’’ và “giải phóng miền
Nam’’ vừa qua chỉ là những canh bạc bịp. Nhờ vào gian manh, thủ đoạn và tất cả
những mánh khoé lường gạt cần thiết nên Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thắng. Còn
nhân dân thì thua trắng tay.
Họ mất ráo mọi thứ, kể cả xương cốt
của người thân, để đổi lấy... những bảng ghi công: Liệt Sĩ, Gia Đình Có Công Với
Cách Mạng, Mẹ Việt Nam Anh Hùng... Hoặc giản dị hơn nữa là một cái bãi đất mênh
mông (chi chít bia mộ) với bốn chữ “Nghĩa Trang Liệt Sĩ" treo ở cổng vào,
và chấm hết.
Chỉ có thế thôi mà bà Thắm vẫn bị
đứng ngoài. Bà ta có lý do để buồn, dù đó một nỗi buồn “không lấy gì làm chính
đáng.’’ Buồn hơn nữa là gần một phần hai thế kỷ sau khi chiến tranh chấm dứt,
một số nguời Việt ở hải ngoại – những kẻ có nhiều cơ hội để nhìn vấn đề
một cách khách quan hơn – vẫn tiếp tục tranh cãi và xỉ vả lẫn nhau về những
chuyện rất không cần thiết và cũng chả chính đáng tí nào.
Họ giống như những nguời đàn bà nhà
quê đi chợ bằng xe lam. Trên xe bị một thằng lưu manh dụ chơi bài ba lá, lột hết
tiền, và đuổi xuống xe. Thay vì xúm nhau, túm cổ thằng khốn nạn, vả cho nó rụng
hết răng rồi lấy lại tiền thì họ quay ra xa xả đổ thừa lỗi lầm cho kẻ này người
nọ; sau đó, họ cãi vã và xỉa xói lẫn nhau – bằng những ngôn từ nặng nề và thô
tục đến độ khó ngờ.
Tưởng
Năng Tiến - Thứ tư, 08.5.2013
Ừ HẾT CHIẾN TRANH
Ừ hết chiến tranh, cha bán vé số
Kiếm ngày dăm nghìn, bữa đói bữa no
Nồi cơm tí gạo, chỉ sắn, bo bo
Những mảnh áo quần đụp mền, vá víu
Ừ, hết chiến tranh
cửa nhà túng thiếu
Suốt quanh năm, mẹ gánh xôi chè
Công an đuổi chợ gánh đổ toè loe
Khóc sướt mướt mẹ ngồi đầu gục xuống
Ừ hết chiến tranh, cu Tèo lội ruộng
Chăn nghé, chăn trâu cho cán bộ Lung
Ngày được hai bữa cơm mắm tôm, sung
Nếu mà sai đâu thì đòn ở đó!
Ừ hết chiến tranh, sửa sang bộ vó
Chị Duyên chập tối trang điểm ra đi
Hai, ba giờ khuya chị mới trở về
Khách hành hạ nhiều làm chị muốn lả
Ừ hết chiến tranh gia đình bác Cả
Ân thưởng tưởng lệ, liệt sĩ đánh Mỹ
Chỉ có bằng treo, lương tiền quá hạ
Y như chị Duyên, Dung đi làm đĩ!
Ừ hết chiến tranh, nói lời hoa mỹ
Giải phóng, cách mạng, hạnh phúc, tự do
Quen gạt, quen lừa, nghe đến ốm o
Từ nay hết tin những lời nói dối!
Bút Xuân
0 comments:
Post a Comment