Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa
Friday, 17 May 2013
ĐẢNG CSVN CẢ LŨ TRỰC TIẾP HAY GIÁN TIẾP ĂN CƯỚP TIẾT KIỆM CỦA DÂN
Friday, May 17, 2013
No comments
ĐẢNG CSVN CẢ LŨ
TRỰC TIẾP HAY GIÁN TIẾP
ĂN CƯỚP TIẾT KIỆM CỦA DÂN
Tuần
trước, ngày 09.05.2013, viết bài CSVN IN TIỀN CHO VÀO LƯU HÀNH ĂN CƯỚP
TIẾT KIỆM CỦA DÂN, chúng tôi nhấn mạnh đến Lạm phát ở khía cạnh Tiền tệ
bằng cho Tiền mới in vào Khối Tiền đang lưu hành. Có độc giả nêu thắc
mắc tại sao Chủ tịch FED Hoa kỳ, Giáo sư Tiến sĩ BERNANKE, cũng đã dùng
biện pháp Phát hành tiền mới vào lưu hành để cứu vãn Kinh tế Mỹ trong
thời kỳ đình trệ thiếu vốn. Chúng tôi xin trả lời vớ ba lý do của FED
như sau:
1) Khối
Dollar lưu hành tại Hoa kỳ và trên Thế giới với lượng khổng lồ. Việc
tăng tiền mới sánh với khối tiền lưu hành khổng lồ ấy chỉ như muối bỏ
bể. Hãy tưởng tượng ngoài Hoa kỳ, hầu hết các Ngân Hàng trên Thế giới
đều giữ dự trữ bằng đồng Dollar. Tỉ dụ Khối Dllar lưu hành ở Hoa kỳ và
trên Thế giới là 100’000’000 tỉ. Nếu chỉ thêm vào lưu hành 1’000 tỉ, thì
độ nhúc nhích Lạm phát mới chỉ có 0.000001% không thấm vào đâu cho Lạm
phát. Ngoài ra tăng Lạm phát này lại được chia ra một phần tương đối nhỏ
cho Hoa kỳ, mà một phần lớn cho lưu hành Dollar
trên Thế giới. Trong khi ấy, khối Tiền Đồng lưu hành ở Việt Nam là khối
nhỏ, nên việc tăng Tiền mới cho vào lưu hành mang tầm Lạm phát lớn.
2) Chủ
tịch FED tăng Tiền mới vào lưu hành khối Dollar của Hoa kỳ và trên Thế
giới lại dưới hình thức dài hạn chứ không ngắn hạn như trả lương, mua nợ
cấp bách như ở Việt Nam, nghĩa là độ tăng 0.000001% tại Hoa kỳ được tản
ra dài hạn trong hàng chục năm trong khi ấy độ mất giá của Tiền Đồng VN
xẩy ra cấp thời.
3) Việc
tăng Tiền mới in cho Khối lưu hành Dollar tại Hoa kỳ là nhằm nới rộng
vốn cho lãnh vực sản xuất Kinh tế thực. Thực vậy, theo Công thức của
Fisher (MV/T)=P, thì nếu tăng MV (Khối Tiền tệ) để T (lượng sản xuất
Kinh tế thực) cũng tăng cùng một tốc độ, thì việc Lạm phát Tiền tệ được
hóa giải. Tại Việt Nam, việc tăng Tiền mới ngắn hạn bằng trả lương công
chức hay mua nợ, trong khi ấy lượng sản xuất của Kinh tế thực của các
Tập đoàn Kinh tế quốc doanh, không những không tăng mà lại giảm xuống,
thì ảnh hưởng lên Lạm phát sẽ là bình
phương.
Nếu
học tại Havard về tài chánh mà áp dụng những nguyên tắc tài chánh Mỹ
cho Việt Nam với mô hình Kinh tế Tập quyền định hướng “Xã Hội Bóc Lột “
thì trật lấc.
Lạm
phát tăng vọt, Đồng Tiền mất giá là ăn cướp Tiết Kiệm của Dân. Nhà Nước
in Tiền mới cho vào lưu hành làm mất giá đồng tiền là trực tiếp ăn cướp
Tiết Kiệm. Các Tập đoàn , Tổng Công ty Nhà nước giảm lượng sản xuất
Kinh tế thực là gián tiếp ăn cướp Tiết Kiệm qua ngả Lạm phát.
Trong
bài của tuần trước, chúng tôi nói đến việc ăn cướp trực tiếp. Trong
tuần này, chúng tôi đề nhấn mạnh đến việc ăn cướp gián tiếp Tiết Kiệm
của Dân do các Tập đoàn, Tổng Công ty quốc doanh. Chúng tôi xin đề cập
đến những khía cạnh sau đây:
=> Tình trạng Lạm phát, mất giá đồng Tiền VN đã liên tục xẩy ra từ lâu và tích lũy
=> Cung cách sử dụng vốn của các Tập đoàn, Tổng Công ty nhà nước
=> Hiệu năng sản xuất yếu kém của các Tập đoàn, Tổng Công ty nhà nước
=> Kết luận Nhà Nước CSVN đáng cho Dân dứt bỏ hẳn
Tình trạng Lạm phát, mất giá đồng Tiền VN
đã liên tục xẩy ra từ lâu và tích lũy
Phá
giá đồng nội tệ đi song hành với tình trạng LẠM PHÁT tăng nhanh ở Việt
Nam. Viết về tình trạng tăng nhanh lạm phát, chúng tôi cũng trích dẫn
chính những phân tích và nhận định của những nhà Kinh doanh, những Ngân
Hàng gia, những Giáo sư Kinh tế/Tài chánh từ Quốc nội để đám Mafia CSVN
không chống chế, lừa gạt được Dân chúng bằng cách cố hữu nói trên báo
đài độc chiều rằng đó là do “thế lực thù địch” hải ngọai vu khống.
Một
số Phóng viên, Ký giả đã phỏng vấn những Giáo sư, Cố vấn Kinh tế/Tài
chánh tại quốc nội về tình trạng Lạm phát hiện nay. Chúng tôi xin trích
đăng lại một số phát biểu trong Bài đăng trên Vietnamnet do Phước Hà
thực hiện (Cập nhật lúc 18:37, Thứ Năm, 28/02/2008 (GMT+7))
Chỉ
số tăng giá tiêu dùng hai tháng đầu năm lên đến 6,02%, đã đi được 2/3
so với chỉ tiêu Quốc hội đề ra, trong khi vẫn còn 10 tháng ở phía trước.
Các chuyên gia kinh tế tỏ ra không có nhiều bất ngờ và cho rằng cần có
các giải pháp đồng bộ hơn để chặn đứng lạm phát.
* Ông Cao Sỹ Kiêm, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia, Chủ tịch Hiệp hội DN vừa và nhỏ Việt Nam:
“Tốc
độ tăng giá 2 tháng đầu năm lên tới 6,02% là quá cao. Đặc biệt, có
những nguyên nhân chủ quan, trong đó có một nguyên nhân chính là ngân
hàng đã bỏ lượng tiền lớn ra mua USD chưa thu về hết được, đầu tư nhưng
hiệu quả còn thấp, ngân sách bội chi tăng lên.”
* Giáo sư TSKH Ngô Trí Long, Học viện Tài chính:
“Con
số 6,02% tăng cao quá. Nhìn cả một quá trình, đây là tăng cao nhất
trong hơn 10 năm lại đây. Đây là một cảnh báo đối với nền kinh tế. Những
tháng tới, nếu có tăng 0,5% thôi như dự báo tháng 3 của Tổ điều hành
thị trường, thì cả năm cũng không thể thực hiện nghị quyết Quốc hội đề
ra. Biện pháp tiền tệ đã được thực hiện. Giá cả đang lao nhanh như thế
thì những biện pháp ra chỉ có tính ngăn chặn thôi. Trong kiềm chế lạm
phát, giải pháp tài chính tiền tệ có ý nghĩa quan trọng, trong đó giải
pháp tiền tệ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Lạm
pháp do tiền tệ !”
* Giáo sư Tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam
“Việc
chống lạm phát năm 2008 này phải được đặt lên ưu tiên hàng đầu, hơn cả
mục tiêu tăng trưởng. Vì suốt bốn năm liền lạm phát cao, cộng lại đã lên
tới 40%. Điều này đồng nghĩa với việc đồng tiền mất giá, đội giá thành
sản phẩm lên cao, tăng thêm dự án treo, còn đời sống người dân bị ảnh
hưởng nặng.
Như vậy, về phương diện đối nội, phân phối nguồn lực đã bị lệch và tác động đến đời sống.
Cùng
điều kiện, hoàn cảnh, các nước trong khu vực lạm phát thấp hơn của
mình. Nếu môi trường VN vẫn bất ổn, lòng tin của nhà đầu tư sẽ giảm đi,
ảnh hưởng đến cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư bỏ đi cũng sẽ
ảnh hưởng đến tăng trưởng dài hạn.
Lạm phát ảnh hưởng cũng sẽ làm cho sức cạnh tranh trong nước giảm đáng kể.
NHNN cũng đã vừa sử dụng kết hợp cả hai loại biện pháp dài hạn và tức thì. Biện pháp hành chính như bán 20.300 tín phiếu.
Ngay sau đó NHNN lại bơm ra 39.000 tỷ đồng. Điều này khiến sự vận động của dòng tiền thành bất thường, gây hiệu ứng tiêu cực.”
* GSTS Vũ Văn Hóa, Trưởng Khoa Kinh Tế Tài Chánh - Đại Học Quản Lý Kinh Doanh, chia sẻ them về vấn đề này:
“Ngân
Hàng Nhà Nước quyết định tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng
USD và tiền đồng VN tăng thêm 603 đồng tương đương với 3,3%. Tôi cho
rằng việc này cũng coi như một sự phá giá của đồng VN, tức là cái tình
trạng nhập siêu của Việt Nam ngày nay lại càng gia tăng. Mà hiện nay,
nếu theo tỷ giá này thì nó càng gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhập
khẩu, điều đó là điều hiển nhiên rồi.”
Theo
Giáo sư Tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam,
trong 4 năm, đồng Tiền VN mất giá 40%. Điều này có nghĩa là việc mất giá
của đồng tiền VN không phải là có tính cách nhất thời, giai đọan với
những lý do bất thường mà Nhà Nước CSVN thường nêu ra để cắt nghĩa cho
dân chúng để chữa lỗi. Lý do mất giá đồng Tiền Việt Nam mang tính cách
thường xuyên và trường kỳ.
Dưới
chủ trương Kinh tế tập quyền chỉ huy, chúng tôi không nói đến làm gì vì
nền Kinh tế này thất bại hòan tòan. Nhưng hãy kể từ 10 năm nay, từ thời
đổi mới, mở cửa và tuyên bố chấp nhận nền Kinh tế Tự do và Thị trường,
thì đồng Tiền VN có thể nói là mất giá 100%, nghĩa là lạm phát, vật giá
tăng 100%.
Cung cách sử dụng vốn
của các Tập đoàn, Tổng Công ty nhà nước
Những
Công ty, Tổng Công ty Nhà Nước làm việc với vốn, Tiền của quốc gia.
Vốn, Tiền của quốc gia được thả lỏng cho những Công ty Nhà Nước. Những
dự án thi nhau trình lên Nhà Nước để lấy vốn. Phải có dự án, thì mới có
dịp ăn bẩn ăn thỉu. Thi đua dự án có nghĩa là thi đua cắt xén “đúng chỉ
tiêu “. Có ba lọai dự án chính:
* Những dự án thuộc ngành nghiệp chuyên môn
* Những dự án thuộc hệ thống Bộ
* Những dự án thuộc vùng, mỗi Tỉnh
Thời
kỳ đầu của đổi mới, mở cửa, những dự án của những Công ty quốc doanh
được coi như việc thưởng công chiến tranh. Dần dần sau này, những dự án
dễ dàng được cấp vốn thường là do những con ông cháu cha có quyền trong
đảng.
Việc
cấp vốn là theo tiêu chuẩn liên hệ quyền hành trong đảng, chứ không tất
nhiên theo tieo tiêu chuẩn cần thiết và hiệu quả Kinh tế. Ví tính cách
liên hệ quyền lực trong đảng, nên việc kiểm sóat xử dụng vốn cũng không
thể xiết chặt giữa các quyền lực trong đảng được bởi lẽ cùng ăn bẩn như
nhau thì bỏ qua những bẩn thỉu của nhau. Những chủ dự án nếu làm ăn
không thành công hay thua lỗ, thì đã có vốn nhà nước cấp phát thêm.
Đối
với mỗi dự án từ vốn nhà nước, trước hết chủ dự án phải nghĩ đến cắt
xén cho túi riêng mình. Sau đó việc chi tiêu trong Công ty hay Tổng Công
ty cũng không được người Trách nhiệm kiểm sóat chặt chẽ bởi lẽ nếu
người Trách nhiệm khắt khe kiểm sóat, thì những người dưới kiểm sóat
ngược lại khắt khe với mình. Đây là cả hệ thống lãng phí vốn quốc gia.
* Chúng tôi xin trích bài viết của Bloger Người Buôn Gió :
“Phát triển kinh tế hay tư duy nhiệm kỳ?
Mấy
chữ “tư duy nhiệm kỳ” nghe mà phát ghét. Ở đó bao hàm tất cả những cái
gì là hủ bại nhất trong tính cách dân tộc, nhất là cái tính cách ăn xổi ở
thì. Ăn xổi ở thì thì làm bất kỳ việc nào cũng cốt qua loa cho xong đi,
để mà còn nặng túi trở về với gia đình, chăm sóc cái tổ ấm vốn đã lo
đâu vào đấy trong khi đang tại chức. Cho nên mọi việc anh làm, tiếng là
vì dân, nhân danh thật to tát, cuối cùng chỉ là đổ vỏ ra đấy để cho kẻ
đến sau đi hót. Và chu trình cứ thế lặp đi lặp lại, trở thành một đại
họa cho dân. Một thành phố Hà Nội
mà càng cải tạo lại càng nhếch nhác chẳng phải vì thế thì còn gì. Nghe
đâu ngài đương kim trọng thần của nhiệm kỳ này đang cố tranh thủ một
mảnh đất nào đấy ở Hồ Mây, cái đích ngài cố ngắm cho trúng, chứ đâu phải
là nghĩ suy về những quy hoạch tổng thể cho Hà Nội ngàn năm “đàng hoàng
hơn, to đẹp hơn” như cụ Hồ nói. Trách gì mới vài năm trước khi nước mưa
biến cả thành phố thành sông thì có vị quan to đã có ngay một câu thật
nổi tiếng: Dân Hà Nội bây giờ quen dựa dẫm vào Nhà nước mất rồi. Thì
chính là vì dựa dẫm vào Nhà nước mà dân chúng Thủ đô chúng tôi cứ tưởng
rồi sẽ có đường phố khang trang, đi lại thông thoáng hơn, nào hay bây
giờ ra đường đã thấy ngay những con đường do Nhà nước cải tạo đã đang
tắc ứ. Còn
các khu Hà Nội mới mở từ khi Thủ đô ta giải phóng đến nay nhất là từ khi
có đồng vốn vay nước ngoài để làm kinh tế thị trường, thì nhiều nơi lại
còn ngõ ngách chật hẹp, chen chúc, lúc nhúc còn hơn cả Hà Nội 36 phố
phường thuở xưa. Những nơi ấy xe cộ tha hồ mà tắc.”
Những Giáo sư, Cố vấn Kinh tế cho Cơ Chế CSVN, không ai không nhắc đến lý do thiếu kiểm sóat chặt chẽ Tiền, Vốn của Nhà Nước.
* Ông
Cao Sỹ Kiêm, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia,
Chủ tịch Hiệp hội DN vừa và nhỏ Việt Nam nói đến “đầu tư nhưng hiệu quả
còn thấp, ngân sách bội chi tăng lên.”
* Giáo sư TSKH Ngô Trí Long, Học viện Tài chính, nhấn mạnh “Chính sách tài chính phải
xem lại để làm sao chi đầu tư phải hiệu quả, chi thường xuyên phải tiết
kiệm, cái nào cần phải giảm, cái nào phải bỏ. Đầu tư phải hiệu quả, mua
sắm tài sản công phải tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí... Chi tiêu
công phải siết chặt lại, chống lãng phí, tiết kiệm tiêu dùng, tiết kiệm
sản xuất - hạ giá thành sản phẩm, đầu tư hiệu quả.”
* GSTS
Vũ Văn Hóa, Trưởng Khoa Kinh Tế Tài Chánh - Đại Học Quản Lý Kinh Doanh,
nói thẳng đến các Dự án và chi tiêu của Chính phủ: ”Theo các chuyên gia
kinh tế nhận định thì rất nhiều công trình có đầu tư lớn của nhà nước
đang còn dở dang và những công trình này không thể ngừng lại được. Để
giải quyết chúng nhà nước phải chấp nhận bỏ thêm một số tiền rất lớn
trong ngân sách. Bây giờ không thể kềm chế được cho nên biện pháp quan
trọng nhất hiện nay là phải xem xét lại, tức là cơ cấu lại các khoản chi
thường xuyên của chính phủ. Còn các công nghiệp khác
ở trong nước thì ODA và FDI rất là ít cho nên chúng tôi cũng chưa biết
là chính phủ sẽ làm như thế nào, nhưng mà chúng tôi cũng có khuyến cáo
là chính phủ nên xem xét lại, tức là cơ cấu lại các khoản chi của chính
phủ, không dàn trải, phải nâng cao hiệu quả.
Khi
lượng Tiền, Vốn bỏ ra, thả lỏng cho những Dự án chuyên môn, cho những
Dự án Bộ hay những Dự án Địa phương (Tỉnh), mà hiệu quả Kinh tế không
đạt được, thì đồng Tiền không Hội nhập đầy đủ, nghĩa là không có tương
đương Hàng hóa hay Dịch vụ bảo đảm Giá trị của đồng Tiền. Đồng
Tiền mất giá, lạm phát đã nhiều năm trường là do sự thả lỏng này. Nhà
Nước lấy Tiền, Vốn đâu mà thả lỏng ra như vậy ? Tại sao không có thể
nghĩ rằng trong suốt những năm trường, Nhà Nước độc tài đã ra lệnh cho
Ngân Hàng Nhà Nước in tiền
mới (chưa Hội nhập Kinh tế), thả vào nền Kinh tế để đánh lận với đồng
Tiền thực (đã Hội nhập Kinh tế) mà dân chúng đang giữ.
Hiệu năng sản xuất yếu kém
của các Tập đoàn, Tổng Công ty nhà nước
Người
làm Kinh tế có câu nói: “Làm ra Tiền đã khó, mà tiêu Tiền còn khó hơn”.
Thực vậy, tiêu Tiền không phải là vất Tiền ra cửa sổ. Tiêu Tiền theo ý
nghĩa Kinh tế là phải làm thế nào để một đồng chi ra, phải thu vào tối
thiểu hơn một đồng, nghĩa là nếu không có lợi nhuận, thì thà đừng tiêu.
Việt Nam cũng có câu :”Tiêu Tiền Chùa”, nghĩa là tiêu Tiền của chung thì
dễ dàng phung phí, không cần nghĩ đến hiêu quả. Phải nghĩ đến hiệu quả
trước khi quyết định chi tiêu.
Những Công ty, Tổng Công ty quốc doanh không làm ăn cho có hiệu quả tương xứng vì những lý do sau đây:
* Đây là Công ty Nhà Nước, lợi nhuận làm ra do cố gắng làm việc hữu hiệu, cũng thuộc về Nha Nước. Vì vậy không cần cố gắng nhiều.
* Người đứng trách nhiệm Công ty nghĩ đến cắt xén thưởng công cho mình trước khi làm Kinh tế thực sự để sinh lợi nhuận.
* Những
sản phẩm công nghệ ngày nay là sự chắp nối những linh kiện rời trong hệ
thống sản xuất từng phần (sous-traitance). Những Công ty Nhà Nước khó
lòng phân công với nhau để sản xuất từng phần trong mục đích giảm giá
thành sản phẩm cuối cùng. Những Công ty công nghệ Nhà nước chọn những dễ
dãi là nhập siêu những thành phần từ nước ngòai để đem về ráp nối chặng
chót. Vì vậy sản phẩm chặng chót có giá thành cao lên vì nhập siêu
những linh kiện.
* Mỗi
lần nhập siêu linh kiện là mỗi lần những chủ Công ty nhà nước lại có
dịp thông đồng kín đáo với người bán từ nước ngòai để tăng giá mua, cắt
xén cho vào túi riêng của mình.
* Cuối cùng, nếu Công ty không làm việc cho có hiệu lực, thua lỗ, thì đã có Tiền, Vốn quốc gia bù thêm vào.
Theo
Công thức tóm tắt của FISHER mà chúng tôi đã cắt trong bài viết tuần
trước và mới nhắc lại trên đây, thì khi nền Kinh tế không có hiệu quả,
số sản phảm (T) giảm, thì Khối Tiền lưu hành (M.V) không có Hàng hóa và
Dịch vụ tương xứng. Đồng Tiền mất giá, lạm phát, đồng tiền mua được ít
hàng, nghĩa là vật giá tăng.
* Bloger
Người Buôn Gió viết rất đúng về thái độ làm việc của những người trách
nhiệm các Công ty Nhà Nước:” Các kế hoạch xây dựng càng xây càng hỏng,
nào hầm Thủ Thiêm, đường hầm Kim Liên…; có nhà máy như Dung Quất tưởng
đã vận hành từ lâu thì nay lại phát hiện thêm 100 lỗi
trong khi thi công nên phải tạm ngưng, không biết sẽ còn ngưng đến bao
giờ. Các đại tập đoàn đứng sau Nhà nước, tưởng lập ra là cốt tăng thêm
GDP, giúp cho an sinh được cải thiện, dân đỡ khổ hơn, nào hay anh nào
cũng dài mồm than lỗ, mới ra Tết mọi thứ sản phẩm
của họ đã tăng giá vùn vụt, nghĩa là họ chỉ góp phần vào bĩ cực mà chẳng
thấy có thái lai.”
* Giáo sư TSKH Ngô Trí Long, Học viện Tài chính, nhấn mạnh như một hiệu lệnh: “Đầu tư phải hiệu quả”.
* GSTS
Vũ Văn Hóa, Trưởng Khoa Kinh Tế Tài Chánh - Đại Học Quản Lý Kinh Doanh,
cũng nhất thiết khuyến cáo: “Phải nâng cao hiệu quả”.
* Chúng
tôi xin trích một đọan của bài viết của Oâng VŨ QUANG VIỆT đăng trên
báo Lao Động (số 197, ngày 25.8, và số 198, ngày 27.8.2007) :“Tôi rất
đồng ý với các nhà kinh tế đã nhận định là ở bất cứ đâu và bất cứ thời
điểm nào lạm phát có nguyên nhân in tiền nhiều quá. Tại sao lại in tiền
nhiều ? Vì nhà nước chi nhiều hơn số thuế thu được. Vấn đề là nhà nước
bắt ông Ngân hàng Nhà nước mua trái phiếu. Điều này có nghĩa là bắt NHNN
in tiền. Tiền nhiều hơn hàng làm ra thì tất phải lạm phát. Thời chống
lạm phát cuối những năm 1980, hầu hết mọi người
trong chính phủ đều cho rằng phải tăng năng suất, phải tăng cung để giảm
lạm phát. Tôi đã đặt cho các bạn ấy một câu hỏi. Thế khả năng tăng sản
xuất thật một năm là bao nhiêu ? Cao nhất như Trung Quốc thì cũng chỉ
10-15% là cùng, nhưng các ông lại đang tăng tiền tới cả vài trăm phần
trăm một năm. Các ông có tăng sản xuất nổi vài trăm phần trăm một năm
không ?“
Kết luận: Nhà Nước CSVN
đáng cho Dân dứt bỏ hẳn
Xin
nhắc lại lời của Giáo sư Tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh
tế Việt Nam, nói: “Cùng điều kiện, hoàn cảnh, các nước trong khu vực
lạm phát thấp hơn của mình.“.
Có
lẽ Giáo sư Tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam,
không dám nói ra một điều làm Việt Nam khác với các nước trong khu vực
vì ngại sợ rằng Công an CSVN lại mời ông lên làm việc, rồi truy tố ông
ra tòa theo Điều 88 Bộ Hình Luật. Riêng tôi, tôi đã nói từ lâu rằng cái
Cơ Chế CSVN làm Kinh tế, gọi là nền Kinh tế Tự do và Thị trường định
hướng XHCN, khác hẳn với việc làm Kinh tế Tự do và Thị trường ở những
nước trong khu vực. Nền Kinh tế Tự do và Thị trường của những nước trong
khu vực tôn trọng Môi trường Chính trị—Luật
pháp dân chủ phù hợp (Environnement Politico-Juridique démocratique
adéquat), trong khi ấy Việt Nam cố thủ chủ trương Chính trị độc tài nắm
trọn độc quyền Kinh tế. Cái khác là ở chỗ đó và chính cái khác này làm
cho Lạm phát và đồng Tiền mất giá cao hơn nhiều sánh với những nước
trong khu vực.
Kinh
tế Việt Nam là Kinh tế nhóm đảng Mafia CSVN độc tài cướp bóc của cải
dân chúng và quốc gia cho riêng mình, chứ không phải nền Kinh tế do Dân
và cho Dân. Vì nắm giữ cả hai quyền, nên Tiền, Vốn nhà nước bỏ lỏng ra
để Khối Tiền lưu hành (M.V) tăng theo ý đảng và họat động Kinh tế không
cần hiệu quả để không đủ sản phẩm tương xứng (T) bảo đảm cho giá trị
đồng Tiền. Lạm phát, Phá giá đồng Tiền là như vậy.
Khi
viết về cuộc Khủng hỏang Tài chánh Á-châu năm 1997 làm đồng tiền một số
lớn những nước Á châu mất giá, Bà Francoise NICOLAS đã đưa ra tỉ dụ
tình trạng lạm phát đã làm dân chúng đói nghèo nổi dậy đạp đổ chế độ độc
tài SUHARTO sau 32 năm cai trị.
Thực
vậy khi vật giá tăng vọt, đồng tiền mà họ tiết kiệm mất giá do chính Cơ
chế Nhà Nước CSVN, một đàng trực tiếp do in thêm Tiền mới cho vào lưu
hành, một mặt gián do những Tập đoàn, Tổng Công ty quốc doanh, thì những
người lãnh lương như công nhân, công chức thì không được tăng lương là
bao nhiêu, đa số rơi vào cảnh nghèo đói. Những người giữ quyền hành
Chính trị, đặc quyền làm ăn bóc lột thì giầu có, vẫn tiêu pha, nhập
siêu. Việc nổi dậy của đại đa số dân chúng nghèo đói không đến từ một
thế lực ngọai lai nào khuyến dụ mà từ BỤNG
ĐÓI của Dạ Dầy. Sức mạnh nổi dậy trước khi bị chết đói làm họ không sợ
chết nữa. Nếu họ biết rằng việc mất giá Tiền tiết kiệm và
Tiền lương của họ là do sự gian lận in tiền mới ra để lừa đảo đánh lận
con đen với Tiền thực của họ và do những Tập đoàn, Tổng Công ty nhà nước
một mặt cắt xén bỏ túi riêng, mặt khác làm việc cho có lệ nên yếu kém
năng suất, thì cuộc nổi dậy còn tăng thêm thù hận đến giết lát nữa.
Để Kết luận, chúng tôi xin lấy lời nhận định của Oâng Jacques DIOUF, Tổng Giám Đốc FAO, tuyên bố với báo Financial Times:”
Si les prix continuent à augmenter, je ne serais pas surpris que l’on
assiste à des émeutes de faim.” (Nếu giá cả tiếp tục tăng, thì tôi không
ngạc nhiên về việc người ta chứng kiến những nổi dậy vì đói khổ) (LE MONDE, No.19523, Thứ Tư 31.10.2007)
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 16.05.2013
Web: http://VietTUDAN.net
Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!
.
.
0 comments:
Post a Comment