Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa
Thursday 1 May 2014
NATIONAL RESENTMENT DAY : Ngày Quốc Hận 30.4.1975
Thursday, May 01, 2014
No comments
Quốc Hận!
Nước đã mất, nhà
đã tan, gia đình ly tán! Ý nghĩ nầy in sâu vào trong trí não của những người
đang lênh đênh trên biển cả, trong những chiếc thuyền nhỏ bé mong manh, phú thác
mạng sống của mình cho vận mệnh rủi may, những mong thoát khỏi ngục tù của những
người cộng sản từ miền Bắc, đang xây cất trên toàn cõi quê hương yêu
dấu.
Trên đường trốn
chạy, lìa bỏ quê cha đất tổ, đã có hàng trăm ngàn người vùi thây trong biển cả,
trong bụng cá, trong bàn tay sát nhân của bọn hải tặc khát máu. Cũng có những
người vượt thoát bằng đường bộ, xuyên qua ngã Cambochia, Lào, và cũng không ít
người đã chết đói vì lạc đường, hoặc bị giết bởi bọn Miên cộng, Lào cộng. Số còn
lại, hơn 2 triệu người đã đến được bến bờ tự do với hai bàn tay trắng, và có rất
nhiều người bỏ lại sau lưng những người thân yêu trong gia đinh, dòng họ. Hầu
hết những thuyền nhân đó đã nói với các phái đoàn tiếp nhận định cư của các
nước: “Thà chết trên biển cả còn hơn sống trong chế độ của Việt cộng (tạm dịch:
Rather die on the high sea than live under the Vietnamese communist regime).
Điều đó đã nói lên cái ý chí liều chết để đi tìm TỰ DO.
Thảm cảnh đó đã
làm cho thế giới bàng hoàng, xúc động. Họ đã gọi những người trốn chạy khỏi quê
hương nầy bằng một biệt danh, mà trong lịch sử loài người chưa từng có: “BOAT
PEOPLE” (Thuyền Nhân).
Thảm cảnh đó khởi
đầu vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày mà bọn cộng sản Việt Nam,
từ miền Bắc, đã bất chấp hiệp định Paris 1973, với sự trợ giúp của khối cộng sản
quốc tế, đã tấn công và chiếm lãnh miền Nam,
nước Việt Nam Cộng Hòa, với sự
hững-hờ của thế giới không cộng sản.
Cái hận đã mất
nước và cái hận đã bị đồng minh phản bội, đưa đến cảnh nước mất nhà tan, gia
đình phân cách, chia ly, đã tạo nên sự thống hận trong lòng người dân Việt kể từ
ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Từ đấy, chúng ta,
những người Việt hải ngoại và kể cả đồng bào quốc nội, gọi ngày 30 tháng tư hàng
năm là NGÀY QUỐC HẬN.
Không có từ ngữ
nào để diễn tả ngày đó chính xác hơn từ ngữ Ngày Quốc
hận. Nó diễn tả không những đúng về mặt hiện thực mà còn đúng về
mặt tâm linh. Ngày đó, đời sống của những con người Việt Nam trên toàn quốc đã
bị thay đổi một cách toàn diện, từ tốt đẹp biến thành cùng khổ; từ tương lai
trong sáng trở thành tăm tối, không có ngày mai. Trong lòng mỗi người đều bị đè
nặng bởi nỗi niềm u uất, căm phẫn vì đang bị một lũ người vong bản, tay sai của
ngoại bang, dốt nát, tàn ác cai trị bằng chánh sách vô nhân nhứt trần gian. Đời
sống của người Việt Nam không hơn không kém gì với đời của một con vật: ngoan
ngoãn thì được cho ăn, bằng không thì bị bỏ đói cho đến ngày tàn tạ.
Trong lòng mỗi con
dân Việt, ai mà không nhớ đến ngày 30 tháng tư, ngày đổi đời đó? Tuy nhiên, mỗi
người nhớ đến nó một cách khác nhau.
Cái nhớ sâu sắc
nhất, không bao giờ quên là tuổi thanh niên đã bị hủy hoại trong các nhà tù gọi
là trại “cải tạo”. Những rường cột của Quốc Gia đã bi kềm hãm trong ngục tù khổ
sai, ăn không đủ no, bệnh không thuốc chữa. Bọn người ác độc lợi dụng sức người
hom hem yếu đuối đó, bắt họ đi làm muớn, làm thuê, làm những việc khổ sai, chúng
lấy tiền bỏ vào những cái túi tham không đáy. Những người tù “cải tạo” đó, bị
hành hạ không những trên thể xác, mà cả tinh thần của họ cũng bị dày vò cả ngày
lẫn đêm, bằng những lời chửi bới,hăm dọa, kể cả những đòn thù bằng đánh đập,
biệt giam trong những thùng sắt ngột ngạt, nóng bỏng khi nắng lên, không cho
nước uống, và còn nhiều trường hợp đem người chống đối bọn chúng ra xử bắn tại
nơi đông người. Những hành động nầy, bọn cai tù tàn ác, gọi là những bài “học
chính trị”, do “Bác” và Đảng chủ trương đối với những người sa cơ, thất
thế.
Những người tù
lương tâm đó là ai?
Họ là những
chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã
xả thân mình để bảo vệ phần đất miền Nam của Tổ Quốc, giữ gìn an ninh cho người
dân miền Nam được sống một đời sống thanh bình, an cư lạc nghiệp.
Họ là những công
chức phục vụ cho chánh quyền Việt Nam Cộng
Hòa, để xây dựng một quốc gia hùng mạnh phú cường, có phần trội
hơn so với các nước lân bang như Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Thái Lan, Đại Hàn,
Đài Loan.
Họ là những nhà tư
bản đã góp công xây dựng nền kinh tế phồn thịnh cho nước Việt Nam Cộng Hoà.
Họ là những người
trong ngành giáo dục, đã tận tụy và miệt mài với trách nhiệm mở mang trí óc cho
những thanh thiếu niên, mong xây dựng nên một thế hệ kế tiếp, văn minh, thông
thái hữu dụng cho quốc gia.
Những người tù
lương tâm nầy đã bị buộc tội là đã phục vụ cho chánh quyền trước, đã giúp đỡ
cho “Ngụy Quân, Ngụy Quyền” chống phá lại “cách mạng của nhân dân”
(sic).
Ngoài những người
đã bị bắt đi làm tù “cải tạo”, những người dân thường sống tại các đô thị cũng
bị đày đọa không kém. Họ đa bị ép buộc đi đến những nơi hoang dã, thâm sơn cùng
cốc, mà bọn cầm quyền ác ôn là “nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa” (hiện giờ là cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), gọi là “vùng kinh
tế mới”. Nơi đây chỉ với hai bàn tay trắng, không thể nào tìm được cách sinh
nhai. Sau khi đuổi họ đi vùng kinh tế mới, “nhà nước” đã tịch thu tất cả tài
sản, cơ ngơi của họ để phân phát cho những cán ngáo (ngố), đã có công với “nhà
nước” trong việc cưỡng chiếm miền Nam.
Ở nông thôn, không
còn ai có quyền có ruộng đất, dù rằng những mảnh đất do ông cha từ nhiều đời
trước để lại cho con cháu. Tất cả ruộng đất đều quy về “hợp tác xã”. Người nông
dân canh tác trên những mảnh đất ruộng vuờn đó, được thu hoạch do quyết định của
bọn đầu sỏ xã ấp, bằng một chính sách gọi là “bảng chấm công”. Ai nịnh bợ hay
theo phe chúng thì được chia nhiều hơn. Do vậy, đời sống của người ở nông thôn
thiếu thốn rất trầm trọng, có nơi đã có người chết vì đói, mà điều nầy chưa hề
xảy ra trong lịch sử của miền Nam Việt Nam.
Tóm lại, sau khi
bọn cường bạo cộng sản Việt Nam nhờ súng đạn của Trung cộng, của Liên sô, đã cưỡng chiếm được nước Việt Nam Cộng Hòa, thì toàn thể trên
26 triệu người dân miền Nam, bị cướp giựt một cách trắng trợn, không khoan
nhuợng, bị nhốt trong một nhà tù vĩ đại, đó là quê hương của mình, bị đày đọa vô
cùng tàn ác, sống như một con thú không hơn không kém.
Tình cảnh của
người dân Việt Nam hiện nay, năm 2012, đã qua 37 năm, không khác gì ngày bắt đầu
cuộc đổi đời 30 tháng 4 năm 1975. Có khác chăng là lối sống giàu sang, xa hoa,
trụy lạc của những “cán bộ” Việt cộng và gia đình họ. Còn người dân ngày càng bị
đàn áp mạnh mẽ hơn, bằng những thủ đoạn, bằng những xảo thuật nghề nghiệp, gian
manh hơn, ác độc hơn.
Đã là người Việt
Nam thì không ai có thể quên, trong lòng ai cũng đang âm ỉ một nỗi hận. Những kẻ
nào quên đi là họ cố ý bị “bịnh quên” để đổi lấy những đồng tiền dơ bẩn, đẫm ướt
máu của đồng bào quốc nội. Họ đã quên đi ơn nghĩa của quốc gia cưu mang họ như
một người tỵ nạn. Họ đã quên đi lòng bao dung của cộng đồng tỵ nạn đã đùm bọc,
giúp đỡ họ, đến khi họ thành tài, nổi tiếng, thì vì họ xem đồng tiền lớn hơn
bánh xe trâu (câu nói khinh miệt của dân miền Nam), họ phủi hết đi ơn nghĩa, trở
lại hợp tác với kẻ thù, tiếp tay với bọn Cộng Phỉ, đàn áp ngược lại đồng bào của
mình.
Để kết luận, cầu
mong tất cả đồng bào Việt Nam hãy ghi nhớ, ngày Quốc Hận 30 tháng 4, bởi vì ngày
đó là ngày mang đến nỗi hận xót xa cho cả nước, chúng ta hãy tưởng niệm đến quê
hương đã mất đi, tưởng nhớ và tri ơn đến những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã hy sinh
mạng sống để bảo vệ tự do cho quê hương và đồng bào. Hãy tưởng nhớ đến những
người tỵ nạn kém may mắn đã chết trên đường đi tìm tự do. Và quan trọng nhất là
hãy làm một vài việc gì đó mà mình có thể, để góp bàn tay với đồng bào quốc nội,
đập nát chế độ Việt cộng, để sớm gây dựng lại một Nước Việt Nam Tự Do Nhân Bản
và Phồn Vinh, để cho ngày quốc hận trở thành không còn hận nữa, mà chỉ còn là
ngày đen tối nhất được ghi lại trong lịch sử Việt Nam.
Lão
Ngoan Đồng
Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!
.
.
0 comments:
Post a Comment