Thursday, April 11, 2013
Khi một cô gái Mỹ muốn tham gia quân đội, ngoài
chút ham mê phiêu lưu và náo động, ngoài những toan tính thực tế về
quyền lợi và công sức, chắc hẳn cô phải có thêm một chút lý tưởng. Là
một thành viên của quân đội không chỉ là biết cầm súng và leo dây, mà
còn mang sứ mạng và nghĩa vụ cao thượng nhất của một công dân: lấy thân
mình để bảo vệ đất nước. Là thành viên của quân đội cũng là chen vai sát
cánh cùng những đồng đội khác, là một trong những anh hùng dầu vô danh
vẫn là chiếc bóng in xuống lịch sử ngàn sau.
Có
bao nhiêu cô gái, khi tình nguyện nhập ngũ, biết rằng mình sẽ vào chốn
hiểm nguy không phải ở chiến trận giáp mặt quân thù, sẽ bị tổn thương
không bằng viên đạn, trái mìn, bom hay một thứ khác trong kho vũ khí đa
dạng của loài người? Cô có biết rằng kẻ thù rình rập trong không gian
chung quanh mình, có thể gây ra những vết thương đau đớn và khó lành hơn
cả những vết thương da thịt, là những đồng đội đáng lẽ mình phải chung
sức chung lòng trong phục vụ, thậm chí những cấp trên mình phải kính
trọng và tuân phục?
Có
bao nhiêu cô gái nhập ngũ và biết rằng xác suất mình là nạn nhân của
một vụ cưỡng bức, bạo hành tình dục ít nhất sẽ là 30% hoặc hơn? Đáng sợ
hơn nữa, cô có biết rằng sau khi trải qua kinh nghiệm ghê gớm ấy, rất có
thể cô lại phải đối diện, làm việc chung với kẻ tội phạm, và xác suất
hắn ta bị trừng phạt chỉ dưới khoảng 10% hoặc thấp hơn nữa? Khi một nữ
quân nhân của Mỹ bị cưỡng bức, trường hợp của cô tương tự như một người
vợ bị chồng bạo hành, trước thời VAWA (Luật Bạo Hành Phụ Nữ, năm 1995),
mọi chuyện được xem là “chuyện nội bộ” và được xử lý trong nội bộ, có
nghĩa là thường được xếp qua một bên, bị làm lơ, bị dẹp qua một bên cho
dù nạn nhân muốn một giải quyết rõ ràng hơn. Chướng ngại đến từ mọi
phía, từ cấp trên (nhiều khi chính là tội phạm) không muốn đưa nội vụ ra
tòa quân sự, hoặc cảnh sát quân đội cố tình “làm mất” hồ sơ. Khi một nữ
quân nhân của Mỹ bị cưỡng bức, gần như chắc chắn cô sẽ bị phản bội 3
lần và bỏ rơi hai lần. Lần phản bội đầu tiên từ tội phạm, đáng lẽ là
‘người nhà” cô phải tin cậy. Lần phản bội thứ nhì và bỏ rơi thứ nhất là
lúc quân đội ngoảnh mặt với cảnh ngộ của cô, không những về công lý mà
phần lớn cũng không giúp cô trong nỗi khổ vế tâm lý. Lần phản bội tứ ba
và bỏ rơi thứ nhì là từ phía chính quyền và luật pháp Mỹ: đã là quân
nhân Mỹ, cô hoàn toàn không có quyền kiện quân đội ở tòa dân sự.
Trong
hoàn cảnh này, cộng thêm những áp lực và tâmn lý phức tạp khác thường có
trong một vụ cưỡng bức “trong gia đình” như thế, không lạ gì đa số nạn
nhân không hề báo cáo, một hành động có thể gọi là thiếu can đảm, nhưng
trong cấu trúc luật pháp hiện tại của quân đội Mỹ và dân sự Mỹ, đấy có
thể là một hành động thực tế.
Tránh tối đa việc kiện tụng những thành
viên của quân đội có thể được xem là sự che chở bảo vệ cho những người
đang vì quốc gia vào nơi nguy hiểm. Nhưng tại sao lại có sự phân biệt
giữa hai thành viên của cùng một tổ chức? Nếu một nam quân nhân Mỹ cưỡng
hiếp phụ nữ nơi giao chiến, anh ta sẽ bị ra tòa án quân sự Mỹ vì tội
này, thế thì tại sao sự kiện anh ta cưỡng hiếp đồng đội lại được bỏ lơ?
Ngay trong sự tàn khốc và áp lực của chiến tranh, chuyện cưỡng hiếp đã
không còn là một thứ phản ứng phụ của chiến tranh mà đã chính thức thành
tội ác, một hành vi không thể dung túng. Nhưng tại sao quân đội Mỹ còn
dung túng hành động này khi nạn nhân chính là người trong tổ chức của
mình và trông đợi sự bảo vệ của mình?
Phụ nữ sắp bước vào mặt khốc liệt nhất
của chiến tranh, phần giao chiến bằng vũ khí với kẻ địch. Khi chuyện này
xảy ra, quân đội Mỹ có thay đổi cách nhìn về vai trò phụ nữ trong quân
đội và thấy nó quan trọng hơn vai trò dịch vụ/hậu cần bây giờ? Đã có
những cố gắng qua nhiều phương pháp từ nghệ thuật đến luật pháp để tìm
cách tỉnh thức giới lãnh đạo quân đội và thúc đẩy họ tìm những biện pháp
bảo vệ phụ nữ trong quân đội nhiều hơn. Nhưng cuối cùng câu hỏi vẫn là:
bao giờ thì phụ nữ trong quân đội không còn là nạn nhân của hệ thống
quyền lực họ góp phần bảo vệ?
Tiểu Thư
0 comments:
Post a Comment