Tháng Tư Lại Về
(Hồi ký của Thiếu tá Vương Mộng Long
Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biêt Động Quân)
Bây giờ
là tháng Tư, trong ký ức tôi những kỷ niệm 30 năm trước lại hiện về, rõ
mồn một như thể là nó mới xảy ra ngày hôm qua, hôm kia. Bây giờ là tháng
Tư, tôi lại nhớ đến trận đánh oai hùng cuối cùng của QLVNCH, trận Xuân
Lộc. Tôi bùi ngùi hồi tưởng những vinh quang nhận được từ chiến thắng để
đời này, cùng những tủi nhục nhận lãnh trong những ngày đen tối tiếp
theo sau đó, khi quê hương nát tan. Những dòng này viết lên để tưởng
niệm những thuộc cấp của tôi đã ngủ yên giấc tháng Tư, bên con suối Rét
(Xuân Lộc), trên một ngọn đồi không tên ở Long Thành, và trong đường phố
Hố Nai (Biên Hoà).
Đầu
tháng tư năm 1975, Quân đoàn 2 không còn nữa. Vì Liên đoàn trưởng và
Liên đoàn phó vắng mặt, nên tôi được chỉ định nhận nhiệm vụ chỉ huy và
hướng dẫn Liên đoàn 24 Biệt Động Quân từ Quảng Đức tìm đường ra biển để
bắt tay với quân bạn. Khi Liên đoàn được trực thăng vận về Phan Thiết
thì Tiểu đoàn 82 BĐQ được đưa thẳng về sân bay Long Khánh đặt thuộc
quyền xử dụng của BTL/ SĐ 18 BB. Tại đây, suốt 10 ngày đêm ròng rã, Tiểu
đòan 82 BĐQ đã tả xung hữu đột chặn đứng mọi mũi tiến công dũng mãnh
của lực lượng xe tank CSBV nhắm vào sân bay Xuân Lộc và Tòa Hành Chánh
Long Khánh vùng đông nam thành phố. Với tôi, trận Long Khánh là một trận
đánh "để đời" cho những tay cầm quân chuyên nghịêp. Ngày xưa tôi rất mê
Rommel, tôi đã tìm đọc nhiều sách viết về Con Cáo Sa Mạc này và tôi mơ
tưởng có ngày được đánh những trận thần sầu như Rommel đã làm.
Ngày
đầu đặt chân xuống phi trường Long Khánh (6/4/1975) tôi thật khó mà
tưởng tượng ra rằng tại nơi này mình lại có dịp tham dự vào một trận
đánh long trời lở đất vài ngày sau đó. Trận Xuân Lộc là lần đầu trong
đời lính, tôi được thỏa mãn ước vọng đọ sức so tài với một địch thủ nặng
cân hơn về vũ khí đồ sộ hơn về quân số. Địch đông gấp ba, bốn lần quân
bạn, được T54 trang bị đại bác 100 ly dẫn đường. Pháo yểm của CSBV gồm
đủ loại hạng nặng: đại bác 130 ly, 122 ly nòng dài, 105 ly, 75 ly sơn
pháo, cối 120 ly, cối 82 ly, và phòng không 37 ly. Thậm chí trong ba
ngày đầu địch dùng cả 37 ly phòng không bắn trực xạ vào trại 181 PB/
SĐ18 nơi tôi đặt bản doanh BCH Tiểu đoàn. Ấy vậy mà đoàn quân hung hăng
của "Con Cháu Bác" không làm cách nào vượt nổi khúc xương khó nuốt là
cái trại 181 PB bé tí teo để xông thẳng vào tòa Hành Chánh tỉnh, nơi ông
Đại tá BĐQ Phạm văn Phúc tỉnh trưởng đang trợn tròn con mắt theo dõi
tên đàn em về từ Pleime chơi trò ú tim với xe tank CSBV.
Rạng
đông 9/4/1975 chiến trận bắt đầu bùng nổ . Chiến trường mịt mù dưới
đất, tóe lửa trên trời. Những cánh F5 thét gào, lên, xuống, thả hết đợt
bom này tới đợt bom khác lên đầu địch. Đáp lại địch cũng trả đòn bằng
những chùm 37 ly phòng không nở hoa trên mây. Những chiếc Khủng Long AC
119 bao vùng cả ngày lẫn đêm, những họng đại bác 20 ly gầm rú từng hồi.
Súng nổ như bắp rang khắp nơi trong thành phố, ngoài vòng đai. Đủ loại
đại bác thét gầm, đạn xé gió ào ào tới tấp tưới trên mục tiêu của cả hai
phía. Những đám cháy không người chữa, lửa càng lúc càng cao, thần hỏa
tự do tung hoành. Máy truyền tin ơi ới gọi nhau. Những thân hình ngã
xuống, những tiếng hô xung phong nghe rợn tóc gáy. Những chiếc T 54 hung
hãn khạc đạn liên hồi, những cái lô cốt ngả nghiêng vì trúng đạn đại
bác 100 ly của xe tank địch. Trong những ngày đầu tháng Tư Long Khánh,
một góc địa cầu đã rung rinh vì bom đạn.
Khi
chiếc PT 76 vướng vào cuộn kẽm gai vòng nơi góc rào tây bắc của trại
181 Pháo Binh Sư Đoàn 18 thì cũng là lần đầu đoàn quân xâm lăng khựng
lại hoảng hồn bởi những tiếng hô, "Biệt Động ! Sát ! " ... "Biệt Động !
Sát !" Chiếc xe tank đầu tiên lãnh trọn một quả M72. Chiếc PT 76 xấu số
cháy bùng. Những anh bộ đội Cộng Sản tùng thiết rút lui trối chết về
hướng rừng lau. Chúng tôi đã ra mặt đương đầu với đoàn chiến xa CSBV kể
từ giờ đầu súng nổ. Nơi góc đông nam thị xã, những người xâm lăng đã
biết chúng tôi là Biệt Động Quân ngay lần hội ngộ đầu tiên. "Biệt Động !
Sát !" , "Biệt Động ! Sát !" tiếng hô vang dậy một góc trời ! Biệt Động
Quân đang có mặt nơi đây.
Ngày
qua ngày, pháo địch như mưa, T 54 có bộ binh tùng thiết, từng đợt, từng
đợt ào ạt xung phong vào vòng đai phòng thủ thị xã. Nhưng những tổ chống
tank 3 người của TĐ 82 BĐQ ẩn hiện như ma trơi, sau ô mối, sau gốc
xoài, trong bụi chuối, cứ từ từ rang hết con cua T 54 này đến con cua T
54 khác. Tiểu đoàn tôi đánh vùi với chiến xa địch cả tuần lễ không biết
mệt. Toán diệt tank này bị loại, toán khác lên thay. Có cả một giang sơn
hướng đông nam thị xã cho chúng tôi mặc sức tung hoành. Chúng tôi đã
làm cho địch tổn hại nặng nề. Chúng tôi đã đánh cho chúng nó "tà đầu"
như ý của Thiếu Tướng Tư Lệnh mặt trận.
Săn
đánh xe tank là cả một nghệ thuật, nó còn là một cái thú nữa, cái thú
vui chết người. Hơ hỏng một chút thôi là mất mạng như chơi. Trong số 12
BĐQ Pleime tử trận ở Long Khánh tháng 4/1975 đã có 7 người chết trong
khi săn đuổi xe tank CSBV. Mỗi chiến cụ, mỗi vũ khí đều có chỗ yếu của
nó. Cái bộ phận phun khói của xe tank là cái "gót chân Achilles" của xe
tank CSBV. Tất cả những chiếc tank địch bị TĐ82 BĐQ tiêu diệt trong trận
Xuân Lộc đều bị bắn từ phiá sau đuôi, nơi phun khói. Đánh tank cũng có
qui luật. Việc đầu tiên là "tiả" tên xạ thủ 12,8 ly, nó là tai mắt của
chiếc tank, nó có một chân trái hoặc phải bị khóa vào dây xích trên ghế
phòng không. Việc thứ nhì là "bung" một trái lựu đạn khói hoặc lân tinh
làm màn chắn che mắt cái tank bạn của nó ở cách nó không xa, cây phòng
không trên chiếc tank thứ 2 là tử thần gọi chết. Việc thứ 3 thật là giản
dị, cứ đứng xổng lưng bóp cò cây M72 nhắm ngay phần phun khói sau đít
cái tank mục tiêu, đây là phần mỏng nhất, dễ bắn thủng nhất của chiến
xa. Một tiếng "bùm ! " rồi tiếp sau đó là xăng và đạn trong xe cháy nổ
"lóc ! tóc ! ùm ! ùm ! " ngọn lửa dâng cao, khói dâng cao. Xong.
Mỗi
lần một chiếc PT 76 hay T 54 bị bắn cháy, cột khói chưa lên cao khỏi
ngọn cây thì người Anh Cả của chiến trường đã có mặt trên vùng.
"Tiên Giao đây Hằng Minh gọi!"
"Hằng Minh, Tiên Giao nghe"
"Come on ! Gắng lên nghe em! Đánh cho nó tà đầu hết cục cựa! Okay?"
"Vâng, tôi nghe 5, đánh cho nó tà đầu hết cục cựa!"
"Okay ! You're a man! Don't let 'em run away ! Okay?"
"Vâng, không cho nó ôm đầu mà chạy! "
"Kill 'em! Kill 'em! Okay! "
"Vâng ! Đây là cái tank thứ (2) (3)... đó nghe Hằng Minh! Nó vào cái nào, tôi hạ cái nấy nhé!"
"Okay! I like the way you fight! "
"Vâng, tôi nghe rõ 5 ! "
" You're great ! You're excellent !"
Sau
khi thị sát trận địa và khích lệ tinh thần tôi, người Anh Cả bay sang
mặt trận hướng Tây thị xã, trên đường bay, ông liên lục đối thoại với vị
chỉ huy trưởng phòng thủ Xuân Lộc, Đại tá Trung đoàn trưởng Tr/Đ 43/
SĐ18 BB Lê xuân Hiếu (K10) cũng bằng ngôn ngữ nửa Việt nửa Mỹ.
Người
Anh Cả của mặt trận này là Thiếu tướng Lê Minh Đảo (K10) Tư lệnh Sư
đoàn 18 BB. Ông lấy danh hiệu đàm thoại là Hằng Minh, tên người em ruột
của ông, Lê Hằng Minh là người hùng TQLC Tiểu đoàn trưởng TĐ2 Trâu Điên
năm xưa đã tử trận trên chiến trường Thừa Thiên. Tiên Giao là tên đứa
con gái út của tôi, danh xưng truyền tin tôi chọn cho mình trong trận
đánh này.
Một ngày giữa
tháng Tư năm 1975, ngoài vòng đai phòng thủ, một chiếc T 54 chạy lạc
loài. Cái ống khói của nó lãnh trọn một quả M 72 của toán diệt tank của
Đại Đội 1/ TĐ82 BĐQ. Anh binh nhì Phan Thọ trong toán hộ tống của
TĐT82BĐQ cùng với ông phóng viên nhà báo lao vụt về hướng súng nổ. Ít
phút sau tôi nghe choang choác, tiếng phòng không 12,8 ly nổ dòn ngoài
xa. Trong máy PRC 25 tiếng Th/úy Học, ĐĐT 1/82 BĐQ báo cáo, thằng Thọ bị
thương nặng, xin tản thương. Thì ra anh B2 Thọ gan dạ này thấy chiếc T
54 đã nằm bất động, anh leo lên gỡ khẩu phòng không đem về cho thầy.
Không ngờ còn một chiếc chiến xa T 54 khác nằm ẩn trong bụi lau cách đó
không xa. Thấy anh đứng nghênh ngang sau pháo tháp nó quạt cho anh một
tràng 12,8 ly. Anh rơi xuống đất như con chim bị ná. Ruột anh đổ ra lòng
thòng, máu tuôn như suối. Anh phóng viên và một người lính trong toán
diệt tank khiêng Thọ về sân bay. Sĩ Quan Trợ Y Tiểu đoàn phải dùng cả
một tấm băng lá to bằng 2 bàn tay xòe để che cho ruột của Thọ khỏi phòi
ra. Mặt Thọ tái xanh, môi run run, "Thiếu tá đừng la em nhé ! Em thấy
cây súng dễ ăn quá, không ngờ tụi nó bắn lén em!" Tôi an ủi Thọ, "Ừ
Thiếu tá không la em đâu, nằm im đó chờ xe, Hoàng Long sẽ đem em đi tản
thương! " Hoàng Long là danh xưng của Đại úy Ngũ văn Hoàn,Tiểu đoàn phó
TĐ 82 BĐQ.
Tôi một mặt lo
xin pháo binh trong vòng đai trực xạ vào vị trí chiếc xe tank còn lại,
một mặt điều động ĐĐ1/TĐ 1/ Trung đoàn 43 BB đánh bọc bên phải tiếp tay
cho Thiếu úy Học ĐĐ1/82 có thì giờ dùng kẽm gai concertina quây quanh
chiếc xe mới bị bắn cháy. Chỉ có concertina mới ngăn cản hữu hiệu được
bước tiến của chiến xa địch. Con đường độc nhất để tiến quân bằng xe
tank của địch nhắm vào sân bay Long Khánh đã bị đan chằng đan chịt kẽm
gai vòng. Chiếc tank mới bị cháy nằm hơi xa ngoài hàng rào và nó là
chiếc T 54 thứ 4 bị sơn lên pháo tháp dòng chữ "Tiểu đoàn 82 BĐQ diệt
tank". Năm 1981 tại trại Cải Tạo Z30 C Hàm Tân, có một Thiếu úy thuộc LĐ
81 BCND tên là Nguyễn văn Vinh tìm gặp tôi, anh nói, "Tháng 5/1975 em
bị nhốt ở Long Khánh, em ở trong toán tù binh bị bắt đi chùi những chữ
'Tiểu đoàn 82 BĐQ diệt tank' viết trên 4 cái tank T54 và 1 cái lội nước
PT 76 ở bìa rào phòng thủ Xuân Lộc. Công nhận Tiểu đoàn anh đánh tank
tuyệt quá ! "
Chiếc xe tản
thương của Trung đoàn 43 đã đưa B2 Phan Thọ về ngã ba Tân Phong, tháp
tùng có Đại úy Hoàn, anh phóng viên nhà báo và một anh y tá BĐQ. Khi
quay trở về vị trí phòng thủ, ông Đại úy Tiểu đoàn phó kể lại chuyện
dưới đây.
Xe tới
BTL/SĐ18/HQ thì Thọ rất mệt vì máu ra đã nhiều, anh xuống xe ngồi dựa
lưng vào một gốc xoài. Ông Đ/úy Hoàn đi tìm Sĩ quan Quân Y Sư đoàn để
xin tải thương. Bất ngờ Tướng Tư Lệnh từ trong lều bước ra, thấy Thọ,
ông hỏi, "Em là lính của ai ? Bệnh gì ? Muốn về Sài Gòn hả ?" Thọ im
lặng mở tấm băng lá cho Tư Lệnh thấy vết thương của mình, bất ngờ bộ
ruột của anh trào ra khỏi miệng vết thương, máu anh tuôn xối xả. Anh y
tá vội thưa, "Trình Thiếu tướng, anh này là lính TĐ 82 BĐQ , ảnh bị
phòng không bắn khi đang gỡ khẩu 12,8 ly trên cái chiến xa vừa bị bắn
cháy. Thiếu tá em cho phép ảnh được tản thương về Sài Gòn đó Thiếu
tướng." Tư Lệnh la lớn, "Quân y đâu băng bó cho chú em ngay." Ông quỳ
xuống tự tay ấn từng đoạn ruột của người lính vào bụng của anh ta. Người
y tá vội vàng làm phận sự của mình tiếp tay với Tư Lệnh. Đại úy Hoàn
vừa kịp quay lại chưa kịp chào trình diện thì Tư Lệnh đã lớn tiếng, "Phi
hành đoàn C&C đưa gấp chú em này về Cộng Hòa cho tôi.'' Quay qua
Thọ, Tướng nhẹ giọng, "Em là lính của Thiếu tá Long, em can đảm lắm, qua
sẽ cứu em !" Thọ lí nhí, "Cám ơn Thiếu tướng" rồi nó quay qua Đại úy
Hoàn, "Cho em điếu thuốc đi Đại úy". Đại úy Hoàn chưa kịp móc túi lấy
thuốc cho Thọ thì Tướng đã có sẵn điếu thuốc lá đưa vào môi người lính
can trường, ông một tay che gió, một tay bật lửa mồi thuốc cho Thọ. Mặt
Thọ tái xanh, những thớ thịt trên má bắt đầu co giật. Thọ hút một hơi
thuốc dài, mắt Thọ long lanh, chợt anh ngoác miệng cười, "Khẩu phòng
không còn mới cáo cạnh, nước thép xanh biếc thấy mê luôn Đại úy ơi ! "
Ông Đại úy Hoàn an ủi, "Giờ này chắc tụi nó đã mang khẩu súng ấy về nộp
cho Thiếu tá rồi. Mày nói đúng đó, nó còn mới cáo cạnh, hèn nào mày
không mê nó đến đổ ruột luôn !" Thọ cúi đầu cười xẻn lẻn.
Cái
bảng nhôm sơn đỏ có 2 ngôi sao trắng được lật mặt ra đàng sau trở thành
cái bảng nhôm màu trắng thanh khiết bên hông chiếc C&C. Không bảng
sao, cái trực thăng chỉ huy trở thành giản dị bình thường như ngàn vạn
chiếc tàu khác. Trước khi lên máy bay, Thọ còn ra dấu cho Đại úy Hoàn
lại gần để anh nhắn nhủ một điều gì quan trọng lắm, " Em đi rồi không có
ai pha cà phê sáng cho Thiếu tá. Đại úy nhớ nhắc thằng Bích khi pha cà
phê cho Thiếu tá thì cho ít đường thôi ! Thiếu tá không thích uống ngọt
lắm đâu. Nhờ Đại úy nhắn với Thiếu tá rằng, khỏi bịnh, xuất viện là em
lên với Thiếu tá ngay. Thôi em đì đây !" Không rõ Tư lệnh có nghe lời
nhắn của anh lính BĐQ gởi cho thầy của anh ta không, nhưng rõ ràng đôi
mắt Tư Lệnh rưng rưng. Chiếc trực thăng khuất trong vòm mây từ lâu mà
cánh tay Tư Lệnh còn vẫy theo chưa hạ xuống.
Đây
không phải là lần đầu cái can trường của thuộc cấp làm tôi cúi đầu kính
phục. Mà đã nhiều lần trong quá khứ, dưới quyền tôi không thiếu những
ngưới lính dũng cảm như thế. Thời 1966 vùng triền sơn Quảng Nam đầy rẫy
những họng súng bắn tỉa. Cứ nghe tiếng "tắc cù" là chú Hạ sĩ Phong lại
đưa cái thân cao ngỏng còng queo của chú che cho tôi, chú nói, "Em phải
che cho Thiếu úy, em trúng đạn có mình em chết, Thiếu úy trúng đạn cả
chục người chết theo." Rồi cũng có lần chú bị bắn toác nón sắt khi đưa
thân che chở cho tôi khi Đại đội tôi chạm địch gần ga Hương An Tam Kỳ.
Năm 1969 trong trận Bình Tây 49 dưới chân đỉnh Chư Pa, Đại đội 1/TĐ11BĐQ
của tôi đánh cứu viện cho Đaị đội 4/ TĐ11 BĐQ của Tr/ úy Nguyễn Lạn
K20. Trận này quân nhân đơn vị của tôi và Lạn bị thương khá nhiều. Từ
đầu trận, người lính mang đồ ngủ của tôi, anh B1 Trung đã bị bắn bể hông
phải. Đã có nhiều chuyến tải thương đi mà Trung vẫn còn ngồi chờ trên
bãi đáp. Tôi hỏi tại sao anh không lên máy bay về bịnh viện, anh phân
bua, "Em chờ xem có ai bàn giao đồ ngủ của Trung uý xong em mới yên lòng
đi về." Tôi ngỡ ngàng kêu lên, "Trời ơi ! Sao mày khờ thế ! Cứ quăng
đại cho ông thường vụ ! Lên tàu ngay ! Luẩn quẩn ở đây đến chiều, hết
tàu tản thương. Qua đêm máu ra hết thì chết ! " Trung giao đồ ngủ của
thầy anh ta cho ông thường vụ đại đội, bàn giao kỹ lưỡng nhiệm vụ của
mình rồi mới chịu lên chuyến tải thương cuối cùng về Quân Y Viện Pleiku.
Vết thương của anh nặng lắm, sau ngày lành bệnh, anh B1 Trung đã được
giải ngũ lãnh tàn phế 100%.
Những
người lính của tôi dễ thương như thế ấy. Họ chỉ biết vâng lời người chỉ
huy mình, bất kể đúng hay sai. Cấp chỉ huy ra lệnh tử thủ, họ tử thủ;
cấp chỉ huy ra lệnh rút lui, họ rút lui; không ý kiến, không bàn cãi
phán xét mà chỉ có tuân lệnh thi hành. Họ đã cùng tôi bao tháng ngày
đồng hành qua những chiến trường rực lửa, từ Pleime qua Kiến Đức tới Lâm
Đồng rồi về Xuân Lộc. Những người lính của tôi không màng đến vinh
quang mà chỉ phụng sự cho cái vinh quang của người chỉ huy mình. Vinh
quang một đời của người cầm quân là một món nợ, nợ với tổ quốc, nợ với
đồng bào, và nợ với thuộc cấp của mình, những người đã hi sinh cho cái
vinh quang mà mình đã một thời nhận được. Là người cầm quân, vinh quang
là cứu cánh, vinh quang là ý nghiã của cuộc sống.
Tôi
không có dịp tham dự vào cuộc phản công tái chiếm chợ Xuân Lộc, khách
sạn Long Khánh và Cua Heo cũng như những cuộc giao tranh trong khu trung
tâm thị xã. Tin tức liên quan đến mặt trận hướng Tây tôi hoàn toàn mù
tịt. Suốt 10 ngày dầu sôi lửa bỏng tháng Tư Long Khánh 1975, TĐ 82 BĐQ
chỉ biết có mặt trận đông nam thị xã mà thôi.
Bên
hướng đông suối Rét là Lữ đòan 1 Dù của Trung tá K15 Nguyễn văn Đỉnh
làm búa. Bên hướng tây suối Rét là cái đe do Thiếu tá K20 Vương mộng
Long,TĐT 82 BĐQ chỉ huy, gồm TĐ82 BĐQ tăng cường thêm 1 Đại đội của TĐ
1/ 43 BB, 1 Đại đội Điạ Phương Quân Tiểu Khu Long An và 1 Đại đội Điạ
Phương Quân từ Bình Long di tản về. Làm đe thì đỡ công di chuyển, đỡ mệt
thân xác, dễ kiểm soát đội hình, quân số. Nhưng làm đe cho Dù thì quả
là mất mạng như chơi. Pháo Dù nó tưới như mưa, làm đe bị lãnh tản đạn là
thường. Trong trận này có 3 người lính Thượng của tôi thiệt mạng vì tản
đạn của pháo Dù. Tháng Tư 1975 tôi đã chôn họ ngay bên dòng suối Rét.
Tôi đã cầu nguyện cho linh hồn họ yên vui trên đường phiêu du về nguyên
quán Pleiku.
Từ ngày đầu
chiến dịch, một anh phóng viên chiến trường của một tờ báo ở Sài Gòn, đã
có mặt bên tôi không rời. Anh có dáng lòng khòng dong dỏng như một
triết nhân. Anh mặc đồ trận, đội nón sắt, nhưng không trang bị súng ống.
Anh chỉ có cái máy ảnh, quyển sổ tay, và cây bút làm hành trang. Ngày
mà đạn pháo Dù bao trùm suối Rét cái lều của anh nhà báo rách toang.
Cũng may anh thoát chết vì lúc đó anh đang ở với ĐĐ1/TĐ82 BĐQ của Th/úy
Học, anh bận chụp hình cái tank cháy ngày hôm trước nơi hàng rào bắc của
trại 181 PB/ SĐ18.
Giữa
tháng Tư Lữ đoàn 1 Nhảy Dù tung ra nhiều đợt tấn công mãnh liệt nhắm vào
một Trung đoàn CSBV trong đồn điền chôm chôm hướng đông nam suối Rét.
Chúng tôi ở bên này bờ, hào hứng quan sát pháo Dù nổ rền trời phiá bờ
bên kia. Từ nơi đồn điền Thống tướng Tỵ, cán binh CSBV từng tốp chạy túa
ra bìa rừng, nhảy ùm xuống suối Rét. Những tay súng Pleime nhả đạn từ
từ và chính xác. Những người lính Bắc Việt bật lên khỏi mặt nước như
những con cá trắm cỏ, quẫy mạnh một lần rồi chìm luôn... Những tiếng hô
"Biệt Động ! Sát !" hoà lẫn tiếng súng M16, M60 làm cho một số cán binh
CSBV vừa ló đầu ra trảng trống đã vội chạy ngược lại phiá bìa rừng. Rồi
cũng có người cầm cờ trắng chạy từ trong bìa rừng ra bờ suối, súng AK dơ
lên cao khỏi đầu. Thế là họ đầu hàng. Thôi ! Vứt súng xuống suối rồi
lội sang đây ! Vứt súng xuống suối ! Dơ tay lên cao khỏi đầu, lội sang
đây ! Nghe rõ chưa? - Dạ cháu nghe rõ ạ.
Tôi
và người phóng viên nhà báo mồi cho ba anh cán binh CSBV ba điếu thuốc
lá. Họ còn rất trẻ, chỉ độ mười lăm. Bơ phờ mất ngủ, mắt quầng thâm.
- Cậu mấy tuổi rồi?
- Dạ thưa Thủ trưởng, cháu lên mười sáu ạ.
- Sao đi bộ đội sớm thế ? Mới mười sáu mà đã đi lính rồi à?
- Cháu là thanh niên xung phong, Thủ trưởng của cháu nói rằng Miền Nam giải phóng rồi, chúng cháu chỉ vào để tiếp thu thôi ạ.
- Thế đánh nhau mấy ngày nay cậu thấy thế nào?
- Thưa Thủ trưởng, nhà cháu sợ lắm ạ.
- Thôi đừng sợ, chốc nữa có người đưa cậu về Sài Gòn. Hết chết rồi, đừng sợ.
- Thủ trưởng có nói thật không hử Thủ trưởng ? Nhà cháu sợ chết lắm Thủ trưởng ơi.
Đôi
mắt trẻ thơ ngơ ngáo. Ngón tay cậu bé run run cầm điếu thuốc thơm đưa
lên môi, chỉ sợ nó rơi... Thì ra thế. Những cậu bé này được đưa vào đây
là để tiếp thu Miền Nam.....
Một
hôm, Đại tá Hiếu gọi tôi vào máy để "check fire" . Tôi liếc qua nơi cần
hỏa tập. Ồ! Cái tọa độ ấy chẳng liên hệ gì tới quân bạn, không trở
ngại. Rồi Đại tá Hiếu lại gọi tôi vào máy để "check fire". Rồi tôi lại
trả lời, "không trở ngại ! " Cứ vậy ba bốn lần hỏi qua, đáp lại.
Chiều
hôm ấy tôi nghe một tiếng "ùm" âm vang hướng đông bắc. Tôi đã từng nghe
B52 đánh cận phòng nhiều lần trên chiến trường Cao Nguyên Vùng 2. Tôi
đã nghe quen tiếng những trái bom 500 cân Anh, 300 cân Anh thun thút từ
trên mây xanh, những tiếng "ủn ủn" theo đuôi nhau chui trong không khí
kiếm mục tiêu. Nghe tiếng bom nổ chùm, tôi có thể phân biệt được đó là
Box 3km x 1km, Box 2km x 1km, hoặc Box 1km x 1km. Tiếng "ùm" lần này có
vẻ như âm vang của 1 Box B52 đánh gọn ô vuông mỗi chiều 1km x 1km ngày
nào? Tôi thấy một cột bụi dâng cao dần dần tới mây. Trời cao và mây xanh
ngắt. Có một chiếc C130 còn lượn trên vùng. Tôi nghĩ chắc chiếc C130 là
tác giả cú "ùm" vừa qua. Mãi sau này tôi mới biết tiếng "ùm" đó là 1
trong 2 trái CBU 55 (hay CBU 85) được xử dụng trong trận Xuân Lộc. Một
trái được thả xuống vùng núi Tre hướng Tây Bắc Long Khánh, tôi không
nghe báo, trái thứ nhì thì được thả xuống chận đường kẻ thù đang nhắm
tiến vào khu vực phòng thủ của Trung đoàn 43/ SĐ18 BB trong đó có TĐ 82
BĐQ tăng cường.
Mặt trận
tạm yên thì phái đoàn Thượng Hạ Viện từ Sài Gòn đã bay ra tới tận cuối
sân bay Long Khánh để ủy lạo những người lính Vùng 2 đang đổ máu bảo vệ
mảnh đất còn lại của quê hương nơi Vùng 3. Những gói quà, những cái bắt
tay, những lời hứa hẹn khen thưởng làm ấm lòng người chiến sĩ. Tôi nằm
trên võng dưới tàn cây điều lộn hột, lòng buồn nhớ thương vợ con tôi
không rõ giờ này ra sao.
Những
người lính dưới quyền tôi cũng vậy, mặt người nào cũng không vui, thân
nhân chúng tôi đã rơi vào tay địch nơi chân trời cũ xa xôi Ban mê Thuột,
Pleiku...
Một sớm mai, từ
hướng đông, chiến xa địch dàn hàng tiến về vòng đai phòng thủ Xuân Lộc.
Đại tá Hiếu gọi tôi và cho biết lần này bộ binh tùng thiết của CSBV có
vẻ đông hơn những đợt tấn công trước đây nhiều. Pháo binh bạn đã bắn tối
đa để chận địch. Tôi thấy vài cột khói bốc lên từ những chiếc tank bị
cháy. Có một chiếc T 54 bị bắn đứt xích cách vòng rào trại 181 PB không
xa lắm. Chúng tôi nghe tiếng búa của bộ đội CSBV gõ trên thành xe, chúng
đang sửa cái xe tank bị đứt xích. Pháo binh từ trong vòng đai liên tiếp
trực xạ hướng vào chiếc T 54 bị thương. Địch không phản ứng. Tiếng búa
chạm sắt cũng im. Họ án binh chờ lệnh ? Rồi bên quân bạn cũng không thấy
ai yêu cầu tác xạ thêm, pháo binh của ta cũng tạm ngưng. Từ trưa tới
chiều chạng vạng, mặt trận yên tĩnh lạ lùng.
Khi
mặt trời vừa lặn, pháo địch từ nhiều hướng khác nhau tập trung trên
thành phố Xuân Lộc, đủ loại súng nặng, bắn thẳng, cầu vồng, có điều khác
lạ là tất cả đều là pháo tầm xa (?) Pháo địch kéo dài cỡ một giờ đồng
hồ rồi im hơi.
Màn đêm
buông xuống, tôi nghe tiếng động cơ chiến xa nổ rộ, rồi nghe tiếng bánh
sắt chạm đường đất đá, âm vang kéo dài từ gần rồi xa dần. Toán tiền thám
BĐQ ngoài vòng đai báo cáo, chiếc T 54 bị đứt xích đã được kéo đi và cả
đoàn chiến xa dàn hàng ngang ngoài vòng đai phòng thủ cũng đang rút đi
(?) Tôi báo cáo sự việc này cho Đại tá Hiếu, ông cũng ngạc nhiên không
hiểu vì lý do gì, địch đang chuẩn bị một cuộc sống mái thì đột nhiên đổi
hướng.
Những ngày sau đó
tình hình im ắng như tờ, những con ve sầu trên ngọn điều lộn hột cất
tiếng hòa ca điệu cuối Xuân trong khung cảnh thật là tĩnh mịch êm ả đồng
quê. Những cây chuối trên đồi rủ lá. Những sợi khói lam từ mái rạ bay
cao.
Khoảng 3 giờ chiều
ngày 20/04/1975 Đại tá Hiếu cho xe ra sân bay đón tôi vào họp hành quân.
Ông rầu rầu, "Ông Toàn ra lệnh cho chúng ta bỏ Long Khánh rút về Bà
Rịa, ông Đảo vừa được lệnh và cho tôi biết. Tôi đón chú vào cho chú hay
để mà chuẩn bị, chút nữa ông Đảo họp với ông Toàn xong trở về sẽ có lệnh
chi tiết sau." Tôi ngồi với Đ/Tá Hiếu một lúc thì có điện thoại của Tư
Lệnh, đại khái ông cho biết, lệnh bỏ Long Khánh là từ Tổng Thống. Địch
không vây Long Khánh nữa mà đi bọc về đánh Biên Hòa và thủ đô Sài Gòn
nên quân ta phải bỏ Xuân Lộc, về bảo vệ Thủ Đô. Tướng Đảo cực lực phản
đối vụ triệt thoái này nhưng Tổng Thống và Tướng Toàn đã quyết định cắt
tiếp ứng, tiếp tế, yểm trợ cho SĐ 18 để ép Sư đoàn này thi hành lệnh lui
binh.
Tôi
được lệnh rút TĐ 82 BĐQ về ngã ba Tân Phong trước 8 giờ đêm chờ lệnh.
Tiểu đoàn 82 BĐQ cuốn lều, lấp hầm hố phòng thủ khi đêm rơi. Cuối tháng
ba năm 1975 chúng tôi đã làm việc này ở Kiến Đức, chúng tôi đã bỏ lại
sau lưng một trận địa , một kẻ địch kinh hoàng đến độ hai ba ngày sau
mới dám mon men vào điểm trú quân đã bỏ trống của đơn vị BĐQ một thời
ngang dọc Vùng 2. Tôi đã rút đi, theo lệnh, để lại Kiến Đức hàng chục
nấm mồ thuộc cấp của mình bên QL14. Quận Kiến Đức và Đồn Pleime cách
nhau không bao xa, cũng còn là trong lãnh thổ Vùng 2. Lần này 12 người
lính của Pleime ngủ lại bên bờ suối Rét, lạ lẫm quê người, quanh đây chỉ
có điều lộn hột, chuối, xoài và đồng cỏ mênh mông. Nơi này thật xa
những ngọn núi hùng vĩ Chư Gô , Chư Don, thật xa con sông mơ màng Ia
Meur lững lờ quanh năm. Công lao khó nhọc dặm trường nửa đường đứt gánh.
Đơn
vị tôi vừa di chuyển ngang cổng Tòa Hành Chánh tỉnh Long Khánh thì Đại
tá BĐQ Phạm văn Phúc Tỉnh trưởng đã chờ ở đó, Đại tá yêu cầu tôi cho
Tiểu đoàn 82 BĐQ đi với đoàn quân của Tiểu khu Long Khánh, và ông xin
được tháp tùng Tiểu đoàn 82 BĐQ trong cuộc rút lui. Tôi từ chối với lý
do, "Đại tá có cả một Tiểu Khu, Đại tá phải chỉ huy họ, là cấp chỉ huy
của họ, Đại tá không thể đi theo tôi mà để họ không người chỉ huy." Đại
tá, hiểu ra, cám ơn tôi đã có lời nhắc nhở nhiệm vụ của ông. Chúng tôi
bắt tay từ biệt. Mãi tới năm 1979 tôi mới gặp lại Đại tá trong trại cải
tạo Nam Hà A ngoài Bắc. Trong cuộc rút binh , Đại tá Phúc đã bị bắt khi
đi được nửa đường Xuân Lộc - Bà Rịa và bị giữ trong trại tù từ ngày đó.
Ra
tới QL 1 tôi phải cho quân đi hàng một và cách lề trái đường vài chục
mét. Khi đến ngã ba Tân Phong tôi được lệnh ngừng lại chờ lệnh. Trên QL1
những chiếc xe cam nhông chở đầy ắp lính ngồi hai hàng, xe chạy như
bay, chiếc này bám đuôi chiếc khác. Có những người lính bộ binh lưng
mang nặng balô, súng đeo vai đi sát hai bên đường. Xe mở đèn pha sáng
choang.
Một người lính bộ
binh chạy băng ngang từ bên phải sang bên trái đường. Anh trượt chân té,
chiếc xe cam nhông chạy qua đè ngang 2 chân anh. Anh lính la hét đau
đớn được một câu thì chiếc xe cam nhông thứ hai đã đè đủ 5 chiếc bánh
bên trái qua người anh ta. Tôi nghe rõ tiếng "rốp" khi bánh xe lăn qua
đầu anh. Cái xác dẹp lép của người lính cách chân tôi khoảng 2 mét. Tôi
kéo xác anh vào lề đường. Cái căn cước quân nhân cho tôi biết tên người
xấu số là Nguyễn thành Long, sinh quán Long An. Hai bên đường người cứ
đi như chảy hội, trên đường, xe cứ nối đuôi nhau.
Tôi
chờ khoảng 10 phút thì Đại tá Hiếu Trung đoàn trưởng Tr/Đ 43 BB cùng
người liên lạc Truyền tin của ông tới gặp tôi, tháp tùng Đại tá Hiếu có
Trung tá Linh, SQ Phụ tá Hành Quân Trung đoàn 43 BB. Đại tá Hiếu nói
Thiếu tướng Đảo chọn TĐ 82 BĐQ làm lực lượng bảo vệ Bộ Tư Lệnh di
chuyển. Lát sau Thiếu tướng Lê minh Đảo cùng 4 Quân Cảnh hộ tống xuống
xe gặp tôi. Chúng tôi xác định nhiệm vụ, trao đổi tần số rồi lên đường.
Đường
liên tỉnh lộ Long Khánh- Bà Rịa nhỏ và hẹp. Ra khỏi ngã ba Tân Phong
một đỗi, tôi thấy những bành đạn pháo binh xếp dọc lề đường, đây là bãi
tiếp tế của Sư đoàn, xa về hướng nam để đánh lạc pháo địch. Tuy vậy mới
chiều hôm ấy địch đã phát giác bãi này, và pháo binh CSBV đã đánh phá
đoạn đường này cả gìờ. Chúng tôi đi bên trái đường, thỉnh thoảng chân
tôi đá phải những xác người nằm chết rải rác đó đây, những người dân
chạy giặc, trúng đạn pháo chết oan, những cái xác còn mềm, có cái còn
toàn thân, có cái chỉ còn một phần hình hài con người.
Nhiệm
vụ đã được phân chia rõ ràng, TĐ 82 BĐQ chịu trách nhiệm bảo vệ Thiếu
tướng Tư Lệnh trên đường di chuyển. Tướng Tư Lệnh chỉ huy toàn thể trận
điạ. Trong khi đó Đại tá Hiếu chỉ huy cánh quân của TĐ 82 BĐQ và Tiểu
đoàn 1/43BB của Th/ tá Tung K20 đi theo sau. Tiểu đòan 3/ 43 BB tùng
thiết, được đặt dưới quyền Trung tá Nô, Thiết đoàn truởng TĐ 10 Kỵ binh.
Riêng Tiểu đoàn 2/43 BB của Th/tá Chế đóng quân trên núi Thị phải gánh
chịu nhiệm vụ nặng nề nhất của cuộc triệt thoái, làm lực lượng đoạn hậu
của SĐ 18 BB.
Tôi đi ngang
qua đồn điền Michelin vào lúc công nhân ở đây đã lên xe chạy từ lâu.
Những gia đình chậm chân thì khăn gói tất tả, vợ chồng con cái hối hả
lên đường. Có những bé thơ chừng năm, bảy tuổi, chân bó áo bó quần từng
cục vải to. Tội nghiệp cho bé, chân non đường dài. Tôi chạnh nhớ đến 3
đứa con tôi ở Ban Mê Thuột, đứa lớn nhất mới 4 tuổi, vợ tôi lại đang
mang bầu. Ban Mê Thuột đã rơi vào tay giặc từ đầu tháng 3/1975. Gia đình
tôi đã rơi vào tay giặc khi tôi gắng sức bảo vệ gia đình những người
khác ở Quảng Đức. Đầu tháng 3 năm 1975, khi có tin địch sẽ đánh Ban Mê
Thuột, tôi có gởi một cái điện khẩn cấp cho BCH/BĐQ/ QK2 và cho BTL/QĐ2
cho phép Tiểu đoàn tôi về phòng thủ thị xã này. Không ai trả lời cái
điện cầu xin trên. Đây là nỗi ân hận sâu xa nhất trong đời lính chiến
của tôi, nó cũng là nỗi buồn ám ảnh suốt đoạn đời còn lại của người chỉ
huy trực tiếp của tôi, Chuẩn tướng BĐQ Phạm duy Tất.
Đoạn
đường vài chục cây số từ Tân Phong đi Bình Ba/ Bà Rịa thực ra không có
gì là đáng ngại đối với những người lính sơn cước của TĐ 82 BĐQ. Nhưng
cái nhiệm vụ nặng nề bảo vệ Tư Lệnh Hành Quân đã làm tốc độ tiến quân
của chúng tôi giảm đi nhiều so với khả năng. Đi chừng nửa giờ tôi lại
phải cho đơn vị dừng quân bố trí chờ đơn vị theo sau. Quân nhân của
những đơn vị khác đi hàng một trên đường, vậy mà vẫn chậm hơn nhiều so
với đội hình tác chiến một hàng dọc của TĐ 82 BĐQ đi sâu gần bìa rừng
trái trục lộ. Có lúc hỏa châu soi khi ngừng quân, Tư Lệnh quan sát bên
đường một lúc rồi hỏi tôi, "Quân của Long đâu sao qua không thấy ?" Tôi
phải giải thích với ông rằng đơn vị tôi đã được tập luyện thành thói
quen, bất cứ lúc nào dừng quân, mỗi người lính tự động núp vào bụi cây,
gò đất, nếu không có gì ẩn nấp, họ phải ngồi thủ thế, súng trên tay sẵn
sàng tác xạ. Hỏa châu không đủ soi rõ đội hình của họ, nên Tư Lệnh không
thấy rõ họ. Nghe tôi giải thích có lý, Tướng gật đầu,"Well well, very
good ! "
Tới
một cái cầu nơi con suối sâu, nước chảy ào ào, đoàn quân qua cầu hàng
dọc, rồi chuyển sang hàng ngang tiến sâu về hướng bìa rừng, khi an ninh
đã sẵn sàng, tôi mới mời Tư Lệnh và Đại tá Hiếu rời vị trí ẩn nấp tiếp
tục lên đường. Chúng tôi đến giữa cầu thì nghe từ đầu dốc phiá sau,
tiếng chuông xe đạp "kính coong ! kính coong ! " Tiếng một người đàn bà
la lớn, "Ê các cha ! Xe tui không có thắng, tránh xa ! Tránh xa ! " Thế
là tụi tôi và Tư Lệnh đứng nép một bên cầu, cầu không có lan can, chỉ sợ
người đi xe đạp lao vào mình thì chắc mình sẽ rớt xuống sông trình diện
Hà Bá. Khi người đi xe lướt qua trước mặt, nhờ ánh hỏa châu soi, chúng
tôi thấy rõ mặt chị, một người đàn bà trung niên rất béo cưỡi chiếc xe
đàn ông loại để thồ đang lao vèo vèo xuống dốc. Chợt chiếc xe vướng cục
đá, chiếc xe tưng lên, trệch hướng và lao xuống dòng nước trắng xóa đang
réo ầm ầm dưới kia. Chúng tôi nghe tiếng thét của người đàn bà ấy ngân
dài trong thung lũng, "Á !...Á !...Á !..." rôì thì "ùm ! " Sau dư âm của
tiếng "ùm" cảnh vật lại trở về bình yên. Tôi rọi đèn xuống để quan sát
tình trạng người bị nạn thì chỉ thấy một khối đen trôi theo dòng nước
cuốn nhanh.
Đoàn quân vẫn
tiếp tục đi. Tư Lệnh vẫn vừa đi vừa đàm thoại với những cánh quân ở xa,
vì cùng tần số, tôi biết Trung tá Trần minh Công Trung đoàn 48/SĐ18BB,
Đại tá Ngô kỳ Dũng Trung đoàn 52/SĐ18BB đang ở nơi nào. Khi đến gần ngã
ba Xà Bang thì cánh quân của tôi đã bỏ đơn vị theo sau một đoạn hơi xa.
Trong bià rừng sâu tôi nghe tiếng súng báo động của địch. Những tiếng
"Tắc, tắc..., tắc" 2 ngắn , 1 dài, từ hướng Xuân Lộc tiến dần từng chặng
về hướng Nam. Rõ ràng địch đang âm mưu gì đây.
Đại
tá Hiếu thì cứ luôn bận tâm đến đứa con đi đoạn hậu, TĐ2/43, đơn vị này
bắt đầu rời núi Thị. Tôi rất khâm phục cái trầm tĩnh và sức chịu đựng
của người sĩ quan đàn anh này. Chân ông còn tháp một mảnh platinum vì
chiến thương, vậy mà ông cố theo bén gót những người lính miền núi mà
không để hé chút dấu hiệu mệt nhọc nào, quả là một sự cố gắng phi
thường.
Sắp đến ngã ba Xà
Bang, tôi thấy một cái xe Citroen dân sự bị bắn xẹp bánh, nằm giữa
đường. Khi tôi rọi đèn pin vào trong xe thì thấy 2 ghế trước bỏ trống,
trên ghế sau là xác một bà cụ già. Trên tay bà cụ còn ôm một cái cơi
trầu. Cái cơi trầu bung nắp, những lá trầu đẫm máu nằm rải rác trên nệm
xe. Tư Lệnh xúc động bùi ngùi nhìn cái xác người dân nằm đó, người dân
bỏ cuộc giữa đường dẫn tới chốn bình an. Tôi buồn rầu đóng cửa chiếc xe
Citroẽn lại. Tôi nhủ thầm,"Lỗi tại chúng tôi ! Lỗi tại chúng tôi ! " Tôi
lâm râm đôi lời cầu nguyện cho người nạn nhân chiến cuộc.
Khi
đến ngã ba Xà Bang, Tướng Tư Lệnh đã mệt lắm rồi, "Long ơi ! Có nên cho
anh em nghỉ một chút được không ?" Tôi từ chối, "Địch nó đã phát giác
ra cuộc rút quân của chúng ta rồi, chắc chắn có bôn tập truy kích. Vị
trí này rất nguy hiểm không dừng quân được đâu Thiếu tướng. Nhất là ban
đêm, đang đi mà ngừng lại nằm xuống là bị ngủ mê ngay, rất khó dậy nổi
mà đi tiếp. Gắng vài giờ nữa là tới chỗ an toàn. Cố lên đi Thiếu tướng !
" Tôi vừa nói vừa kéo tay Tư Lệnh tiến lên. Tôi huýt gíó bài "The
Longest Day" Tư Lệnh huýt gió theo, và chúng tôi tiếp tục bước đi. Hướng
Xuân Lộc vẫn ì ầm tiếng đại bác. Hỏa châu lập lòe phiá chân trời xa.
Vừa
lúc ấy trên máy liên lạc của Trung đoàn 43 BB, Thiếu tá Dư/ TĐT 3/43 BB
báo cáo rằng đoàn cơ giới của anh và Trung tá Nô Thiết đoàn 10 Kỵ Binh
đã gặp quân Dù án ngữ ngõ vào Bình Ba, họ đang chờ xác nhận của cấp trên
rồi mới cho phép quân Xuân Lộc tiến vào. Tướng Tư Lệnh thở phào nhẹ
nhõm, thế là chuyện link-up với quân bạn đã xong, bây giờ chỉ còn chuyện
theo dõi an nguy của đoàn hậu quân là Tiểu khu Long Khánh, Lữ đoàn 1 Dù
và Tiểu đoàn 2/43 BB. Chúng tôi dấn bước tiến nhanh về phiá trước, xa
xa vọng lại tiếng gà gáy sớm.
Khi
chúng tôi nhìn thấy ánh đèn dầu của xóm thôn le lói, cũng là lúc máy
truyền tin của Tiểu khu Long Khánh báo tin cho Tư Lệnh rõ rằng họ đang
chạm địch. Rồi đến tin tức Lữ đoàn Dù chạm địch. Những khẩu pháo Dù đặt
bên đường đầu xóm bắt đầu tác xạ từng tràng yểm trợ cho quân bạn. Mặt
trời hừng đông, một chiếc xe Jeep chạy đến đón Thiếu tướng Tư Lệnh và
tùy tùng của ông. Chiếc xe thứ hai đến đón Đại tá Hiếu, Trung tá Linh và
anh lính truyền tin Trung đoàn 43 BB. Tôi cho đơn vị đi sâu vào hướng
làng xã rồi dừng quân dưới một bụi tre làng. Tôi cho các đại đội bố
quân, cắt người canh gác. Đầu dựa ba lô mắt tôi nhíp lại rất nhanh.
Mặt
trời lên cao khỏi ngọn cây, tôi thức dậy bởi tiếng động cơ của một cái
trực thăng chỉ huy đáp bên căn cứ hỏa lực của Dù. Trên trực thăng có 3
người to lớn nhảy xuống, chiếc trực thăng bay đi. Không rõ những người
mới xuống máy bay là ai, nhưng sau khi trao đổi vài lời gì đó với những
pháo thủ Dù, họ quay sang tiến về phía TĐ 82 BĐQ. Khi họ đến gần thì tôi
nhận ra Trung tướng Nguyễn văn Toàn Tư Lệnh /QĐ3 , Trung úy Đức tùy
viên của ông và một anh lính mang máy truyền tin. Tôi ra lệnh cho Tiểu
đoàn tập họp 5 Đại đội dàn chào. Sau khi bắt tay tôi, Tướng Toàn đi một
vòng bắt tay từng người , câu nói của ông chỉ vắn tắt, "Good ! Giỏi !
Tiểu đoàn ni giỏi lắm ! " Quay qua tôi ông nói, "Thôi cho anh em giải
tán đi Long, ở đây sát nách căn cứ Mây Tào, tụi nó pháo bất cứ lúc nào,
nguy hiểm." Tôi cười, "Pleime tứ bề là địch, vậy mà Trung tướng xuống
thăm, tụi tôi vẫn đội hình đàng hoàng dàn chào, vậy thì ở đây có cái gì
đáng ngán mà bỏ lễ nghi quân cách?" Tướng cười, "Ừ, nhắc Pleime tức là
chú mi nhắc khéo ta còn nợ cái lon Trung tá của chú mi trận đó có phải
không ? Thôi về Long Bình kỳ này ta đền cho. Chịu chưa?" Rồi Trung tướng
Toàn bắt tay tôi từ giã, có xe chờ đưa ông vào Hội Đồng Xã Bình Ba họp
với Tướng Đảo.
Tướng Toàn
không lạ gì chúng tôi, chúng tôi cũng chẳng lạ gì Tướng Toàn. Trong thời
gian Tướng Nguyễn văn Toàn giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 2, ông thường
ghé thăm Pleime và Tiểu đoàn 82 BĐQ. Tướng Toàn đã chứng kiến khả năng
đơn vị này qua những trận đánh lẫy lừng, Căn cứ 711, Pleime, Đạo Trung.
Trong năm 1974 Tướng Toàn đã 2 lần gắn Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương
liễu lên hiệu kỳ Tiểu đoàn này. Sau đó ông thuyên chuyển về làm Tư lệnh
Quân khu 3. Tháng 4/ 1975 Quân đoàn 2 tan rã. Khi được tin báo rằng
Tiểu đoàn 82 BĐQ còn đang lặn lội trong rừng già Bảo Lộc, chính Tướng
Nguyễn văn Toàn đã ra lệnh cho không quân vùng 3 Chiến Thuật cứu Tiểu
đoàn này về Long Khánh chiều ngày 6/4/1975. Chiều hôm đó, tại sân bay
Long Khánh, Tướng cũng chỉ ngắn gọn một câu, "Good ! Giỏi ! Tiểu đoàn ni
giỏi lắm !" Chúng tôi đã đáp lại lời khen của ông bằng những chiếc T54
cháy bên rào trại 181 PB, và bằng những khẩu phòng không nước thép còn
xanh biếc được trưng bày ở sân bay Long Khánh.
Trưa
hôm đó tôi vào gặp Thiếu tướng Đảo trong Hội Đồng Xã Bình Ba, ông cho
biết Lữ đoàn 1 Dù đã thành công diệt xong những con chốt chặn và đang
trên đường tập trung vùng bắc xã Bình Ba. Riêng tin tức liên quan đến
Tiểu khu Long Khánh thì còn mù mờ. Trung tá Đình (K11) Tiểu khu Phó đã
tử trận vì 1 quả B 40 trúng ngay xe ông. Số phận Đại tá Phúc, Tỉnh
trưởng thì chưa rõ rệt, còn đang phối kiểm. TĐ 2/43 BB của Th/ tá Chế
thì đang bị xe tank CSBV truy lùng, phải lẩn trốn trong rừng cao su để
tìm đường rút về hướng Long Thành.
Trưa
đó Thiếu tướng Tư Lệnh Sư đoàn 18 cho tôi mượn xe và tài xế của ông để
tôi ra Bà Rịa tìm tin tức vợ con tôi. Tôi vào tất cả các trung tâm tị
nạn ở Bà Rịa để hỏi tên những nạn nhân chiến cuộc nhưng không có tin gì
về Ban Mê Thuột cả.
Khi tôi
về lại Hội Đồng Xã Bình Ba thì Đại tá Hiếu cho tôi biết địch đã bôn tập
truy kích đúng như dự đoán của tôi, chúng chặn đánh nặng nề quân bạn
ngay tại ngã ba Xà Bang, Trung tá Đình chết ở đây, Đại tá Phúc cũng bị
địch bắt ở địa điểm này.
Ngày
hôm đó Tổng Thống Thiệu từ chức trao quyền lại cho cụ Trần văn Hương.
Tiểu đoàn tôi rút vào nhà dân ngủ qua đêm. Sáng hôm sau chúng tôi rút về
Long Bình, đơn vị tôi xuất phái từ Sư đoàn 18 và được trả về cho Biệt
Động Quân. Từ ngày về Long Bình tôi mãi lo đi tìm tin tức vợ con, không
màng tới việc gặp Tướng Tư Lệnh Quân đoàn 3 để "đòi nợ" cái lon Trung
tá.
Ngày 28/4/1975 Tiểu
đoàn 82 BĐQ được lệnh vào vùng hành quân phía sau lưng trường Bộ Binh
Long Thành. Vì lệnh đến bất ngờ do đó 1/3 quân số đơn vị xuất trại về
không kịp giờ di chuyển nên Tiểu đoàn vào vùng với quân số 161 người,
thiếu vắng Thiếu úy Nguyễn văn Học, người sĩ quan Đại đội trưởng ưu tú
nhất của tôi. Tiểu đoàn có nhiệm vụ ngăn chặn địch từ hướng bắc tiến về,
đồng thời hỗ trợ cho một đơn vị bạn (?) tái chiếm trường Bộ Binh Long
Thành. Ngọn đồi chúng tôi phòng thủ là một cái tiền đồn cũ, có 3 cái lô
cốt nhỏ, không hầm hố địa đạo, không có hàng rào. Chúng tôi chỉ chất sơ
sài những viên đá tổ ong thành một chiến lũy cấp thời.
Tối
hôm đó từng đoàn xe vận tải của CSBV đã đổ hàng trăm bộ đội xuống khu
rừng cao su hướng bắc ngọn đồi trọc mà chúng tôi trấn giữ. Khoảng 8 giờ
tối đoàn xe bật đèn rọi đường cho bộ binh theo sau T54, dàn hàng ngang
xung phong biển người vào tuyến phòng ngự của TĐ/82 BĐQ. Ngay loạt đạn
100 ly mở màn, ba cái lô cốt đã bị bắn xập. Đại úy Hoàn và anh lính
truyền tin của ông là những người chết đầu tiên. Tôi bò sang hố của ông,
quấn tấm thân đầy máu của ông bằng tấm mền poncho line. Khi tôi di
chuyển sang kiểm soát vị trí phòng ngự của Thiếu úy Thủy, ĐĐT/ ĐĐ4 thì
bộ binh địch bắt đầu hô "xung phong ! " Chúng tôi phải dùng lựu đạn M26
để chặn bước tiến của giặc. Những trái M72 bắn xéo qua xéo lại từ đỉnh
đồi đã khiến cho chiến xa CSBV thoái lui. Dọc theo sườn đồi có bốn, năm
chiếc T54 bị hạ nằm bất động. Hai khẩu M60 bắn chéo cánh sẻ đã vô hiệu
hoá đợt sóng biển người đầu tiên của địch. Tôi gọi cho BCH Liên đoàn xin
không yểm và pháo yểm nhưng đơn xin yểm trợ không có ai trả lời.
Chợt
đèn xe vụt tắt, tiếng động cơ chiến xa rú lên. Khoảng năm sáu chiếc T54
tắt đèn và mở hết tốc lực chạy lên đồi. Chúng đảo một vòng chữ C trên
vị trí đóng quân của BĐQ, xích xe đè nát thân thể những người không kịp
tránh né rồi chạy đi. Sự kiện này thật là bất ngờ. Chúng tôi chưa kịp
phản ứng thì chiến xa địch đã chạy khuất xuống chân đồi. Ông thượng sĩ
Phạm Hoa , thường vụ Tiểu đoàn bị xích xe tank nghiến nát ngực chết cùng
với anh B1 Bích, người nấu cơm cho tôi. Khẩu cối 81 bị đè gãy càng bất
khiển dụng. Chuẩn úy Thiều, trung đội trưởng trung đội súng nặng ngồi ôm
xác thượng sĩ Hoa khóc rưng rức. Cả Tiểu đoàn đều biết Chuẩn úy Thiều
là ứng cử viên rể quý của "thượng sĩ tiá". Ái nữ của thượng sĩ thường vụ
đang là hoa khôi lớp 11 trường Trung học Minh Đức Pleiku.
Tôi
chưa kịp chấn chỉnh lại đội hình thì đạn 100 ly lại ầm ầm dội trên đỉnh
đồi, rồi đèn xe lại bật sáng soi đường bộ binh địch mở đợt biển người
tiếp theo. Lần này chúng tôi ngăn chúng từ xa bằng những quả lựu đạn M67
nổ chậm. Chúng tôi ném hết sức thẳng tay những quả M 67 xuống chân đồi.
Đèn xe soi rõ những thân hình cán binh Cộng Sản loạng choạng ngã chúi
xuống đất vì trúng mảnh lựu đạn. Hai khẩu M60 vẫn đan cánh sẻ. Những xác
người chết đè lên nhau, những tiếng thét đau đớn vang lên man rợ trong
đêm đen. Đèn xe lại tắt, tiếng chiến xa lại hú. Những nòng M72 đã sẵn
sàng phóng đạn. Hai khẩu M60 được nâng cao lên nhằm vào những xạ thủ
phòng không trên tank. Vài chiếc tank bị trúng đạn, nằm lại giữa triền
đồi, nhưng có 2 chiếc đã lọt được vào vị trí phòng ngự của BĐQ. Xạ thủ
12,8 ly trên xe đã chết, cái dây xích còn móc vào chân xạ thủ, treo tòn
ten cái xác xạ thủ đung đưa bên hông chiến xa. Trong khi chiếc tank
hướng đông đã xoay sang trái chạy xuống đồi thì chiếc thứ nhì còn đang
trở đầu ở khoảng đất giữa 2 cái lô cốt. Có một BĐQ đứng xổng lưng giữa
đồi chờ đợi cái xe tank đó. Chiếc xe nhằm anh lao tới, anh tránh sang
một bên nắm sợi xích treo cái xác bên hông xe đu lên pháo tháp. Một quả
lựu đạn ném gọn vào lòng xe, quả thứ 2, quả thứ 3... bùng! bùng ! bùng!
chiếc xe loạng choạng rồi ngừng trên đỉnh đồi. Người BĐQ nhảy xuống xe,
anh xả một băng M16 vào cái thây ma cán binh Cộng Sản, xạ thủ phòng
không. Hết đạn, anh thay băng đạn khác, nhả đạn tiếp tục, cái thây ma
toe tua từng mảnh. Rồi anh ngồi bệt xuống đất ôm mặt khóc rống lên.
Người ấy là Chuẩn úy Thiều. Tôi cứ để cho người sĩ quan trẻ khóc, khóc
cho vơi hận thù, cho vơi nỗi thương tâm.
Khoảng
nửa đêm, đèn xe lại rọi sáng, đạn 100 ly lại cày xới ngọn đồi không
tên. Tôi không thể nắm vững được con số tổn thất của quân bạn là bao
nhiêu. Chúng tôi đã xử dụng đến những ống M72 cuối cùng. Tôi gọi Thiếu
úy Thủy và cho lệnh anh đi gom góp lựu đạn của những người đã tử trận về
chia cho những người còn sống để đánh địch lần chót. Dưới ánh đèn xe,
những người lính xâm lăng trong đợt xung phong này hình như không còn
hăng hái như hai đợt trước; họ bắt đầu bò lên, nương theo những mô đá
nhấp nhô. Như vậy là địch đã mất tinh thần. Khi những quả lựu đạn vừa
bật mỏ vịt nổ "ùm" thì những anh bộ đội Cộng Sản cũng quay lưng chạy
thục mạng ngược về hướng rừng cao su. Thế là đèn pha vụt tắt. Dưới chân
đồi có tiếng rên la của lính CSBV bị thương. Hai khẩu M60 tưới đạn không
thương tiếc về hướng có những tiếng rên la đau đớn ấy.
Chừng
mười phút sau đoàn xe tank lại ào ạt tiến lên đồi lần thứ ba. Lần này
chúng theo đội hình hai hàng dọc, đâm thẳng lên đỉnh đồi rồi đồng loạt
pha đèn, chia hai ngả, trái, phải giày xéo vị trí trú quân của chúng
tôi. Trên thành xe không có tên xạ thủ phòng không nào! Những đứa nạp
đạn đại bác thì thò đầu lên thụp đầu xuống ném những trái thủ pháo xuống
những cái lều poncho và những hố cá nhân. Chúng tôi giờ này như những
con thú bị thương, miệng la "A ! ! !A ! ! ! A ! ! ! Biệt Động ! Sát ! "
tay bóp cò M16 nhắm những cái đầu địch nhấp nhô trên pháo tháp. Một trái
thủ pháo ném trúng lưng tôi, tôi chụp nó ném đi hướng khác, trái thủ
pháo nổ trên trời, thủ pháo Cộng Sản nổ chậm hơn lựu đạn M26 của ta, sát
thương cũng không bằng M26 của ta. Bây giờ chúng tôi đã mất trí, không
còn biết sợ chết nữa. Chúng tôi trở thành những tay giác đấu, gắng sức
leo lên lưng những con quái vật T54 để đánh quả lựu đạn sau cùng. Tôi đã
leo lên đến cái pháo tháp, tôi lần tay tìm trên sợi dây ba chạc, còn
một quả mini và một quả lân linh. Tay tôi chưa kịp mở chốt quả mini thì
một cái đầu địch nhô lên, nó đập một trái thủ pháo trên mũ sắt của tôi
rồi ra sức xô tôi xuống xe, hai con vật giằng co, quả mini tụt tay tôi
rơi mất. Tôi gỡ cái nón sắt ra, thẳng tay choảng vào đầu thằng giặc, đầu
nó ngúc ngoắc, rồi nó thụp vào lòng xe. Tôi đang cố gỡ trái lân tinh
móc trên dây ba chạc thì cái pháo tháp xoay tròn, tôi bị gạt rơi xuống
xe. Tôi lăn sang sau một ụ đá, chiếc xe đảo một vòng, xích sắt cày sâu
trên đất, cát bụi tưới rát mặt, tôi thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.
Chúng tôi giờ này như những con cọp bị thương, bị dồn vào đường cùng.
Chúng tôi chạy bộ đuổi theo đoàn chiến xa đang rút đi. Trong đám bụi mù,
một BĐQ đã bỏ được một trái M26 vào trong lòng chiếc T 54 hướng ĐĐ 4/
TĐ82 khiến nó quýnh quáng đâm vào hông một chiếc khác rồi lật nhào xuống
triền đồi bốc cháy. Chiếc xe bị đâm trúng thì đứt xích, từ trên xe, bốn
tên CSBV nhảy xuống, chúng chưa đứng vững thì năm sáu họng M16 đã nhả
hàng trăm viên đạn trên người chúng, bọn xâm lăng chết không kịp than
tiếng nào. Có vài BĐQ còn bám trên pháo tháp những chiếc tank đang đổ
dốc, họ cố chúi mũi M16 vào miệng pháo tháp bóp cò vô vọng. Pháo tháp
xoay tròn, họ rơi xuống đất. Chiếc xe chạy sau đè lên thân họ. Đoàn xe
biến dạng trong đêm.
Đêm ấy
tôi đã sống sót sau một trận chiến đấu đẫm máu và dã man nhất trong
cuộc đời mười năm trận mạc. Cái lều của tôi bẹp dí. Chiếc máy PRC 25 của
tôi cũng bẹp dí. Chiến xa địch đã rút xa, tôi còn đứng sững trên đỉnh
đồi nhìn theo chúng. Tay tôi còn cầm chắc quả lựu đạn lân tinh cuối
cùng, tiếc rẻ. Tôi bước rảo quanh ngọn đồi trọc đã xác xơ. Thuộc cấp của
tôi chết phơi thây trên miệng hố, la liệt đó đây. Không còn khẩu M72
nào, lựu đạn cũng cạn, pháo yểm không có, không yểm cũng không có. Tôi
quyết định cho đơn vị rút lui.
Một
trái mìn cóc nổ dưới chân Chuẩn úy Trung, người Sĩ quan trẻ theo sau
lưng tôi đi kiểm tra trận chiến, bàn chân trái của Trung toe ra như
miếng bã trầu đẫm máu. Tôi dìu Trung vào cái lều xập của Đại úy Hoàn,
cái xác Đại úy TĐ Phó đã bị pháo 100 ly xẻ thành từng mảnh, đầu văng một
nơi, tay chân văng một ngả. Tôi chụp cái máy PRC 25 của ông ra lệnh cho
Trung úy Trần văn Phưóc ĐĐT/ĐĐ3 cho người dìu Chuẩn úy Trung xuống đồi.
Rồi tuần tự, các Đại Đội 3,4,2,1 rút lui qua con suối dưới chân đồi.
Trên đồi, những anh hùng Pleime vừa tử trận, nằm phơi thân trên miệng hố
cá nhân. Không có tiếng rên la nào cả, tất cả đã ra đi êm ả, tất cả đã
ra đi kiêu hùng. Đêm 28/4/1975 máu chúng tôi, máu những người Biệt Động
còn tưới ướt đẫm một ngọn đồi không tên của quê hương.
Khi
chúng tôi xuống tới vườn cam dưới chân đồi thì xe tank địch ào ạt lên
đồi lần thứ tư. Những trái đạn 100 ly bắn dài, vượt qua đỉnh đồi, bay
trên đầu chúng tôi rồi rơi bên bờ suối. Đất đá bụi mù sau lưng chúng
tôi. Trong đêm tối, tôi cho quân lội nhanh qua bờ bên kia.
Đêm
28/4/1975, chợ chiều rồi. Không ai đáp ứng lời xin tác xạ yểm trợ.
Không ai đáp ứng lời tôi xin một trái hỏa châu. Qua suối, tôi cho đơn vị
dấu đội hình trong bãi miá. Từ đây, sáng hôm sau tôi nhìn lại bên kia
bờ, ngọn đồi trọc đẫm máu không một bóng người, những chiếc xe tank bị
phá hủy đêm qua đã được kéo đi. Không thấy bóng dáng quân thù, không
nghe tiếng động cơ chiến xa. Ngọn đồi nằm phơi dưới nắng mai im ắng. Vào
lúc này, bên trái cái lô cốt hướng bắc, cạnh một gốc bằng lăng, Đại úy
Hoàn TĐ Phó thoải mái nằm ngủ yên trên đó, đầu một nơi, thân một ngả. Có
cả chục người lính can trường yên nghỉ trên ngọn đồi này cùng ông. Gió
ngàn lồng lộng, hoa mía bay lồng lộng...
Sáng
29/4/1975 tôi nhìn về hướng căn cứ Long Bình, có vài cột khói đen bốc
lên từ nóc các nhà vòm. Người ta lại đốt gia tài, người ta lại rút đi
rồi. Người ta rút đi đâu? Tôi vẫn còn ở sát địch quân, vậy mà người ta
lại nỡ bỏ tôi mà đi, như ở Quảng Đức, Blao.
Kiểm
điểm lại quân số, cả Tiểu đoàn còn được 107 người. Tôi lấy cái PRC 25
rà những tần số quen. Tôi bắt được giọng nói của Hằng Minh và Đại tá
Hiếu, Sư đoàn 18 đang lún càng tại Trảng Bom. Khi biết điểm đứng của
tôi, Đại tá Hiếu hẹn gặp nhau tại cổng số 10 căn cứ Long Bình.
Muốn
đi về Long Bình tôi phải tạt qua ngã Hố Nai. Pháo 2 bên Quốc Cộng đều
tập trung trên vùng này. Vậy là, đội pháo ta đi. Chúng tôi đi như những
cái thân robot, đạn nổ đằng trước, đạn nổ đàng sau, đạn nổ bên hông, đạn
nổ chụp trên đầu. Chúng tôi không nghe gì cả, cứ thế mà đi, hướng Long
Bình, Okay ! Tiến lên ! Nơi ô cửa sổ 2 bên đường, có những họng súng AK
chiã vào đoàn quân đang di chuyển, chúng tôi không màng tới chúng, chúng
tôi cứ đi trong mưa pháo, pháo bạn từ hướng tây dội tới, pháo địch từ
hướng đông câu sang. Pháo cứ rơi, những người trúng đạn ngã xuống, những
người chưa trúng đạn cứ bước đi, những bước đi không hồn, đường phố đầy
hố đạn, đường phố đầy xác người...
Tôi
vào tới vòng rào căn cứ Long Bình vào lúc buổi chiều. Tôi là dân Vùng 2
không biết cái căn cứ này có bao nhiêu cổng, đi tìm cái cổng số 10 thì
biết nó ở đâu ? Tôi thấy một doanh trại có cái bảng Bộ Chỉ Huy / Liên
đoàn 32 BĐQ bỏ trống, vậy là thày trò tôi nhào vào đấy hạ trại. Đếm đầu
thuộc cấp trong sân, Tiểu đoàn 82 BĐQ giờ ấy còn 67 người. Như thế là
chẵn 40 người chết rải rác trên đoạn đường mưa pháo từ Hố Nai về tới
Long Bình. Cơm nước xong thì trời đã tối. Chúng tôi ngủ như chết. Đến 3
giờ sáng 30/4/ 1975 Trung úy Trâm Sĩ quan Truyền Tin Tiểu đoàn dựng tôi
dậy, "Có tin từ Liên đoàn ra lệnh cho chúng ta rút về Sài Gòn ! " Tôi uể
oải ngồi dậy, "Mẹ kiếp ! Về Sài Gòn ! Về Sài Gòn làm cái con mẹ gì đây !
" Xa cuối trời, hỏa châu le lói hướng Sài Gòn. Tôi ra lệnh cho Tiểu
đoàn ( ! ) chuẩn bị lên đường. Tới ngã ba Tam Hiệp chúng tôi gặp một bộ
phận của Sư đoàn 22 Bộ Binh, cùng là dân vùng 2 mất đất, thấy thương
nhau, tay dơ vẫy vẫy...
Cầu
xa lộ đã bị xe tank CSBV chận đường, chúng tôi rẽ vào thành phố Biên
Hòa. Thành phố vắng lạnh buồn thiu. Tôi cho đơn vị đi dọc theo đường xe
lửa, ngang qua những căn nhà tôle ổ chuột, một vài khuôn mặt buôn phấn
bán hương thò ra, ánh đèn vàng hiu hắt, đôi câu vọng cổ vang theo sau
lưng người chiến bại, "Anh ơi ! Bỏ gươm đao, bỏ mộng khanh tướng công
hầu mà về với em đi ! Chiến cuộc đã tàn rồi ! Anh ơi ! Anh ơi ! " Chúng
tôi cúi đầu lầm lũi mà đi. Chúng tôi đi qua cầu Đôi rồi đến cầu Hang,
tôi cho đơn vị dừng lại tấp vào những cái quán bỏ trống bên đường. Từng
đoàn quân xa, chiến xa có BĐQ và lính Dù tùng thiết đi qua mặt chúng
tôi, hướng về Sài Gòn. Khoảng 8 giờ sáng thì không còn chiếc xe nào đi
qua đó nữa. Lúc này trong ngôi chùa bên kia đường tàu, những nhà sư áo
vàng đang chất đồ đạc lên xe, xe hướng về Sài Gòn. Ít lâu sau xe của họ
lại quay trở lại chùa không hiểu vì lý do gì.
Tôi
cho quân tiếp tục lên đường. Khi còn cách Thủ Đức chừng vài cây số
người lính có radio loan tin Tổng Thống Dương văn Minh đang kêu gọi đầu
hàng. Tôi cho quân dừng lại, tạt vào một quán cà phê bên đường. Bà chủ
quán thấy tôi, ái ngại vặn nhỏ volume cái máy thu thanh. "Hết rồi ! Chị
cứ mở lớn cho tôi nghe với ! Hết rồi ! Chị ơi ! " Bà chủ quán mở radio
lớn hơn, và tôi nghe rõ từng lời kêu gọi của ông Tổng Thống, ông tân
Tổng Thống VNCH mà tôi không rõ ông ta đã lên ngôi lúc nào. Ngoài cổng
có cái xe Jeep từ hướng Sài Gòn chạy lên, một người trông dáng như Tư
Lệnh bước xuống hỏi anh BĐQ trước ngõ điều gì đó, rồi chiếc xe trở đầu
phóng đi. Khi tôi ra ngoài đường thì người lính nói có Thiếu tướng Đảo
hỏi tin Thiếu tá, vì anh ta mới từ phía sau đoàn quân di chuyển lên đây,
nên anh không rõ tôi ngồi trong quán nước, anh nói với Thiếu tướng rằng
anh không biết ông TĐT ở chỗ nào cả, xin Thiếu tướng chờ một lát để anh
ta đi kiếm, nhưng Thiếu tướng Đảo đã vội vã ra đi.
Ngày
10 tháng 5 năm 1975, tôi đang ngồi uống cà phê trước cửa nhà ông chiêm
tinh gia Trần Cẩm số 144 đường Vĩnh Viễn Chợ Lớn thì bên kia đường một
người tóc húi cao, vừa xuống yên chiếc xe đạp thể thao. Tôi gọi, "Tư
Lệnh ! Tư Lệnh ! " Tướng Đảo ngơ ngác một lúc rồi nhận ra tôi, ông bước
sang nhập bàn với tôi và chú Tr/úy Phước, con trai bác Cẩm. Tư Lệnh nói
hôm 30 tháng Tư ông có quay lại tìm tôi ở cái quán cà phê bên đường để
rủ tôi đem quân trốn về Vùng 4, nhưng ông không tìm thấy tôi nên dự định
không thành. Tôi nhìn vào mắt Tư Lệnh, an ủi ông, "Số mệnh mà Tư Lệnh
ơí !" Chúng tôi xiết tay nhau cảm thông. Vinh quang đành bỏ lại sau
lưng, đau lòng mà bỏ lại sau lưng. Trước mặt chúng tôi, những ngày sầu
thảm bắt đầu...
Tháng 3 năm
1979 tôi được đưa từ Trại Cải Tạo Phú Sơn 4, Thái Nguyên về Trại Nam Hà
A, Phủ Lý. Tôi là thành phần của toán 40 người có tiền tích trốn trại
nên bị giải về đây với cái còng trên tay. Khi chúng tôi nhập trại, những
người tù trẻ tuổi can tội Vượt Biên và Phục Quốc chào đón chúng tôi,
những kẻ mang còng, bằng những đợt vỗ tay hoan hô tưng bừng. Hôm sau có
người nhắn với tôi rằng Chủ Nhật tới Thiếu tướng Đảo chờ mời tôi ăn cơm ở
buồng số 1.
Trưa Chủ Nhật
đó tôi tới buồng 1 gặp người chỉ huy cũ, ông ở đội lao động cùng Tướng
Sang Tư Lệnh Sư đoàn 6 KQ, Đại tá Phúc BĐQ Tỉnh trưởng Long Khánh, và
Đại tá Khoái CHT/BĐQ/ QK1. Thời gian qua đã mấy năm không gặp, tôi rất
vui khi bắt tay Tư Lệnh. Bữa cơm ấy có tôi, Tư Lệnh, Tướng Sang và một
người quen của Tướng Sang. Tư Lệnh cầm tay tôi, giọng nói đầy hưng phấn,
"Những bạn trẻ như em đã làm qua tỉnh ngộ, xét lại mình. Từ nay qua sẽ
sống xứng đáng hơn !" Tôi chẳng hiểu ý Tư Lệnh nói gì, nhưng tôi tin có
gì đó chuyển biến trong tâm tư Tư Lệnh ( ? )
Những
buổi chiều sau đó, mỗi khi đi lao động về, chúng tôi đều tụ tập bên bờ
giếng trước buồng 7 để nghe Thiếu tướng Đảo, Đại tá Trí, Đại tá Quy, và
Đại tá Minh hòa nhạc. Họ là những nhạc sĩ siêu quần, tiếng đàn của họ có
thể ví với tiếng đàn của một siêu "Band", nhất là cây mandolin của Đại
tá Minh.
Chuyện tụ tập đàn
ca đến tai ban chỉ huy trại. Thằng "chèo" Lực xuống yêu cầu ban nhạc và
khán giả giải tán. (Ở trại Nam Hà A chúng tôi gọi những tên công an coi
tù là "chèo", hay "phường chèo"). Những người trẻ tuổi hô to đả đảo chèo
Lực. Lời qua tiếng lại, lũ chèo ùn ùn kéo xuống vây quanh đám đông.
Tướng Đảo lớn tiếng, "Anh không đủ tư cách nói chuyện với tôi. Anh về
gọi Trung tá Xuyên, trại trưởng xuống đây nói chuyện với tôi. " Trung tá
Xuyên không xuống, mà đoàn vệ binh thì càng lúc càng đông hơn. Chúng
lùa tù về buồng, khóa cửa lại, khóa cả cửa khu bên ngoài, không cho các
buồng giao thiệp với nhau. Sáng hôm sau một cái xe Molotova bít bùng đến
trại Nam Hà A đem Tướng Đảo và vài ông tướng khác đi mất biệt. Sau khi chia tay nhau ngày ấy ở trại cải tạo Nam Hà A, tôi và Tư Lệnh chưa có dịp gặp lại nhau.
Tam
nhân đồng hành trên Liên tỉnh lộ Long Khánh-Bà Rịa tháng Tư năm xưa thì
có 2 người bị giữ trong trại cải tạo 13 năm là tôi và Đại tá Hiếu,
người thứ ba là Thiếu tướng Đảo thì bị nhốt lâu hơn. Ông và 3 vị Tướng
nữa của QLVNCH là những người sau cùng của chế độ được tha khỏi gông cùm
17 năm sau khi Miền Nam xụp đổ.
Bây
giờ là tháng Tư. Ba mươi năm đã trôi qua. Bao nhiêu lần kỷ niệm xưa
hiện về. Tháng Tư nào cũng chở đầy nỗi buồn. "Hằng Minh đây Tiên Giao
gọi ! Tháng Tư lại về rồi Hằng Minh ơi !"
Vương Mộng Long
Seattle, 7/4/2005
0 comments:
Post a Comment