..
ĐÊM THẮP NẾN &TƯỞNG NIỆM 50 NĂM
QUỐC HẬN 30 THÁNG TƯ 1975

50 năm hay 100 năm vẫn nguyên vẹn giá trị Người Việt Cờ Vàng tại Anh Quốc  

Tuesday, 1 November 2016

VIẾT CHO NGÀY 01 THÁNG 11: MUÔN ĐỜI THÀNH KÍNH TRI ÂN TỔNG THỐNG ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA NGÔ ĐÌNH DIỆM




Đối với phần lớn người từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 thì sự kiện ngày 01 tháng 11 năm 1963 mãi mãi là một cơn ác mộng. Nhất là bản tin ngắn được phát đi vào khoảng 10 giờ sáng ngày 02 tháng 11, loan báo về cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu đã thực sự làm suy sụp tinh thần của hầu hết đồng bào di cư, nhất là đồng bào công giáo. Đối với hầu hết người Bắc di dân thì cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và sự cáo chung của nền Đệ Nhất Cộng Hòa là một hồi chuông báo tử cho nền cộng hòa ở miền Nam. Những giáo dân di cư, trong đó có cả ông nội tôi, đã mường tượng một ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài gòn, và một cuộc “di cư” nữa để lánh nạn cộng sản sẽ diễn ra sau đó.Suốt những ngày tiếp theo của tháng 11 kinh hoàng năm đó, gia đình ông bà chúng tôi cùng tất cả giáo dân, giành hầu hết thời gian đến nhà xứ để cầu nguyện cho Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu, những đại ân nhân đã giúp cho gia đình chúng tôi cùng hơn một triệu đồng bào khác thoát được hiểm họa cộng sản ở miền Bắc, bởi sau hai năm miền Bắc cải cách ruộng đất, với chính sách tố khổ, cộng sản đã mang đến bao nỗi tang thương và kinh hoàng cho những người dân xứ Bắc.



Chắc sẽ có nhiều người đặt vấn đề rằng với thời gian 300 ngày để di cư, thì cứ tùy nghi ra đi chứ cần gì phải có ai giúp đở? Sự thật hoàn toàn không đúng như vậy, vì chính quyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức chính quyền cộng sản của ông Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để ngăn chặn người ta di cư sang xứ tự do ở miền Nam, bằng nhiều hình thức đe dọa, bưng bít thông tin, kể cả khủng bố tinh thần và tuyên truyền xuyên tạc chính sách di cư cũng như xuyên tạc về chế độ Cộng Hòa để giảm thiểu số người di cư vào vùng tự do đến mức thấp nhất. Nhân ngày hiệp kỵ lần thứ 49 của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, 01 tháng 11 năm 2012, như một nén hương lòng, để ghi tạc công đức của Cụ Ngô, chúng tôi xin thuật lại hành trình lánh nạn cộng sản lần thứ nhất của gia đình chúng tôi, cũng như của hơn một triệu đồng bào miền Bắc, theo nhật ký hành trình của ông tôi, nguyên là một Chánh Tổng ở Văn Giang, Hải Hưng.

Sau khi quân đội pháp đầu hàng ở Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết giữa chính phủ của Hồ Chí Minh và chính phủ Cộng Hòa Pháp, chia đôi Việt Nam thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Từ vỹ tuyến 17 trở ra thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức là Cộng Sản Việt Nam. Từ Vĩ tuyến 17 đến Cà Mau thuộc Quốc Gia Việt Nam. Việc đất nước phải bị chia cắt làm hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau là một thảm họa của dân tộc Việt Nam, mà ít nhất đã một lần xãy ra trong lịch sử của đất nước khi Trịnh – Nguyễn Phân Tranh kéo dài hơn 100 năm từ 1627 cho đến năm 1789 khi Hoàng Đế Quang Trung kéo đại binh ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh vào khuya tối mùng 5 Tết Kỷ Dậu 1789 mới hoàn toàn chấm dứt 100 năm chiến tranh giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn mang bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân Việt giữa hai bờ sông Gianh. Có một điều khác biệt trong lần chia cắt đất nước lần này là giới tuyến không còn là sông Gianh mà là sông Bến Hải, và “Họa trung hữu phúc”, cũng “nhờ” Hồ Chí Minh ký hiệp ước chia cắt đất nước mà ít nhất là một nữa dân tộc Việt ở bờ nam sông Bến Hải đã không phải chịu sự thống trị sắt máu của cộng sản ngót 21 năm từ 1954 cho đến 1975.
Trại Tạm Cư Cho Người Bắc Mới Di Cư Vào Nam

Ít nhất cũng hơn 1 triệu người Bắc chúng tôi cũng tránh được họa cộng sản trong ngần ấy năm, nhờ vào Điều 14 phần (d) của Hiệp định Geneva cho phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu phía quản lý tạo điều kiện cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến, tức việc di cư sẽ chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm 1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng, điểm cuối cùng tập trung để di cư có 300 ngày để di cư.


Ngày 4/6/1954, trước khi Hiệp định Geneve được ký kết 6 tuần, Pháp đã ký một Hiệp định với Quốc gia Việt Nam, công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập. Theo đó chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ tự chịu trách nhiệm với những hiệp định quốc tế được ký bởi Pháp trước đó nhưng có liên quan tới họ, cũng như không còn bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này.


Ông Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn đại diện của Quốc gia Việt Nam nhất quyết không ký vào Hiệp định Genève vì không chấp nhận việc chia cắt Việt Nam và đại diện phái đoàn Quốc Gia Việt Nam ra một tuyên bố riêng: “... Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở."

Tuy vậy, lời phản kháng và đề nghị của đại diện Quốc gia Việt nam đã không được Hội nghị bàn tới. Ngoại trưởng Trần văn Đỗ từ Genève tuyên bố với các báo chí như sau: "Từ khi đến Genève, phái đoàn không bao giờ được Pháp hỏi về ý kiến về điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng tuyển cử. Tất cả nhưng vấn đề đó đều được thảo luận ngoài Hội nghị, thành ra phái đoàn Việt Nam không làm thế nào bầy tỏ được quan niệm của mình".


Tuy lên tiếng phản đối, nhưng sau khi hiệp định được kí kết, Chính phủ và quân đội Quốc Gia Việt Nam vẫn cùng quân Pháp tập kết về phía nam vĩ tuyến 17. Ngày 28 tháng 4 năm 1954, Uỷ Ban Bảo vệ Bắc Việt Nam của Quốc Gia Việt Nam tìm cách kêu gọi dân chúng di cư vào Nam để lánh nạn cộng sản. Một kế hoạch di cư được đặt ra và một Uỷ Ban Di Cư được thành lập. Ngày 30 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phát biểu cổ vũ dân chúng miền Bắc di cư vào miền Nam để lánh nạn cộng sản.
Một ngày sau khi Hiệp định được ký kết, tức ngày 22 Tháng Bảy, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rủ toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ quan điểm chống đối sự chia đôi đất nước.

Ngày 22 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: "Đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”., và khẳng định: “Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”. Đây là lần đầu tiên, Hồ Chí Minh bày tỏ lập trường của Quốc Tế Cộng Sản về chiến lược nhuộm đỏ cả Đông Dương, và quyết tâm dùng bạo lực cách mạng, dùng máu xương của đồng bào Việt Nam trong một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn để mở rộng quyền thống trị của Hồ Chí Minh và của chế độ cộng sản trên toàn bộ đất nước. Sở dĩ chúng tôi phải nêu lại những sự việc trên là để quý độc giả cũng như các lãnh đạo của cộng sản Việt Nam hiện nay thấy được rằng việc chia cắt đất nước là tội ác của Hồ Chí Minh và Thực dân Pháp, chứ hoàn toàn không có sự can dự của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam hay của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.



Sau đó, hậu thân của Quốc gia Việt Nam là Việt Nam Cộng hòa, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ đã từ chối tổ chức tuyển cử thống nhất Việt Nam. Năm 1956, Việt Nam Cộng Hòa được thành lập trên cơ sở Quốc Gia Việt Nam. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm tuyên bố: “Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ" nhưng "nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc”. Đây là một nhận định vô cùng sáng suốt của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bởi theo thể thức “đảng cứ dân bầu” của cộng sản, thì chắc chắc toàn thể cử tri miền Bắc buộc phải dồn phiếu cho Hồ Chí Minh, bởi họ biết rằng chỉ có làm như thế họ mới mong được yên phận, chứ nếu chọn lựa theo lương tri của họ, để bầu cử cho chính phủ Quốc Gia Tự Do, thì chắc chắn họ sẽ bị quy kết là Việt Gian, rồi cả gia đình, họ tộc sẽ bị đấu tố bị tru diệt. Trong khi đó ở miền Nam tự do, người ta có quyền lựa chọn ngay cả việc chống đối lại chính phủ mà không bao giờ sợ phải bị trả thù, không bao giờ bị đấu tố, thì thiếu gì những thành phần thân cộng hoặc những kẻ phá thối, sẳn sàng bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh để thủ tiêu nền Cộng Hòa còn non trẻ.


Trở lại với việc di cư vào Nam, gia đình chúng tôi cũng như hầu hết đồng bào Bắc phần vào thời gian đó, những vụ đấu tố trong cải cách ruộng đất bắt đầu từ năm 1953 là một ác mộng kinh hoàng, và cả những vụ khủng bố, thanh trừng của cộng sản đối với những sỹ phu yêu nước, những chính khách thuộc các đảng phái khác, luôn luôn là một nỗi ám ảnh về những cái chết oan nghiệt hãi hùng, cho nên ai cũng mong muốn được thoát khỏi ách thống trị của cộng sản, ai ai cũng muốn được vào miền Nam tự do, nhưng khốn nạn cho nhiều người Bắc chúng tôi, cơm chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc thì làm sao có đủ chi phí cho hành trình từ quê nhà về đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam, dù chuyến hành trình từ bắc vào Nam là hoàn toàn miễn phí. Cũng như vào những năm cao trào vượt biên đi tìm tự do sau năm 1975, cả dân tộc Việt Nam đều muốn bỏ nước ra đi, cả cái cột điện mà đi được thì nó cũng đã đi rồi, nhưng đâu phải ai cũng có đủ vàng đủ bạc để chi phí cho những chuyến vượt biên đi tìm tự do này. Cho nên, chỉ có khoảng hơn một triệu người có đủ điều kiện để vào Nam trong suốt 300 ngày di cư. Bên cạnh cái nghèo khó cái đói rách đã ngăn chặn người miền Bắc di cư, thì chính sách tuyên truyền, xuyên tạc và khủng bố của chính quyền cộng sản cũng là một cản trở lớn. Những truyền đơn, bích chương của Liên Hiệp Quốc in ấn, phát hành để tuyên truyền, khích lệ và hướng dẫn cho dân chúng về chính sách di cư đều bị chính quyền tịch thu, không đến được tay của dân chúng, ngoài ra các cán bộ thôn xã còn đến từng nhà xuyên tạc chính sách của Liên Hiệp Quốc, cũng như đe dọa rằng những ai có ý định di cư vào Nam tức là những người có tư tưởng theo Việt gian, chống lại đảng, chống lại chính phủ của cụ Hồ, sẽ bị trừng phạt đích đáng! Nhiều gia đình có điều kiện ra đi, nhưng vì những sự đe dọa đó, họ sợ rằng nếu không đi được mà phải trở về thì chắc chắn là không còn đường sống với chính quyền cộng sản, mà đành nhắm mắt đưa chân, quyết định ở lại chung sống với cộng sản.


Do vậy mà phần lớn những người di cư vào Nam năm 1954 là những người từng là nạn nhân của cộng sản, từng bị tịch thu tài sản, nhà cửa ruộng vườn, vì bị quy vào thành phần địa chủ, phú nông hay tư sản, tiểu tư sản phản động ở các thành phố, là những người hiểu rằng họ không thể nào sống dưới chế độ cộng sản được mà phải quyết tâm bỏ lại cửa nhà để ra đi. Tuy nhiên, chính quyền cộng sản lúc bấy giờ vu cáo rằng những người Công giáo Việt Nam đã bị chính quyền Pháp, Mỹ và thân Mỹ cưỡng bức hay "dụ dỗ di cư". Cộng sản Bắc Việt từng lu loa rằng “các Linh mục miền Bắc giục giã giáo dân vào Nam với lời giảng rằng Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam nên họ phải đi theo” Sic. Đó là lối tuyên truyền xuyên tạc lố bịch và trơ tráo của công sản mà thôi. Thực tế các Linh mục, các Cha xứ là người hiểu rỏ hơn dân chúng về chế độ cộng sản, và các vị linh mục cũng là người nắm được đầy đủ thông tin từ Liên Hiệp Quốc về chính sách di dân, nên đã giảng giải, giúp giáo dân hiểu đích xác về vấn đề, cũng như khích lệ họ vượt qua sự sợ hãi mà mạnh dạn lên đường đi về miền tự do đó là lý do tại sao trong số hơn một triệu người di cư vào Nam thì đã có đến 800.000 người công giáo. Đây là công lớn của các vị mục tử.


Trong khi đó, có những bằng chứng cho thấy rằng những tờ bích chương và tờ bướm do Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến in và trao cho hai bên phổ biến cho dân chúng biết về quyền tự do di tản thì không được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phân phát. Hơn nữa chính Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đã mở cuộc điều tra đơn khiếu nại của chính quyền cộng sản Bắc Việt của Hồ Chí Minh, khiếu nại về hành động cưỡng bách di cư. Trong số 25.000 người Uỷ hội tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị "cưỡng bách di cư" hay muốn trở về Bắc cả. Thế mới thấy rỏ được sự lường láo tráo trở của Hồ Chí Minh và cộng sản Việt Nam.


Theo số liệu thống kê Uỷ hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến thì ngoài những người kinh là nạn nhân của chế độ cộng sản hoặc giáo dân Công giáo thì trong số dân di cư vào Nam, còn có những người thuộc dân tộc thiểu số đã từng theo quân đội Pháp chống Việt Minh. Trong đó có khoảng 45.000 người Nùng vùng Móng Cái và 2.000 người Thái và Mèo từ Sơn La và Điện Biên cũng đã gồng gánh con cái, theo đường bộ đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam.

Ngày 9 tháng 8 năm 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam của tân Thủ tướng Ngô Đình Diệm lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn ở cấp một bộ trong nội các với ba nha đại diện, một ở miền Bắc, một ở miền Trung và một ở miền Nam để xúc tiến định cư. Thêm vào đó là Uỷ Ban Hỗ Trợ Định Cư, một tổ chức cứu trợ tư nhân giúp sức.


Đối với sinh viên đại học, Bộ Tư Lệnh Pháp dành 12 chuyến bay trong hai ngày 12 và 13 Tháng 8 đưa khoảng 1200 sinh viên miền Bắc vào Nam. Ước tính chỉ khoảng 1/3 ở lại còn 2/3 chọn di cư.

Ngày 04 tháng 8 năm 1954 cầu hàng không nối phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn trong Nam với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải Phòng ngoài Bắc được thiết lập. Nỗ lực đó được coi là cầu không vận dài nhất thế giới lúc bấy giờ (khoảng 1.200 km đường chim bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở nên đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút một là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2000 đến 4200 người di cư tới. Tổng kết là 4280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.


Ngoài ra, một hình ảnh quen thuộc với người dân tỵ nạn là "tàu há mồm" tiếng Anh là Landing Ship Tank viết tắt là LST- đón người ở gần bờ rồi chuyển ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc. Các tàu thủy vừa hạ xuống, hàng trăm người đã giành lên. Các tàu của Việt Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba Lan... giúp được 555.037 người "vô Nam". Ngoài ra cũng có tới 102.861 người tự tìm đường bộ hoặc ghe thuyền và phương tiện riêng để tự túc di cư vào Nam, lánh nạn cộng sản miền Bắc. Được sự trợ giúp tận tình của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, những người di cư chúng tôi rất sớm ổn định cuộc sống trên quê hương mới trên nhiều tỉnh thành ở miền Nam, với những tên gọi thân quen của những làng xã, phố thị bản quán của chúng tôi ở miền bắc như Bùi Chu, Phát Diệm hoặc Tân Hoá, Tân Thanh tức Thanh Hoá mới, Tân Phát tức Phát Diệm mới, Tân Hà tức Hà Nội mới… với mong muốn bảo lưu được các nét đẹp văn hoá của quê xưa trên vùng đất mới còn tiềm ẩn nỗi nhớ quê hương bản quán, của người những người vì lý tưởng tự do mà phải xa rời nơi chôn nhau cắt rốn.


Những tướng tá đã tham gia vụ đảo chánh ngày 01/11/1963 Biến cố 30 tháng Tư năm 1975, một lần nữa mang hiểm họa cộng sản đến cho toàn dân miền Nam, và cho cả người Bắc di cư chúng tôi, những người đã một lần phải lìa bỏ quê hương bản quán để lánh nạn cộng sản 21 năm về trước. Những tưởng chúng tôi đã vĩnh viễn thoát khỏi họa cộng sản rồi, nào ngờ đâu cái biến cố 01 tháng 11 năm 1963 lại báo hiệu cho chúng tôi về một hiểm họa cộng sản mới, và điều đó đã ứng nghiệm lời tiên liệu của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu phát biểu trong một cuộc họp của Tổng Đoàn Thanh Niên Dân Vệ tháng 10 năm 1962 tại Trung Tâm Huấn Luyện Thi Nghè, rằng “Nếu chính phủ này bị ngoại bang và tay sai lật đổ thì 12 năm sau (tức là năm 1975) Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị rơi vào tay cộng sản.”. Thế là hàng triệu người Việt lại phải ra đi tìm tự do mà không có bất cứ sự sắp đặt nào của quốc tế! Những người Bắc 54 của chúng tôi lại một lần nữa phải “di cư” để lánh nạn cộng sản thêm một lần nữa trong đời. Thật là ai oán! Sao chúng tôi lại phải hai lần tắm trên một dòng sông? Điểm khác biệt là lần này chúng tôi ra đi không được sự bảo trợ nào của quốc tế, mà chúng tôi phải trả chi phí cho chuyến đi bằng vàng, bằng máu và cả bằng sinh mạng của chúng tôi nữa. Bởi người Ta đã sát hại Cụ Diệm, vị ân nhân của chúng tôi rồi… còn ai nữa đâu để chở che cho chúng tôi trên bước đường gian nan đi lánh nạn cộng sản lần thứ hai này, trách sao chúng tôi không phải trả giá.


Nhiều người cho rằng chính những kẻ phản loạn và ăn cháo đái bát như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có, Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, Phạm Xuân Chiểu, Trần Văn Minh, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Lê Văn Kim… là những tội đồ của dân tộc, là những con chó phản chủ đã gián tiếp dâng miền Nam cho cộng sản để cả dân tộc phải lầm than… Riêng tôi là những người sinh sau đẻ muộn, chúng tôi không dám phán xét ai cả, mà chỉ tâm niệm rằng vì nghiệp chướng của dân tộc Việt Nam quá nặng nên đã đã trót sinh ra Hồ Chí Minh và những kẻ “ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” đó mà thôi. Vả lại, trên bước đường di tản nhọc nhằn rồi những năm tháng sống lưu vong nơi đất khách quê người vật vờ như cái bóng, những kẻ đó chắc cũng đã nhận ra tội ác và lầm lỗi của mình đối với một vị tổng thống anh minh, cũng như đối với đất nước, đối với dân tộc Việt Nam, khi vì tiền, bàn tay của họ đã vấy máu của Người đã ban phát cho họ những ân huệ, bổng lộc và chức tước... Đó là sự trừng phạt không nhỏ, và chắc chắn với những ray rức đó trong suốt những năm cuối đời trong kiếp sông lưu vong, khi nhắm mắt xuôi tay, trở về với đất, chắc chắn linh hồn của họ sẽ không bao giờ được siêu thoát. Nhất là lịch sử ngàn đời của dân tộc Việt sẽ phán xét họ.(NPH tô đậm và in nghiêng)


Tôi viết lên bài tâm bút này chỉ là để làm tròn ước nguyện của ông tôi trước khi qua đời cũng là xin được tỏ bày lòng tri ân của chúng tôi đối với NGÔ TỔNG THỐNG và Nền Để Nhất Cộng Hòa đã một lần giải thoát chúng tôi khỏi ách cộng sản vào năm 1954.
Như một nén hương lòng xin thành kính dâng lên Cụ với tấm lòng thành kính tri ân muôn đời muôn kiếp của con dân đất Việt.  

Nguyễn Thu Trâm 8406

 ******
THƯƠNG TIẾC CỐ TT NGÔ ĐÌNH DIỆM
 
Đốt nén nhang thơm tưởng nhớ Người
Kể từ cánh hạc khuất ngàn khơi
Năm ba Xuân tiếc vì sao vỡ
Bốn mốt Đông hờn hạt ngọc rơi *
Dân tộc cộng xô vào diệt chủng
Giang sơn đảng hiến để tồn ngôi
Niềm đau vong quốc khôn cùng ấy
Khiến kẻ thương quê mãi ngậm ngùi
 
Ngô Minh Hằng

Lũ chồng lũ trên nhà cầm quyền !!!

Lũ chồng lũ trên nhà cầm quyền !!!
Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 254 (01-11-2016)

          Trận lũ lụt ở miền Trung mới rồi (đặc biệt tại Quảng Bình và Hà Tĩnh) được gây ra bởi trời thì ít mà bởi người thì nhiều, chủ yếu do thằng thủy điện Hố Hô nằm giữa biên giới hai tỉnh đã xả lũ cuồng loạn giữa đêm khuya với lưu lượng 1.800 m3/giây trong 4 giờ đồng hồ. Tính đến ngày 17-10-2016, có 35 người chết, 4 người mất tích, khoảng 100.000 căn nhà bị ngập nặng, trâu bò mất mạng cả hàng ngàn con; thiệt hại tài sản, mùa màng vô kể.  Riêng tại làng chài Cảnh Dương, Quảng Bình, nước lũ tràn về đã khiến ít nhất 9 tàu bị lật úp, 19 tàu thuyền bạc tỷ khác bị cuốn trôi ra biển.
          Đó là hình ảnh của nhiều cơn lũ lụt đang ập xuống tập đoàn lãnh đạo chính trị và điều hành kinh tế Việt cộng mà phải nói là do chính tập đoàn ấy tự gây ra cho mình.
 
          1- Trước hết là cơn lũ tài chính, hay nói nôm na là lụt nợ. Theo Vietnamnet hôm 23-20, Chính phủ vừa có báo cáo gửi Quốc hội về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc năm 2015. Báo cáo cho hay, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước có tổng số nợ phải trả lên đến 1,5 triệu tỷ đồng, tăng 1% so với thực hiện năm 2014. Hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu bình quân năm 2015 là 1,23 lần. Thế nhưng vẫn có trường hợp cá biệt: 25 doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu lớn hơn 3 lần. Trong đó, đứng đầu là Tổng công ty Phát thanh truyền hình thông tin 32,84 lần, Tổng công ty Xăng dầu quân đội 15,41 lần, Tổng công ty Cơ khí xây dựng hơn 10 lần. Một số DNNN có số nợ vay từ các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng tương đối lớn. Đứng đầu là Tập đoàn Điện lực (134.014 tỷ đồng); Tập đoàn công nghiệp Than–Khoáng sản (42.743 tỷ); Tập đoàn Hóa chất (29.997 tỷ); Tập đoàn Viettel (16.313 tỷ); Vinalines (14.734 tỷ)… Dĩ nhiên toàn là nợ xấu, khó đòi, khó trả. Đang khi đó thì kinh tế ngày càng lụn bại, tài nguyên ngày càng cạn kiệt, dân sinh ngày càng cơ cực, và các doanh nghiệp ấy đang đứng bên bở vực phá sản.
          Ngoài ra, theo RFA, Việt Nam phải trả nợ Vốn vay Hỗ trợ Phát triển (gọi tắt là ODA) mỗi năm khoảng 1 tỷ đôla bao gồm cả gốc lẫn lãi. Đó là thông tin Cục quản lý nợ và tài chính đối ngoại thuộc Bộ Tài chính công bố chiều ngày 25 tháng 10 vừa qua. Phát biểu tại buổi họp báo, Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại cho biết từ năm 2005 đến 2015, tổng số vốn ODA mà Việt Nam đã ký kết khoảng 45 tỷ đôla, được dùng chủ yếu cho các lĩnh vực cân đối tài chính vĩ mô, phát triển hạ tầng, y tế, giáo dục, biến đổi khí hậu và nông nghiệp. Nhưng do điều hành kinh tế, quản lý tài chánh, sử dụng ngoại tệ vừa ngu dốt vừa tham lam, ăn và phá nhiều hơn làm, nay nhà nước phải thường xuyên vay nợ mới để trả nợ cũ. Dĩ nhiên, tất cả gánh nặng nợ nần nói trên đè xuống trên đầu trên cổ nhân dân từ đời cha đến đời con, đời ông đến đời cháu. Cơn lũ tài chính, nợ nần ấy cuốn trôi tương lai của nhiều thế hệ, và dĩ nhiên cũng sẽ cuốn phăng cái chế độ thối nát này.
 
          2- Thứ đến là cơn lũ pháp lý, hay nói nôm na là cơn lụt khiếu kiện. Như chúng ta đã biết, sau khi xảy ra thảm họa môi trường biển từ đầu tháng 4-2016 do tập đoàn Formosa và các công ty liên hệ gây nên, toàn dân đã mong chờ nhà cầm quyền thi hành trọn chức năng, thực hiện đúng pháp luật đối với các thủ phạm và đồng phạm, cũng như đối với các nạn nhân (những khu vực sinh thái và những giới làm kinh tế biển). Thế nhưng, nhận món tiền bố thí gọi là bồi thường của Formosa xong, Việt cộng tiếp tục duy trì sự hiện diện của nó, chẳng hề cải tạo môi trường biển, đưa thông tin sai lạc đầu độc dư luận, trừng phạt những tiếng nói đòi hỏi sự thật, đàn áp những công dân xuống đường bảo vệ sinh thái, bồi thường cho các nạn nhân cách bất cập, lại còn muốn ngư dân thôi làm nghề biển (để trao Đông hải cho Tàu cộng). Thái độ phản dân hại nước đó đã khiến đồng bào phản ứng bằng cách tiến hành trận chiến pháp lý, khởi kiện thủ phạm.
          Ngày 22-09-2016, gần 1.100 hộ gia đình thuộc giáo xứ Đông Yên, xã Kỳ Lợi, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh –dưới sự hướng dẫn của linh mục Trần Đình Lai– đã gửi lên Quốc hội và Chính phủ đơn yêu cầu bồi thường cho họ hơn 2.000 tỷ, với đòi hỏi phúc đáp sau 15 hôm. Ngày 26-09-2016, hơn 600 ngư dân thuộc giáo xứ Phú Yên, xã An Hòa, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An –dưới sự hướng dẫn của linh mục Đặng Hữu Nam– đã đến tòa án thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh để nộp 506 hồ sơ khiếu kiện Formosa, đòi hỏi bồi thường 56 tỷ. Ngày 03-10-2016, 619 hộ ngư dân tại Quỳnh Lưu, đa phần thuộc giáo xứ Song Ngọc –dưới sự hướng dẫn của linh mục Nguyễn Đình Thục– cũng đã gửi lên Quốc hội và Chính phủ đơn yêu cầu bồi thường cho họ 446 tỷ, cũng với đòi hỏi phúc đáp sau 15 hôm. Thế nhưng nhà cầm quyền –do sợ hãi trước trận chiến pháp lý này– tỏ ra có thái độ thù nghịch. Đã gấp đôi thời hạn 15 ngày mà Chính phủ và Quốc hội chẳng hề phúc đáp đơn yêu cầu bồi thường của hai giáo xứ Đông Yên và Song Ngọc. Rõ ràng là não trạng khinh dân như thường thấy. Chưa hết, ngày 8 tháng 10, tòa án nhân thị xã Kỳ Anh đã trả lại toàn bộ 506 đơn khởi kiện Công ty Formosa với lý do “không đưa ra được tài liệu chứng minh về những thiệt hại thực tế” và “chính phủ đã ra Quyết định bồi thường hôm 29-09 rồi”.
          Hành vi trái luật này đã khiến cho ngày 18-10-2016, dưới sự hướng dẫn của linh mục Đặng Hữu Nam, 1000 ngư dân Quỳnh Lưu dự tính đi xe hơi vào tòa án Kỳ Anh để nộp đơn khiếu nại và nộp thêm 100 hồ sơ khiếu kiện. Thế là bộ công an, ban tuyên giáo trung ương và nhà cầm quyền Nghệ An đã ra tay: đe dọa các chủ xe được thuê mướn, áp lực lên tòa Giám mục Vinh để giảm số người đi khiếu kiện từ 1000 xuống 100. Nhưng rồi với 40 người, đoàn khiếu kiện cũng bị hàng ngàn công an sắc phục, an ninh thường phục, côn đồ đầu gấu thô bạo ngăn cản bằng rải đinh, chặn xe, đánh đập, hăm dọa đoạt mạng, khiến dự tính nộp đơn khiếu nại và nộp thêm đơn khiếu kiện bất thành. Trong cùng ngày, linh mục Nguyễn Đình Thục cũng đã bị công an côn đồ ngang nhiên gây khó rồi cấm đi vào Hương Khê, Hà Tĩnh để cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt, vì nghi ngờ lm Thục đi hỗ trợ cho Lm Nam. Toa rập với nhau, ngày 21-10, UBND thị xã Kỳ Anh đã ngang ngược ra công văn đề nghị Quỳnh Lưu cấm cư dân đi khiếu nại vì hôm 18-10 là “hết hạn gửi đơn” rồi.
          Nhưng những hành vi bẩn thỉu hèn hạ, vô luật pháp và thất nhân tâm đó có ngăn chặn được cơn lũ khiếu kiện, trận chiến pháp lý của ngư dân miền Trung chăng? Vì theo tin cho biết, hàng chục ngàn lá đơn đã được chuẩn bị, và các nguyên đơn đã thề quyết sẽ chiến đấu tới cùng. Đang khi đó nguồn tiền ủng hộ từ hải ngoại nghe nói cũng đang tuôn về cuồn cuộn.
          3- Ba là cơn lũ nhân tâm, nay nói nôm na là cơn lụt của lòng căm phẫn. Trước hết là sự căm phẫn của các tôn giáo. Trong khóa họp từ ngày 20-10, Quốc hội có thể sẽ phê chuẩn Dự luật Tín ngưỡng Tôn giáo đã được phác thảo nhiều lần từ đầu năm 2015 tới nay. Luật này đúc kết kinh nghiệm đối phó với các Giáo hội kể từ Pháp lệnh Tôn giáo 2004, nâng cao mức độ cưỡng bức của chính sách đàn áp tôn giáo từ nhà cầm quyền, và đáp ứng mưu đồ kiểm soát chặt hơn đối với các Giáo hội đang ngày càng tích cực đòi hỏi các quyền tự do cho mình và cho dân. Chính vì thế, Hội đồng Liên tôn đã thẳng thắn hoàn toàn bác bỏ Luật đó, với nhiều lý do. Như chế độ hiện thời là chế độ vô thần đấu tranh và độc tài toàn trị, quyết tâm xóa bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của Tôn giáo trên xã hội khi hoàn toàn bất lực xóa bỏ sự hiện hữu của Tôn giáo trong quốc gia; kiểm soát, lũng đoạn để công cụ hóa các thế lực tinh thần này. Như mọi luật lệ xuất phát từ chế độ độc tài cộng sản đều không ngoài mục đích kiểm soát, lũng đoạn và công cụ hóa nói trên; nên cho dù có đưa ra cho nhân dân góp ý, nhà cầm quyền rốt cuộc vẫn biên soạn Luật tôn giáo theo ý muốn độc đoán của họ và nhằm mục đích tối hậu của họ: củng cố chế độ độc tài. Như mọi văn kiện pháp lý của nhà cầm quyền CSVN từ xưa tới nay về Tôn giáo, đều không ngoài mục đích dùng bạo lực hành chánh -kết hợp với bạo lực vũ khí- để cướp đoạt mọi tài sản tinh thần (các quyền tự do) và tài sản vật chất (đất đai, cơ sở) của các Giáo hội, để sách nhiễu, bắt bớ, cầm tù, thậm chí thủ tiêu nhiều chức sắc và tín đồ can đảm, nhằm làm cho các Thực thể Tinh thần này bị tê liệt hoạt động, bị cản trở sứ mạng, thậm chí bị biến đổi bản chất. Hậu quả là xã hội ngày càng tràn ngập bạo hành gian dối, ngày càng suy đồi về văn hóa đạo đức, kéo theo suy đồi các lãnh vực khác nữa.
          Cơn lũ của lòng căm phẫn còn phát xuất từ nhân dân, đặc biệt qua trận lụt mới rồi. Trước hết vì thái độ thất nhân tâm và vô trách nhiệm của hàng lãnh đạo. Khi tang thương đang xảy đến, Thủ tướng chỉ ra chỉ thị qua quít cho cấp dưới chống lũ, rồi tiếp tục ngồi trong phòng lạnh nhắn tin ủng hộ người nghèo; Chủ tịch Quốc hội thì chưng diện lòe loẹt, mặt tươi hơn hớn đi dự khai mạc Festival áo dài tại Hà Nội; Chủ tịch nước bận đi thăm lính, còn Tổng bí thư bận họp đảng kêu gọi đảng viên cứu đảng. Đập thủy điện Hố Hô phạm tội giết dân rõ mười mươi, thế mà các kẻ hữu trách từ trên xuống cố chấp bênh vực nhau, nào “đúng quy trình”, nào “dân giữ được mạng là tốt lắm rồi”, nào “chấp nhận được”. Bên cạnh đó, trước việc nhân dân thể hiện tinh thần “lá rách đùm lá nát”, trao tiền quà cho các tôn giáo, tổ chức xã hội dân sự và nghệ sĩ biểu diễn, thẳng thừng tuyên bố “ngu gì giao quà cho bọn cầm quyền tham nhũng, bọn mặt trận giẻ rách”, Ban tuyên giáo Việt cộng vẫn khốn nạn văng lời: “Các bạn cần tỉnh táo, không giúp đỡ tiền bạc cho những kẻ đang đánh bóng tên tuổi, những hội nhóm bất minh, thường xuyên gây rối loạn và giờ ra vẻ “giúp đỡ”… Giúp được bằng sức mình thì giúp, không thì quyên góp vào các tổ chức chính thống như Hội chữ thập đỏ, các cơ quan báo chí, quân đội đang túc trực ngày đêm tại vùng rốn lũ”. Túc trực để cứu dân hay để khủng bố các nhóm thiện nguyện độc lập? để cướp lại 400/500 ngàn dân nghèo vừa được biếu? để chuyển gạo cứu trợ vào kho tư thương? Con phẫn nộ này cũng bùng lên nhân vụ một blogger nhiệt thành đấu tranh chống Formosa là Mẹ Nấm bị tống vào tù.
          Công luận cho rằng trong cơn lụt lịch sử vừa qua tại Quảng Bình và Hà Tĩnh, thiên tai một mà nhân tai mười. Nước lũ từ trời thì ít mà từ đập thủy điện xả vô trách nhiệm, bất chấp hậu quả cho dân thì nhiều. Các đập này, dày đặc khắp miền Trung, từ lâu nay là những hung thần, chuyên thả “bom nước” tàn hại không thể tưởng. Nhưng nhân tai quan trọng nhất chính là một nhà cầm quyền hoạt động thiếu hiệu quả, không đủ tầm cũng chẳng đủ tâm để lo cho dân cho nước. Nhưng CS thì làm gì có sức hay có chí lo cho nước cho dân? Nên mong rằng sẽ sớm có những cơn lũ cuồng nộ từ dân sẽ quét sạch nó vĩnh viễn. 
  
          BAN BIÊN TẬP.


Tội đồ Dương Văn Minh kẻ đã sụp đổ "VNCH" 12 năm, tròn một giáp 1963 - 1975

Kẻ đã ra lệnh giết tổng thống Ngô Đình Diệm


alt
Tác giả bài viết dưới đây là Ông Đặng Kim Thu, cựu SVSQ/TVBDL/K19, cựu tùy viên của Đại Tướng Cao Văn Viên, cựu quận trưởng quận Chợ Gạo.

Tóm tắt, vụ 1-11-1963 hoàn toàn do Mỹ chỉ đạo. Nhưng Mỹ không chủ trương giết anh em ông Diệm-Nhu mà chính là tướng Dương Văn Minh.

Bigminh1Bigminh2 
Từ đơn vị tác chiến (tiểu đòan 41 BĐQ), tôi được lệnh về làm Sĩ quan Tuỳ Viên cho Đại Tướng Cao văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng vào cuối năm 1966. Vì tôi không có nhà ở Sài Gòn nên ông bà Đại Tướng cho tôi tạm ở trong tư dinh thời gian đầu .

Với công việc hoàn toàn mới lạ, nhiều bỡ ngỡ, cộng thêm sự gò bó ở trong dinh của Đại Tướng, mới đầu tôi hơi nản lòng, nhưng nhờ sự giúp đỡ, chỉ dẫn tận tình của người tiền nhiệm của tôi là Quách tinh Cần K20//TVBQGĐL, và sự cởi mở của ông bà Đại Tướng nên tôi cảm thấy an tâm đôi chút.

Những ngày đầu về ở trong dinh của Đại Tướng, cứ sau bữa cơm tối ông xuống phòng tùy viên chỉ rõ cách sinh hoạt trong nhà, cách tiếp nhận đìện thoại từ bên ngoài gọi vào, an ninh vòng ngoài, an ninh vòng trong, và v.v…

Ông bảo tôi:
– Thông thường các tướng lãnh khác tôi đều tiếp họ tại văn phòng, ngoài giờ làm việc tôi không tiếp ai ở nhà riêng cả, nếu có vị tuớng tá nào muốn gặp tôi ngoài giờ làm việc, mà không có hẹn, chú không được mở cổng, mà phải báo tôi trước để tôi quyết định có tiếp họ hay không, đặc biệt chú phải quan sát, xem vị tướng đó có đem theo lính hộ tống hay không. Trong mọi trường hợp chú đừng cho lính hộ tống vào bên trong dinh, cổng phải luôn luôn khóa chốt . Nhưng đặc biệt có hai vị cựu tướng lãnh khi tới nhà muốn gặp tôi bất cứ lúc nào, chú cũng mở cổng mời vào phòng khách rồi báo tôi ra tiếp, không cần phải hỏi tôi trước, hai vị đó là trung tướng Trần văn Đôn và trung tướng Tôn thất Đính. Mà chú có bao giờ thấy hai vị tướng đó chưa?

Tôi trả lời “dạ chỉ biết qua hình ảnh trên báo chí”. Ông bảo: “Cũng tốt, vậy thi ráng nhận diện nếu hai vị đó tới.”

Xong ông nhìn tôi thấy có vẻ như tôi muốn tìm hiểu lý do nào mà hai ông cựu tướng này được đại tướng ưu ái như vậy.? Ông nói thêm:”chú muốn biết tại sao tôi đối xử với hai ông đó đặc biệt như thế chứ gì, được rồi để mai tôi kể cho chú nghe vì mai là chúa nhật có nhiều giờ rảnh hơn

Hôm sau ăn cơm trưa xong ông xuống phòng tôi và bắt đầu kể:
“Ngày 1 tháng 11 năm 1963 là ngày Lễ Các Thánh, quân nhân, công chức nghỉ buổi sáng khoảng 10 giờ sáng tôi được điện thoại của chánh văn phòng thiếu tướng Khiêm mời vào Bộ Tổng Tham Mưu họp ở phòng họp số 1, và phải có mặt trước 1 giờ. Tôi tới lúc 1 giờ kém 10 phút, thấy có đông các đơn vị trưởng sẵn đó rồi, nhìn mặt toàn là các sĩ quan thân tín của ông Diệm. Đúng 1 giờ. hai qưân cảnh ở ngoài đóng cửa phòng họp và khoá lại, mọi người trong phòng ngơ ngác nhìn nhau, đại tá Lê Quang Tung nói lớn:
– Họp hành khỉ mẹ gì, ai chủ toạ phiên họp sao chưa tới mà họ khoá cửa nhốt mình rồi, chuyện gì đây!
Vài phút sau đó có tiếng mở cửa, đại úy Nhung cận vệ của trung tướng Dương văn Minh đứng ngoài cửa nới với vào:
– Mời đại tá Lê quang Tung – Lực Lượng Đặc Biệt và đại tá Cao văn Viên Nhẩy Dù lên lầu gặp trung tướng Dương văn Minh.

Vì đại tá Tung ngồi gần cửa nên bước ra trước, tôi ở trong xa cửa hơn nên đi ra sau. Khi tôi ra khỏi phòng họp thì nhìn thấy đại tá Tung đã bị đại úy Nhung còng tay dẫn xuống xe, còn tôi cũng bị 1 sĩ quan khác còng nhưng mới vừa bị còng 1 tay thì tình cờ thiếu tướng Tôn thất Đính trên lầu đi xuống chợt thấy vậy, ông bảo tháo còng tôi ra, rồi sĩ quan đó cùng tướng Đính dẫn tôi lên lầu gặp trung tướng Minh .

Tướng Minh nói:
– Hôm nay “moi” và một số các tướng lãnh đảo chánh ông Diệm “toi” nghĩ sao?
Tôi trả lời:
– Chuyện quan trọng như vậy mà tới giờ này trung tướng mới cho tôi biết thì tôi đâu có quyết định được gì.
Lúc đó trung uý Trương ( hay Trần) Tự Lập sĩ quan tùy viên của trung tướng Minh lăm le khẩu súng carbine chĩa vào lưng tôi như sẵn sàng bắn tôi. anh ta hỏi tôi :
– Đại tá có theo Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng không?
Tôi đáp:
– Tinh thần của quân nhân thuộc binh chủng nhẩy dù không trả lời trước áp lực.
Thiếu tướng Đính thấy vậy bảo tên trung úy Lập đừng hỗn với cấp trên, rồi tướng Đính dẫn tôi về lại phòng sô 1 đóng cửa lại.

Vài vị sĩ quan đang bị nhốt chung trong phòng tới hỏi tôi chuyện gì vậy? Tôi nói họ đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Có người hỏi: “còn đại tá Tung đâu? tôi nói “bị còng dẫn đi chỗ khác rồi”.

Khoảng 15 phút sau tôi lại bị dẫn lên gặp Trung tướng Minh lần nữa, lần này Trung tướng Minh nói với tôi:
– Có 1 tiểu đoàn nhẩy dù theo “Chiến Đoàn Vạn Kiếp” của trung tá Vĩnh Lộc từ Bà Rịa về tới Sài Gòn, nhưng không chịu tấn công vào Dinh Gia Long, đòi phải được liên lạc trực tiếp với “toi”, vậy nếu “toi” chịu làm 2 việc như sau: Thứ nhất tuyên bố theo Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, thứ hai ra lệnh cho tiểu đoàn nhẩy dù ở Bà Rịa về tấn công vào Dinh Gia Long, khi thành công “moi” gắn lon thiếu tướng cho “toi” liền.

Tôi trả lời rằng chuyện của trung tướng làm, tôi không chống đối, nhưng bảo tôi phản lai “thầy” tôi thì tôi không làm, trung tướng thông cảm cho tôi (lời người viết: xin nói rõ thêm, trước khi chỉ huy lực lượng nhẩy dù, đại tá Viên là chánh Võ Phòng rồi Tham Mưu Trưởng Biệt Bộ Phủ Tổng Thống);

Tôi được dẫn trả lại phòng họp số 1, các vị sĩ quan trong phòng lại hỏi, tôi trả lời chưa hết thì chánh văn phòng của thiếu tướng Khiêm xuống dẫn tôi lên văn phòng giữ riêng tôi ở đó.

Sau khi đảo chánh thành công tôi được cho về nhà, rồi hằng ngày tôi phải lên Bộ Tổng Tham Mưu chờ lệnh . Độ 5,6 ngày sau trung tướng Khiêm “lên trung tướng ngày 2 tháng 11 năm 1963” tự ý quyết định cho tôi trở về chỉ huy Lữ đoàn nhẩy dù như cũ, còn các vị sĩ quan bị nhốt chung với tôi đa số bị giải ngũ hoặc bị hạ tầng công tác.

Rồi sau đó không lâu tôi được trung tướng Đôn cho biết: sau khi tôi từ chối lời yêu cầu của trung tướng Minh thì trung tướng Minh bàn với trung tướng Đôn định đưa tôi theo số phận của đại tá Lê quang Tung, nhưng trung tướng Đôn không đồng ý và nói rằng:

– Trước khi tiến hành cuộc “cách mạng” anh” (ông Minh) có hứa với chúng tôi hạn chế tối đa vìệc gây đổ máu các sĩ quan cấp tá không ủng hộ chúng ta, anh đã cho giết đại tá Hồ tấn Quyền, giết đại tá Lê quang Tung, bây giờ anh muốn giết luôn đại tá Viên nữa sao? Hơn nữa dù “lui” không hợp tác với mình nhưng “lui” đâu có chống mình mà giết “lui”.

Tôi nghĩ dường như tướng Khiêm cũng biết ý định đó của tướng Minh nên mới ra lệnh đem tôi lên văn phòng của ông giao cho chánh văn phòng là đại úy Phạm Bá Hoa giữ riêng tôi ơ đó, rồi ông Khiêm bảo:”Ai muốn kêu đại tá Viên đi đâu phải có lệnh của tôi mới cho đi”
Đấy là 3 người ơn cứu tử tôi đó !”

VAI TRÒ CỦA ĐẠI TÁ CAO VĂN VIÊN
TRONG CUỘC CHỈNH LÝ NGÀY 30-1-1964


Một lần tôi theo Đại Tướng Viên ra Đà Nẵng thăm các đơn vị thuộc Quân Đoàn I. Tối lại, ngủ ở Tòa Thị Chính Đà Nẵng, lúc đó trung tá Lê chí Cường gốc nhẩy dù làm Thị Trưởng.

Đầu hôm thời tiết còn nóng, thầy trò tôi chưa ngủ được nên Đại Tưóng kể chuyện Đảo Chánh, chỉnh lý cho tôi nghe. Giờ đây thì chuyện dù đã xa xưa, nhưng thiết tưởng còn nhiều người chưa biết rõ, hoặc biết không chính xác, không đầy đủ, nên tôi mạo muội thuật lại những gì Đại Tá Viên kể cho tôi nghe với ước mong giúp quí vị độc giả đánh giá được 1 phần sự thực của 1 giai đoạn của Đất Nước.
Nguyên nhân đưa đến cuộc chỉnh lý 30-1-1964

Đại Tướng Viên kể rằng :

“ Trong nội bộ các tướng lãnh: sau ngày Đảo Chánh 1-11-1963 thành công, trong hàng tướng lãnh trụ cột của cuộc đảo chánh có những bất đồng ý kiến về việc thành lập chính phủ mới, về việc sắp xếp nhân sự và quan trọng hơn là sự tranh công tranh quyền giữa các tướng với nhau, cho nên dẫn tới sự chia rẽ.
Ngoài ra trung tướng Minh ỷ quyền là chủ tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng nên tỏ ra độc đoán trong mọi quyết định.

“ Chẳng hạn như ông Minh muốn đưa ông Nguyễn ngọc Thơ nguyên Phó Tổng Thống của ông Ngô Đình Diệm ra làm thủ tướng, nhìều tướng lãnh không đồng ý, vì cho rằng nguyên Phó Tổng Thống của chính phủ vừa bị lật đổ ra làm thủ tướng của chính phủ mới thì thật là vô lý, nhưng ông Minh cứ làm theo ý ông.

“Về phía Tòa Đại Sứ Mỹ thì ông Đăi Sứ đề nghị với ông Minh nên cử ông Trần quốc Bửu Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công ra lập chính phủ với lý do ông Bửu có nhiều uy tín trong giới bình dân và hiện trong tay ông Bửu có hơn 20 ngàn doàn viên của Tổng Liên Đoàn Lao dộng là lực lượng hùng hậu sẽ hỗ trợ cho chính phủ. Ông Dương văn Minh chẳng những không nghe mà còn ra lệnh cho thìếu tướng Đỗ Mậu bắt giam ông Trần quốc Bửu với lý do rất mơ hồ.

Thêm nữa, ông Minh lại gọi 2 người đã rời khỏi quân đội hồi năm 1955 đang lưu vong bên Pháp( vì chống ông Ngô đình Diệm) trở về hợp tác, đó là thiếu tướng Nguyễn văn Vỹ và đại tá Trần đình Lan (phòng2) trong quân đội Liên Hiệp Pháp; đìều này có vài tướng trẻ mới được thăng cấp như thếu tưóng Nguyễn hữu Có, Đỗ Mậu, thiếu tướng Dương ngọc Lắm, trung tướng Trần thiện Khiêm đều không đồng ý, bởi các vị này cho rằng ông Nguyễn văn Vỹ và ông Lan đã lỗi thời và đã rời khỏi quân đội lâu rồi, không còn thích hợp với quân đội hiện giờ nữa. Các ông Khiêm, Có, Lắm cho ràng, hiện nay trong quân đội có nhiều cấp tá trẻ có nhiều năng lực và được đào tạo chánh quy, cứ mạnh dạn giao việc cho họ, chứ cần gì phải gọi 2 người đó về hợp tác.

Ông Dương văn Minh chẳng thèm nghe mà vẫn cứ hành xử theo ý riêng mình dựa trên tình cảm cá nhân.
“Phần tôi (đại tá Cao văn Viên) thì mỗi ngày trình diện ở Bộ Tổng Tham Mưu, nghe nói ông Minh định cho tôi giải ngũ, nhưng nhờ trung tướng Khiêm tự ý cho tôi trở về nhẩy dù ngày 6-11-1963 mà không hội ý với ông Minh, vì việc này nằm trong thảm quyền của ông Khiêm.

Về sau mới biết, sở dĩ ông Khiêm hành động như vậy vì ngày 5-11-1963, ông Minh nói với ông Khiêm rằng đại tá Nguyễn chánh Thi ở Campuchia sắp về, ông Minh sẽ cho ông Thi chỉ huy lại Lực Lượng Nhẩy Dù, diều này chính ông Khiêm không muốn, nên hành động trước một bước, vì nếu để ông Nguyễn chánh Thi chỉ huy nhẩy dù thì khi ông Khiêm muốn mưu đồ gì cũng không thể xử dụng lực lượng nhẩy dù được vì ông Khiêm với ông Thi không thân nhau, vả lại cũng còn ngờ vực không biết ông Thi còn ôm mối hận ngàỳ 11-11-1960 cách 3 năm trước hay không.
Ngày 8-11-1963 đại tá Nguyễn chánh Thi từ Nam Vang đi đường xe về tới Gò Dầu Hạ, được ông Khiêm cho trực thăng đi đón về Tổng Tham Mưu, sau đó ông Khiêm cử ông Thi làm chủ tịch Ủy Ban Điều Tra tài sản và tội ác của ông Ngô đình Cẩn, thế là ông Thi trở ra miền Trung làm việc.

Từ những việc như vậy đưa đến những xích mích giữa ông Khiêm và ông Minh, rồi một ngày vào hạ tuần tháng 12-1963, ông Minh cử ông Khiêm đi công du qua Nhật và Đài Loan, ở nhà ông Minh giao cho Trung tướng Lê văn Kim thay thế trung tướng Khiêm giữ chức vụ Tham Mưư Trưởng Liên Quân ( không làm lễ bàn giao), đến khi ông Khiêm trở về thì ông Minh chỉ định ông Khiêm làm tư Lệnh Quân Đoàn III chia bớt nhiệm vụ của trung tướng Đính đang kiêm nhiệm Bộ An Ninh. Thời gian này Quân Đoàn III còn nằm trong trại Lê văn Duyệt Sài Gòn chưa dời lên Biên Hoà. Vậy là ông Khiêm bị hạ tầng công tác nên ông Khiêm trở nên bất mãn.

Nguyên nhân bên ngoài

Ông Dương văn Minh gây cho Đại Sứ Mỹ cú “sốc” đầu tiên là không nghe theo đề nghị của Đại Sứ Mỹ đề cử ông Trần quốc Bửu làm thủ tướng mà ông Bửu còn bị bắt giam với tội danh mơ hồ.
Sau khi đảo chánh thành công, ông Minh thường liên lạc với đại sứ Pháp ờ Sài Gòn, hơn là đại sứ Mỹ, và có vài lần ông Minh mời Đại Sứ Pháp đến dinh “Hoa lan” của ông Minh dùng cơm tối, có sự hiện diện của ông Đôn, ông Kim, ông Xuân …mà không có sự hìện diện của viên chức Mỹ nào cả. Việc này không qua khỏi cặp mắt “cú vọ” của cơ quan CIA ở Sài Gòn khiến họ đâm ra hoài nghi. Ngoài ra mỗi khi có việc phải giao tiếp với viên chức của toà đại sứ Mỹ và Bộ Tư Lệnh M.A.C.V, các ông Minh, Đôn, Xuân, Kim …chỉ nói toàn tiếng Pháp mà không nói 1 câu tiếng Anh nào, điều này cũng gây khó chịu và tự ái đối với các viên chức Mỹ không ít, và họ nghĩ là các tướng có khuynh hướng thân Pháp.
Tổng hợp những chuyện kể trên đưa đến cuộc chỉnh lý ngày 30-1-1964.

Chỉnh lý ngày 30-1-1964

Chiều ngày 29-1-1964 tướng Khiêm mời tướng Khánh ở Đà Nẵng về Sài Gòn, nói có chuyện cần bàn với tướng Khánh, rồi tướng Khiêm gặp tôi (Đại tá Viên) chỉ thị cho tôi chuẩn bị lực lượng nhẩy dù đi bắt 5 vị tướng: Đôn, Kim, Xuân, Đính,Vỹ và người thứ 6 là thìếu tá Nhung (người đã giết ông Ngô đình Diệm và ông Ngô đình Nhu), thiếu tá Nhung đang ở trong nhà trung tướng Dương văn Minh.

Tôi đề nghị với trung tướng Khiêm nên giao người khác đi bắt ông Đôn và ông Đính, chứ tôi rất khó xử nếu phải đi bắt 2 người mà cách đây 3 tháng đã là ân nhân cứu tử tôi. Trung tướng Khiêm thấy đề nghị của tôi hợp lý nên giao cho tiểu đoàn 2 TQLC lúc đó do thiếu tá Cổ Tấn Tinh Châu làm TĐT đi bắt tướng Đôn và tướng Đính.
Lệnh tổng quát của trung tướng Khiêm cho 2 tôi và thiếu tá Châu là không được liên lạc hoặc tiếp xúc với bắt cứ ai cho đến khi hoàn thành nhiệm vụ.

Thời gian này tất cả mọi đơn vị muốn vào lãnh thổ Biệt Khu Thủ Đô phải có lệnh của Tư Lệnh QĐIII, và riêng TĐ2/TQLC vì đang đóng quân bên ngoài lãnh thổ Biệt Khu Thủ Đô nên tr/t Khiêm ký sự vụ lệnh giao cho 1 đại úy thuộc QĐIII đem đến cho TĐT/TĐ2/TQLC để di chuyển tiểu đoàn vào BKTĐ mà không bị ngăn cản.
Tr/t Khiêm ra lệnh cho thiếu tá Phạm bá Hoa chuẩn bị 1 xe dodge truyền tin để theo dõi việc đi bắt 5 ông tướng mà chính t/t Hoa phải trực máy truyền tin.

Giờ xuất phát đi bắt là 23 giờ và các đường giây điện thoại ở nhà 5 ông tướng đã bị ông Khiêm cho lệnh cắt đứt hết rồi, không liên lạc được với ai cả.

Đúng 23 giờ tôi được lẹnh xuất phát để bắt 3 ông tướng : Mai hữu Xuân, Lê văn Kim và Nguyễn văn Vỹ, rồi sau cùng đến bắt th/t Nguyễn văn Nhung tại nhà của ông Dương văn Minh.
Tiểu đoàn 2/TQLC được giao nhiệm vụ đi bắt 2 ông tướng Tôn thất Đính và Trần văn Đôn , cả 2 đơn vị xuất phát cùng một lúc.

Đến khoảng 2 giờ sáng 5 vị tướng : Đôn, Kim, Xuân, Đính, Vỹ được đưa vô Bộ Tổng Tham Mưu, riêng th/t Nhung thì tôi đưa về trại Hoàng Hoa Thám bản doanh của lữ đoàn nhẩy dù.

Trung tướng Nguyễn Khánh ở Đà Nẵng được trung tướng Khiêm mời về Sài Gòn từ chiều, đang ở nhà chờ, đến bấy giờ mới được tướng Khiêm mời vào BTTM cho biết:”Nhiệm vụ của tôi(tướng Khiêm) tới đây đã xong, phần còn lại tôi giao cho anh (tướng Khánh).chuẩn bị sáng mai anh họp báo.

Tướng Khánh nói:”công của anh thì anh làm luôn đi”. Tướng Khiêm vẫn khước từ và gợi ý với tướng Khánh, khi họp báo cứ nói các ông đó cớ ý định “trung lập thân Pháp” nên mình phải ra tay ngăn chặn.

Trung tướng Khánh liền gọi ra Quân Đoàn I Đà Nẵng dặn dò chuyện gì đó, rồi dại tá Thi nghe được lièn bay vô Sài Gòn kịp sáng sớm vào TTM ngồi họp báo chung với tướng Khánh, điều này khiến báo chí và dân chúng tưởng rằng ông Khánh và ông Thi làm cuộc chỉnh lý, chứ không biết rằng trong đêm 1 mình tướng Khiêm đích thân chỉ huy 2 vị sĩ quan cấp tá là tôi và thiếu tá Cổ tấn tinh Châu đi bắt 5 ông tướng và thiếu tá Nhung, xong rồi mới giao cho ông Khánh.
Tóm lại ông Khiêm dọn sẵn “mâm cỗ” cho ông Khánh hưởng.

Hôm saụ 5 vị tướng bị chỉnh lý được phi cơ chở ra Đà Nẵng rồi vài ngày sau lại chở vô quản thúc ở Đà Lạt. Ông Khánh lên làm thủ Tướng từ lúc đó.

Số phận của th/t Nhung

Đại Tướng viên kể lại rằng:
“Khi tới nhà ông Minh để bắt t/t Nhung thì tôi gặp ngay tướng Minh, ông hỏi lệnh của ai biểu bắt,
Tôi (đại tá Viên) trả lời: lệnh của tr/t Trần thiện Khiêm.
Ông Minh hỏi : ông Khiêm hiện giờ ở đâu?
Tôi trả lời: thưa trung tướng tôi không biết.
Ông Minh lại hỏi tiếp:vậy đại tá nhận lệnh của ông Khiêm từ lúc nào? lý do nào bắt cận vệ của tôi.
“Tôi đáp: xin tr/t hỏi ngay tr/t Khiêm, còn tôi chỉ thi hành lệnh.
Liền đó tướng Minh bốc điện thoại gọi ai đó, nhưng gọi không được, bèn dằn mạnh điện thoại xuống bàn, thấy vậy tôi nói :”điện thoại bị cắt giây rồi, trung tướng không gọi được ai đâu”, tôi chào tr/t Minh rồi dẫn th/t Nhung ra xe đưa về trại Hoàng Hoa Thám.

Tại đây tôi giao th/t Nhung cho sĩ quan an ninh nhẩy dù hỏi cung th/t Nhung, chủ yếu ở điểm: ai ra lệnh giết Tổng Thống Ngô đình Diệm và ông cố vấn Nhu? Sĩ quan an ninh nhẩy dù đưa giấy, viết bắt ông ta tự viết lời khai để làm chứng cớ. Sau khi lấy lời khai xong, khuya ngày hôm sau sĩ quan an ninh ( cấp bậc trung úy)cho người vô phòng giam bóp cổ Nguyễn Nhung chết rồi lấy giây giầy”saut” của chính ông Nhung thắt vòng treo cổ Nguyễn Nhung lên trần nhà.
Đêm đó tôi về nhà ngủ, sáng sớm hôm sau, sĩ quan trực ở trại Hoàng Hoa Thám đìện thoại báo cáo tôi: th/t Nhung thắt cổ tự tử chết rồi, tôi bảo sĩ quan trực gọi bác sĩ Văn văn Của, lúc ấy là th/t y si trưởng ND ráng cứu chữa ông ta coi có thể sống lại được không? .

Sau đó y sĩ thiếu tá Văn văn Của điện thoại báo tôi: “Thưa đại tá hết phương cứu chữa rồi” và ông Của làm bản báo cáo, y chứng xác nhận, thiếu tá Nhung đã chết do thắt cổ tự tử”. Cuộc điện đàm này tôi có cài máy ghi âm để thủ thân về sau này.

Trong lời tự khai của th/t Nhung, ông ta nói răng ông Dương văn Minh ra lệnh cho ông ta giết ông Nhu trướckhi đoàn xe về tới Bộ TTM, ngoài ra trên đường di chuyển nếu có sự bất trắc gì xẩy ra thì chỉ nghe theo lệnh của thiếu tướng Mai hữu Xuân mà thôi, khi ông Nhung đâm ông cố vấn Nhu thì bị ông Diệm chống cự quyết liệt nên buộc lòng ông Nhung phải giết luôn ông Diệm

Ngoài ra khi khám tử thi của t/t Nhung, sĩ quan an ninh lấy ra được một mẩu giấy viết sẵn giấu trong quần, định tìm cách gửi về nhà, nhưng chưa gửi được. Nội dung như sau:”Em ơi! Bọn Diệm , Nhu sống lại rồi, chắc anh phải chết, nếu anh có mệnh hệ gì,em phải ráng nuôi các con cho khôn lớn, anh đang bị nhốt trong lữ đoàn nhẩy dù”.
Lời tự khai và cái thơ riêng gửi cho vợ của t/t Nhung được đưa cho trung tướng Khánh giữ.”

Nhận định riêng của người viết:

Về cái chết của thiếu tá Nhung,tôi nghĩ rằng vị sĩ quan an ninh nhẩy dù không dám tự ý hành động, mà phải có lệnh của 1 trong 3 vị: tuớng Khánh, tướng Khiêm hoặc đại tá Viên? Nhiều lần tôi muốn hỏi đại tướng Viên nhưng lại rụt rè không giám hỏi vì sợ tướng Viên giận và cho rằng tôi tò mò.,

Theo tôi cuộc chỉnh lỷ 30-1-1964 chắc chắn phải có bàn tay “phù thủy” của Mỹ thúc dẩy cho tướng Khiêm thực hiện, mà nguyên nhân chánh là do trung tướng Dương văn Minh làm phật lòng người Mỹ, nhưng ông Minh không bị loại vì lúc bấy giờ dân chúng và khối phật giáo Ấn Quang vẫn còn xem ông Minh như người hùng ”cách mạng” nếu loại hẳn ông Minh sợ e có xáo trộn xã hội và sợ thượng toạ Thích trí Quang sách động Phật tử “xuống đường”ủng hộ ông Minh . Còn 5 ông tướng bị chỉnh lý vì thân tín với ông Minh nên bị làm vật tế thần, bị chụp lên đầu cái mũ”trung lập thân Pháp”, để chặt hết tay chân của ông Minh, biến ông Minh thành “con cua bị gẫy càng” ngồi đó nhìn ông Khánh tung hoành

Phụ chú;

Những điều tôi thuật lại cho quý độc giả trên đây là tôi được nghe đại tướng Viên kể lại lúc tôi đang là sĩ quan tùy viên của ông,

Sau này vào tháng 8 năm 2004, tôi từ Cali qua Virginia thăm đại tướng Viên trong 1 nursing home, tình cờ có đại tướng Khiêm tới, ông Viên, ông Khiêm và tôi cùng ngồi nói chuyện chung, đây là dịp may hiếm có, tôi hỏi đại tướng Khiêm vài điều mà tôi ấp ủ từ lâu vì không biết hỏi ai cho chính xác.

Tôi hỏi:
-Thưa đại tướng, em nghe nói ngày đảo chánh 1-11-1963 có 1 người Mỹ ở trong phòng của đại tướng ngay từ giờ phút đầu để theo dõi cuộc đảo chánh, em muốn biết lời đồn đó co đúng không?

Đại tướng Khiêm nói:
– Lời đồn đó đúng, người Mỹ đó là trung tá Conein, ông ta ở trong 1 phòng nhỏ sát phòng làm việc của tôi sau tấm vách ngăn mà không hề bước qua phòng tôi trong thời gian tiến hành đảo chánh. Tôi cho chú biết thêm, ông Conein này là 1 sĩ quan trưởng của 1 toán tình báo Mỹ đã từng nhẩy dù xuống vùng Việt Minh kiểm soát ở miền Bắc, Việt Nam năm1945 để giúp Hồ chí Minh đánh Nhật, ông ta là người biết nhiều về Hồ chí Minh và mặt trận Việt Minh.

Tôi hỏi tiếp :
– Thưa đại tướng, em được biết, sau khi đại tướng làm cuộc chỉnh lý ngày 30-1-1964 thiếu tá Nhung đã khai, ông Minh ra lệnh cho ông ta giết ông Diệm, ông Nhu , lời khai đó chân thật không? Liệu sau lưng ông Minh có 1 thế lực nào khác thúc đẩy ông Minh làm chuyện đó không?

Đại tướng Khiêm trả lới:
– Chú nghe kỹ tôi nói đây:”trước ngày đảo chánh (1-11-1963) tôi đưa ra 1 điều kiện tiên quyết với ông Minh, liên quan đến Tổng Thống Diệm như sau : phải bảo đảm sinh mạng Tổng Thống Diệm và để T/T Diệm bình an xuất ngoại. Ông Minh và ông Kim đều đồng ý, sở dĩ có ông Kim vì mới đầu ông Kim có 1 nhóm riêng cũng âm mưu đảo chánh, về sau 2 nhóm mới kết hợp lại.


Khi biết ông Diệm , ông Nhu bị giết, lúc ấy tôi mới biết luôn đại tá Quyền, đại tá Tung và em của đại tá Tung là Lê quang Triệu cũng bị giết, còn ông này (ông Khiêm vừa nói vừa nhìn qua ôngViên) cũng bị còng tay, may mà ông Đính thấy kip chứ không thì cũng theo Hồ tấn Quyền và Lê quang Tung rồi (ông Viên và ông Khiêm cùng cười).
Ông Khiêm nói tiếp:
– Tôi ở văn phòng của tôi trên lầu. Còn ông Minh, ông Kim, ông Đôn ngồi ở phòng của đại tướng Tỵ, lúc đó đại tướng Tỵ đang dưỡng bệnh, nên ông Đôn làm quyền Tổng Tham Mưu Trưởng. Họ hành động lén lút, giấu không cho tôi biết rồi họ quyết định với nhau tôi có hay biết gì đâu.

Chú nghĩ coi: ông Diệm đã gọi đìện thoại bảo cho xe đến đón ông về TTM, như vậy nghĩa là ông đã đầu hàng rồi, tại sao lại giết người đầu hàng. Ông Minh, ông Kim độc ác quá! Cho nên tôi bất mãn với 2 ông ấy từ lúc đó.
Còn chú hỏi liệu có thế lực nào khác thúc đẩy ông Minh giết ông Diệm, tôi cho chú biết thêm chi tiết này: khi ông Conein ở trong phòng nhỏ bước ra phòng tôi, trung tướng Minh cho ông ta biết ông Diệm và ông Nhu chết rồi, ông Conein tỏ ra tức giận không nói với ông Minh một lời,ông quay trở vào phòng và thốt lên một câu:”Do a terrible thing”rồì một lúc sau ông Coneil bỏ ra về. Thế đó chú tự suy nghĩ”

Tôi cám ơn đại tướng Khìêm, rồi chúng tôi tiếp tục nói chuyện linh tinh khác suốt cả buổi sáng hôm đó.
Thân phận của một Quốc Gia nhược tiểu là như vậy.

Cựu Sĩ quan tùy viên Đặng kim Thu

http://thoibao.com/ke-da-ra-lenh-gie...ngo-dinh-diem/



 Những kẻ đã xúm nhau hãm hại Ngô Tổng Thống hớn hở sau khi tự thăng cấp cho nhau.
Số 1 là Đỗ Mậu; số 2 là Trần Thiện Khiêm; số 3 là Dương Văn Minh; số 4 là Nguyễn Ngọc Thơ; số 5 là Trần Văn Đôn; số 6 là Tôn Thất Đính; số 7 là Trần Tử Oai; số 8 là Nguyễn Cao Kỳ; và số 9 là Nguyễn Hữu Có. (Vắng mặt Lê Văn Kim và Mai Hữu Xuân)
Cả bọn đều tự xem mình như người hùng cách mạng, nhưng không một đứa nào đủ can đảm nhận trách nhiệm về cái chết của Cụ Ngô và Ông Nhu. Đứa nào cũng ngửa tay nhận tiền trả công của Mỹ, nhưng đứa nào cũng chối tội.


 Khiet Nguyen
*******
LỜI CẢM THÁN
Trước viễn ảnh Bắc thuộc, nước VN bị VC dâng Tàu, đồng bào VN trở thành nô lệ, là con dân VN, là nạn nhân, là nhân chứng của ba chế độ, tác giả qúa đau lòng, không thể không thốt lời cảm thán nhân ngày giỗ thứ 53 của Cố TT NGÔ ĐÌNH DIỆM.  Mong được chia sẻ nỗi đau này với tất cả những tấm lòng còn trăn trở chuyện quê hương.


"Tôi tiến, tiến theo tôi
Tôi lùi, hãy giết tôi
Tôi chết, hãy nối chí tôi "


Hùng tâm tráng chí những lời
Ôi nhân cách ấy, trên đời được bao !?
Tiếc thay nước vắng anh hào
Túi cơm giá áo hư hao lại đầy !
Cho nên dũng khí lời hay
Than ôi chẳng được một ngày noi theo !
Còn làm cột đổ tường xiêu
Nhà tan cửa nát tiêu điều nước dân
Một bày bội nghĩa vong ân
Mê tiền, mê chức, bất nhân, giết Người !!!
Giết Người tưởng giữ được ngôi
Hại chưa, đúng một giáp thôi, tan nhà ! *
Miền Nam, cơ nghiệp Quốc Gia
Lại dâng Việt cộng như là chuyện chơi !
Bốn vùng nước mắt mồ hôi
Rút quân, bỏ ngỏ để mời cộng vô !!!...
Bao năm xây dựng cơ đồ
Dâng ngon cho bọn giặc Hồ, đau không !
Phủi tay mặc chuyện núi sông
Mặc dân chịu kiếp xiềng gông ngục tù...
Vì đâu có một tháng Tư ?
Và ai trăn trở mối thù quốc vong ?! 
 *
Tưởng đâu kinh nghiệm chất chồng
Nhìn trang uế sử thì lòng biết đau
Nào ngờ ít chục năm sau
Gối chăn với cộng, bên nhau lại tình !
Không hờn giặc ác Ba Đình
Lại đi xuyên tạc công trình dựng xây
Còn hùa theo cộng, đặt bày 
Bôi đen hùng sử để cay thêm lòng !
Hỡi ơi, xương máu Cha Ông
Cớ sao còn lại tay không thế này !!!
Nói gì với cháu con đây
Khi sông núi Việt vào tay cộng Tàu ?
Bao giờ, biết mấy đời sau
Trưng Vương, Nguyễn Huệ mới hầu đổi thay !?
 *
Tiếc cho dũng khí lời hay
Đau cho sông núi vào tay hung tàn
Xót Người Chí Sĩ Việt Nam
Nén hương khói tỏa, lệ tràn núi sông ...


Ngô Minh Hằng


* 1963 - 1975 = 12 năm, tròn một giáp

Không dính dáng gì đến chế độ cũ:Nhưng Việt Nam Cộng Hòa vẫn trong tim người Việt.

Việt Nam Cộng Hòa vẫn trong tim người Việt


 ĐCSVN sẽ tự tuyên bố giải thể toàn bộ và một thể chế mới hoàn toàn không dính dáng gì đến chế độ cũ hầu phác họa cho một tương lai thuận lợi hơn cho đất nước và dân tộc là thoát nạn. Biết rằng sẽ có nhiều người cho rằng: Với cộng sản độc tài mà ước mơ như vậy thì chẳng khác nào một đứa trẻ con thì tôi xin được tâm sự rằng: Chuỗi khổ lụy muộn phiền khi nhìn quê hương và dân tộc bị xóa sổ, đôi khi tôi mơ ước được làm một đứa bé thơ để tâm tư không bị dằn vặt đớn đau nhiều. Triệu triệu người hãy khẩn khoản đứng lên nêu ý chí vững mạnh xóa tan đảng cùng nhà nước hiện hành để thiết lập nên một thể chế mới có đầy đủ Tam Quyền Phân Lập, một chế độ lấy Độc Lập, Tự Do, Nhân Bản, Dân Chủ và hưng thịnh làm kim chỉ nam trong mọi đường hướng vận hành quốc gia.

*

Chào cờ Việt Nam Cộng Hòa và hát Quốc ca là những sự việc bình thường ở hải ngoại đối với những người còn nghĩ đến Tổ Quốc thân yêu, một nền Nhân Bản, Tự Do và Dân Chủ của hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị VNCH. Nhưng điều đó sẽ không xem là bình thường đối với những người đang còn ở trong một đất nước mà độc tài toàn trị đang ngự trị. Việc làm này có thể được xem là "Âm mưu lật đổ chính quyền" mà đảng cộng sản thường rêu rao đe dọa theo điều 88 của Bộ luật Hình sự. Từ đó, hành vi này có thể bị tù giam tối đa là 20 năm.

"Điều 88. Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam:

Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:

a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;

b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân;

c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm." (1)

Bất chấp mọi nguy hiểm từ điều luật và hình phạt vô lý do ĐCSVN tự biên diễn, nó ngược lại với những quyền căn bản của con người, ngày 26 tháng Mười 2016, vào lúc 4:41' một sự kiện khá đặc biệt là Dũng Phi Hổ, tức Nguyễn Viết Dũng cùng các anh em thuộc Hội những người yêu QLVNCH (fb.com/QLVNCH.3) đã tổ chức kỷ niệm ngày có bản Hiến Pháp tự do đầu tiên ra đời, sau này được lấy làm ngày Quốc Khánh Đệ Nhất Cộng Hòa: 26/10/1956 - 26/10/2016 tại Yên Thành, Nghệ An Việt Nam.


Điều đặc biệt ấy mà tôi muốn đề cập hôm nay là Dũng Phi Hổ cùng các anh em thuộc Hội những người yêu QLVNCH đã bất chấp mọi hiểm nguy để đứng ra tổ chức một buổi lễ mà dưới góc nhìn của tôi là một buổi lễ vừa tưởng niệm, vừa nêu rõ ý chí cũng như lý tưởng của mình, trong khi các em không hề có bất cứ sự dính dáng gì đến Việt Nam Cộng Hòa và chính bản thân các em đã sinh ra, lớn lên, cũng như đã tham gia vào hệ thống giáo dục dưới các mái trường của CNXH. Câu hỏi được đặt ra trong tôi: Có phải các em đã nhận ra VNCH là một thể chế với đầy đủ Tự Do, Nhân Bản, Dân Chủ và phú cường?. Cũng như ước muốn rằng các em cùng toàn dân Việt Nam phải được sống và phục vụ một chế độ tốt đẹp như vậy?.

Xa hơn nữa, tuổi trẻ VN trong thời đại tin học hôm nay giúp họ có thể tiếp cận được những ưu điểm, những gì tốt đẹp của cơ chế tự do đầy trách nhiệm và tình thương đó thì thiết nghĩ rằng đa số trong họ sẽ muốn sống và làm việc trong một chế độ như đã nêu. Cho nên những hình ảnh của một xã hội nhân bản của miền Nam trước đây cùng cương lĩnh của thể chế tự do này nếu được lớp người đi trước truyền bá thêm cho kho dữ liệu trở nên phong phú rộng khắp hơn nữa để những hình ảnh đến được với lớp trẻ càng nhiều càng tốt.



Với hiện tình cực kỳ bi đát, cực kỳ thê thảm của VN hôm nay, kinh tế thì lụn bại cạn kiệt mà nguyên nhân chính là do tham nhũng và hoạch định cũng như quản lý quá yếu kém, nền độc lập chủ quyền thì bị đe dọa trầm trọng, Biển Đông có nguy cơ bị mất, các đảo thuộc chủ quyền của đất nước đã bị cướp trắng trợn, biên giới theo 6 tỉnh dọc biên thùy bị xâm thực, đất liền thì tràn ngập các căn cứ quân sự trá hình, các phố sá và người Tàu thì đầy dẫy như quân Nguyên. Đứng trước những tình huấn vô cùng nguy cập này, trước nhất thú thật, trong tôi có lóe lên một tia hy vọng rất mong manh, rất hảo huyền rằng: 

1- ĐCSVN sẽ tự tuyên bố giải thể toàn bộ và một thể chế mới hoàn toàn không dính dáng gì đến chế độ cũ hầu phác họa cho một tương lai thuận lợi hơn cho đất nước và dân tộc là thoát nạn. Biết rằng sẽ có nhiều người cho rằng: Với cộng sản độc tài mà ước mơ như vậy thì chẳng khác nào một đứa trẻ con thì tôi xin được tâm sự rằng: Chuỗi khổ lụy muộn phiền khi nhìn quê hương và dân tộc bị xóa sổ, đôi khi tôi mơ ước được làm một đứa bé thơ để tâm tư không bị dằn vặt đớn đau nhiều.

2- Triệu triệu người hãy khẩn khoản đứng lên nêu ý chí vững mạnh xóa tan đảng cùng nhà nước hiện hành để thiết lập nên một thể chế mới có đầy đủ Tam Quyền Phân Lập, một chế độ lấy Độc Lập, Tự Do, Nhân Bản, Dân Chủ và hưng thịnh làm kim chỉ nam trong mọi đường hướng vận hành quốc gia.

Với bàn tay sắt của một đảng tôi tớ hung bạo, với sự bao vây trùm khắp của Tàu cộng, với sự thờ ơ vô trách nhiệm trong vũng lầy của sợ hãi... Cả hai tiêu đề nêu trên, có phải chăng là những hy vọng hảo huyền không tưởng?. Thế thì chúng ta phải làm sao?. 

Tôi không là Luật gia, cũng không là một người quá phong phú về tiền bạc nhưng tôi nghĩ rằng quí vị Trí thức, Hội vận động, các Chính trị gia, Hội Luật sư có thể chuẩn bị những dữ liệu làm nền tảng cũng như chỗ dựa cho những tiến trình vô cùng cần thiết, làm hậu thuẫn cho những khả dĩ có thể xảy ra trong tương lai. Đừng để bị động khi nước đến chân mới nhảy.

Đảng CSVN nên biết rằng: Khi đảng và nhà nước không còn tồn tại thì mọi liên quan giữa đảng, nhà nước VN với Trung cộng hay Nga Sô sẽ không còn tồn tại. 

Một chế độ mới hoàn toàn độc lập và không liên hệ gì với chế độ cũ thì mọi "ân nghĩa" "nợ nần" gần ngàn tỷ USD, cùng những ký kết với nhau trong âm thầm đều trở nên vô hiệu vì chế độ mới trên mặt pháp lý không vay cũng chẳng mượn. 

Một chế độ mới sẽ dựa trên chứng cớ lịch sử mà sở hữu lại những gì thuộc chủ quyền quốc gia VN mà thế lực bành trướng Tàu cộng đã chiếm đóng bất hợp pháp qua phân xử của Tòa Án Quốc Tế.

Hôm nay, bài viết này nhằm ghi nhận tinh thần của Nguyễn Viết Dũng (Dũng Phi Hổ) cùng các em trong "Hội những người yêu QLVNCH". Cảm ơn tuổi trẻ Việt Nam. Chúc vững tiến trên con dường tốt đẹp mà tuổi trẻ Việt Nam đang đi.
28.10.2016

Vietnamese Heritage Museum