Đối
với phần lớn người từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 thì sự kiện ngày
01 tháng 11 năm 1963 mãi mãi là một cơn ác mộng. Nhất là bản tin ngắn
được phát đi vào khoảng 10 giờ sáng ngày 02 tháng 11,
loan báo về cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình
Nhu đã thực sự làm suy sụp tinh thần của hầu hết đồng bào di cư, nhất là
đồng bào công giáo. Đối với hầu hết người Bắc di dân thì cái chết của
Tổng Thống Ngô Đình Diệm và sự cáo chung của
nền Đệ Nhất Cộng Hòa là một hồi chuông báo tử cho nền cộng hòa ở miền
Nam. Những giáo dân di cư, trong đó có cả ông nội tôi, đã mường tượng
một ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài gòn, và một cuộc “di cư” nữa để
lánh nạn cộng sản sẽ diễn ra sau đó.Suốt những
ngày tiếp theo của tháng 11 kinh hoàng năm đó, gia đình ông bà chúng
tôi cùng tất cả giáo dân, giành hầu hết thời gian đến nhà xứ để cầu
nguyện cho Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu, những đại ân nhân đã giúp
cho gia đình chúng tôi cùng hơn một triệu đồng
bào khác thoát được hiểm họa cộng sản ở miền Bắc, bởi sau hai năm miền
Bắc cải cách ruộng đất, với chính sách tố khổ, cộng sản đã mang đến bao
nỗi tang thương và kinh hoàng cho những người dân xứ Bắc.
Chắc
sẽ có nhiều người đặt vấn đề rằng với thời gian 300 ngày để di cư, thì
cứ tùy nghi ra đi chứ cần gì phải có ai giúp đở? Sự thật hoàn toàn không
đúng như vậy, vì chính quyền của Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa, tức chính quyền cộng sản của ông Hồ Chí Minh luôn tìm mọi
cách để ngăn chặn người ta di cư sang xứ tự do ở miền Nam, bằng nhiều
hình thức đe dọa, bưng bít thông tin, kể cả khủng bố tinh thần và tuyên
truyền xuyên tạc chính sách di cư cũng như xuyên
tạc về chế độ Cộng Hòa để giảm thiểu số người di cư vào vùng tự do đến
mức thấp nhất. Nhân ngày hiệp kỵ lần thứ 49 của Cố Tổng Thống Ngô Đình
Diệm, 01 tháng 11 năm 2012, như một nén hương lòng, để ghi tạc công đức
của Cụ Ngô, chúng tôi xin thuật lại hành trình
lánh nạn cộng sản lần thứ nhất của gia đình chúng tôi, cũng như của hơn
một triệu đồng bào miền Bắc, theo nhật ký hành trình của ông tôi,
nguyên là một Chánh Tổng ở Văn Giang, Hải Hưng.
Sau
khi quân đội pháp đầu hàng ở Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký
kết giữa chính phủ của Hồ Chí Minh và chính phủ Cộng Hòa Pháp, chia đôi
Việt Nam thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến.
Từ vỹ tuyến 17 trở ra thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức là Cộng Sản
Việt Nam. Từ Vĩ tuyến 17 đến Cà Mau thuộc Quốc Gia Việt Nam. Việc đất
nước phải bị chia cắt làm hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau
là một thảm họa của dân tộc Việt Nam, mà ít
nhất đã một lần xãy ra trong lịch sử của đất nước khi Trịnh – Nguyễn
Phân Tranh kéo dài hơn 100 năm từ 1627 cho đến năm 1789 khi Hoàng Đế
Quang Trung kéo đại binh ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh vào khuya tối
mùng 5 Tết Kỷ Dậu 1789 mới hoàn toàn chấm dứt
100 năm chiến tranh giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn mang bao nhiêu đau
thương tang tóc cho dân Việt giữa hai bờ sông Gianh.
Có một điều khác biệt trong lần chia cắt đất nước lần này là giới tuyến
không còn là
sông Gianh mà là sông Bến Hải, và “Họa trung hữu phúc”, cũng “nhờ” Hồ
Chí Minh ký hiệp ước chia cắt đất nước mà ít nhất là một nữa dân tộc
Việt ở bờ nam sông Bến Hải đã không phải chịu sự thống trị sắt máu của
cộng sản ngót 21 năm từ 1954 cho đến 1975.
Trại Tạm Cư Cho Người Bắc Mới Di Cư Vào Nam
Ít
nhất cũng hơn 1 triệu người Bắc chúng tôi cũng tránh được họa cộng sản
trong ngần ấy năm, nhờ vào Điều 14 phần (d) của Hiệp định Geneva cho
phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu
phía quản lý tạo điều kiện cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả
hiệp đình chiến, tức việc di cư sẽ chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm
1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng, điểm
cuối cùng tập trung để di cư có 300 ngày để di
cư.
Ngày 4/6/1954,
trước khi Hiệp định Geneve được ký kết 6 tuần, Pháp đã ký một Hiệp định
với Quốc gia Việt Nam, công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập.
Theo đó chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ tự
chịu trách nhiệm với những hiệp định quốc tế được ký bởi Pháp trước đó
nhưng có liên quan tới họ, cũng như không còn bị ràng buộc bởi bất cứ
hiệp ước nào do Pháp ký sau này.
Ông Trần Văn
Đỗ, trưởng đoàn đại diện của Quốc gia Việt Nam nhất quyết không ký vào
Hiệp định Genève vì không chấp nhận việc chia cắt Việt Nam và đại diện
phái đoàn Quốc Gia Việt Nam ra một tuyên bố
riêng:
“... Chính phủ
Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam
long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không
tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính
phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình
quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc
Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ
sở."
Tuy
vậy, lời phản kháng và đề nghị của đại diện Quốc gia Việt nam đã không
được Hội nghị bàn tới. Ngoại trưởng Trần văn Đỗ từ Genève tuyên bố với
các báo chí như sau: "Từ khi đến Genève, phái đoàn
không bao giờ được Pháp hỏi về ý kiến về điều kiện đình chiến, đường
phân ranh và thời hạn Tổng tuyển cử. Tất cả nhưng vấn đề đó đều được
thảo luận ngoài Hội nghị, thành ra phái đoàn Việt Nam không làm thế nào
bầy tỏ được quan niệm của mình".
Tuy
lên tiếng phản đối, nhưng sau khi hiệp định được kí kết, Chính phủ và
quân đội Quốc Gia Việt Nam vẫn cùng quân Pháp tập kết về phía nam vĩ
tuyến 17. Ngày 28 tháng 4 năm 1954, Uỷ Ban Bảo vệ Bắc
Việt Nam của Quốc Gia Việt Nam tìm cách kêu gọi dân chúng di cư vào Nam
để lánh nạn cộng sản. Một kế hoạch di cư được đặt ra và một Uỷ Ban Di
Cư được thành lập. Ngày 30 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
phát biểu cổ vũ dân chúng miền Bắc di cư vào
miền Nam để lánh nạn cộng sản.
Một ngày sau
khi Hiệp định được ký kết, tức ngày 22 Tháng Bảy, Thủ tướng Ngô Đình
Diệm ra lệnh treo cờ rủ toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ
quan điểm chống đối sự chia đôi đất nước.
Ngày
22 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: "Đấu
tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân
chủ cũng là một
cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”., và khẳng định: “Trung, Nam, Bắc
đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả
nước nhất định được giải phóng”. Đây là lần đầu tiên, Hồ Chí Minh bày tỏ
lập trường của Quốc Tế Cộng Sản về chiến lược
nhuộm đỏ cả Đông Dương, và quyết tâm dùng bạo lực cách mạng, dùng máu
xương của đồng bào Việt Nam trong một cuộc chiến tranh huynh đệ tương
tàn để mở rộng quyền thống trị của Hồ Chí Minh và của chế độ cộng sản
trên toàn bộ đất nước.
Sở
dĩ chúng tôi phải nêu lại những sự việc trên là để quý độc giả cũng như
các lãnh đạo của cộng sản Việt Nam hiện nay thấy được rằng
việc chia cắt đất nước là tội ác của Hồ Chí Minh và Thực dân Pháp,
chứ hoàn toàn không có sự can dự của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam hay
của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.
Sau
đó, hậu thân của Quốc gia Việt Nam là Việt Nam Cộng hòa, với sự hậu
thuẫn của Hoa Kỳ đã từ chối tổ chức tuyển cử thống nhất Việt Nam. Năm
1956, Việt Nam Cộng Hòa được thành lập trên cơ sở Quốc
Gia Việt Nam. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm tuyên bố:
“Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất
nước một cách hoà bình và dân chủ" nhưng "nghi ngờ về việc có thể bảo
đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc”.
Đây là một nhận định vô cùng sáng suốt của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm,
bởi theo thể thức “đảng cứ dân bầu” của cộng sản, thì chắc chắc toàn
thể cử tri miền Bắc buộc phải dồn phiếu cho Hồ Chí Minh, bởi họ biết
rằng chỉ có làm như thế họ mới mong được yên phận,
chứ nếu chọn lựa theo lương tri của họ, để bầu cử cho chính phủ Quốc
Gia Tự Do, thì chắc chắn họ sẽ bị quy kết là Việt Gian, rồi cả gia đình,
họ tộc sẽ bị đấu tố bị tru diệt. Trong khi đó ở miền Nam tự do, người
ta có quyền lựa chọn ngay cả việc chống đối
lại chính phủ mà không bao giờ sợ phải bị trả thù, không bao giờ bị đấu
tố, thì thiếu gì những thành phần thân cộng hoặc những kẻ phá thối, sẳn
sàng bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh để thủ tiêu nền Cộng Hòa còn non trẻ.
Trở
lại với việc di cư vào Nam, gia đình chúng tôi cũng như hầu hết đồng
bào Bắc phần vào thời gian đó, những vụ đấu tố trong cải cách ruộng đất
bắt đầu từ năm 1953 là một ác mộng kinh hoàng, và cả
những vụ khủng bố, thanh trừng của cộng sản đối với những sỹ phu yêu
nước, những chính khách thuộc các đảng phái khác, luôn luôn là một nỗi
ám ảnh về những cái chết oan nghiệt hãi hùng, cho nên ai cũng mong muốn
được thoát khỏi ách thống trị của cộng sản,
ai ai cũng muốn được vào miền Nam tự do, nhưng khốn nạn cho nhiều người
Bắc chúng tôi, cơm chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc thì làm sao có đủ chi phí
cho hành trình từ quê nhà về đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam, dù
chuyến hành trình từ bắc vào Nam là hoàn toàn
miễn phí. Cũng như vào những năm cao trào vượt biên đi tìm tự do sau
năm 1975, cả dân tộc Việt Nam đều muốn bỏ nước ra đi, cả cái cột điện mà
đi được thì nó cũng đã đi rồi, nhưng đâu phải ai cũng có đủ vàng đủ bạc
để chi phí cho những chuyến vượt biên đi tìm
tự do này. Cho nên, chỉ có khoảng hơn một triệu người có đủ điều kiện
để vào Nam trong suốt 300 ngày di cư. Bên cạnh cái nghèo khó cái đói
rách đã ngăn chặn người miền Bắc di cư, thì chính sách tuyên truyền,
xuyên tạc và khủng bố của chính quyền cộng sản cũng
là một cản trở lớn. Những truyền đơn, bích chương của Liên Hiệp Quốc in
ấn, phát hành để tuyên truyền, khích lệ và hướng dẫn cho dân chúng về
chính sách di cư đều bị chính quyền tịch thu, không đến được tay của dân
chúng, ngoài ra các cán bộ thôn xã còn đến
từng nhà xuyên tạc chính sách của Liên Hiệp Quốc, cũng như đe dọa rằng
những ai có ý định di cư vào Nam tức là những người có tư tưởng theo
Việt gian, chống lại đảng, chống lại chính phủ của cụ Hồ, sẽ bị trừng
phạt đích đáng! Nhiều gia đình có điều kiện ra
đi, nhưng vì những sự đe dọa đó, họ sợ rằng nếu không đi được mà phải
trở về thì chắc chắn là không còn đường sống với chính quyền cộng sản,
mà đành nhắm mắt đưa chân, quyết định ở lại chung sống với cộng sản.
Do
vậy mà phần lớn những người di cư vào Nam năm 1954 là những người từng
là nạn nhân của cộng sản, từng bị tịch thu tài sản, nhà cửa ruộng vườn,
vì bị quy vào thành
phần địa chủ, phú nông hay tư sản, tiểu tư sản phản động ở các thành
phố, là những người hiểu rằng họ không thể nào sống dưới chế độ cộng sản
được mà phải quyết tâm bỏ lại cửa nhà để ra đi. Tuy nhiên, chính quyền
cộng sản lúc bấy giờ vu cáo rằng những người
Công giáo Việt Nam đã bị chính quyền Pháp, Mỹ và thân Mỹ cưỡng bức hay
"dụ dỗ di cư".
Cộng sản Bắc Việt từng lu loa rằng “các Linh mục miền Bắc
giục giã giáo dân vào Nam với lời giảng rằng Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào
Nam nên họ phải đi theo” Sic. Đó là lối tuyên truyền xuyên tạc lố bịch
và trơ tráo của công sản mà thôi.
Thực tế các Linh mục, các Cha xứ là người hiểu rỏ hơn dân chúng
về chế độ cộng sản, và các vị linh mục cũng là người nắm được đầy đủ
thông tin từ Liên Hiệp Quốc về chính sách di dân, nên đã giảng giải,
giúp giáo dân hiểu đích xác về vấn đề, cũng như
khích lệ họ vượt qua sự sợ hãi mà mạnh dạn lên đường đi về miền tự do
đó là lý do tại sao trong số hơn một triệu người di cư vào Nam thì đã có
đến 800.000 người công giáo. Đây là công lớn của các vị mục tử.
Trong khi đó,
có những bằng chứng cho thấy rằng những tờ bích chương và tờ bướm do Uỷ
hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến in và trao cho hai bên phổ biến cho dân
chúng biết về quyền tự do di tản thì không
được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phân phát. Hơn nữa chính Uỷ
hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đã mở cuộc điều tra đơn khiếu nại của
chính quyền cộng sản Bắc Việt của Hồ Chí Minh, khiếu nại về hành động
cưỡng bách di cư. Trong số 25.000 người Uỷ hội
tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị "cưỡng bách di cư" hay muốn trở về
Bắc cả. Thế mới thấy rỏ được sự lường láo tráo trở của Hồ Chí Minh và
cộng sản Việt Nam.
Theo
số liệu thống kê Uỷ hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến thì ngoài những
người kinh là nạn nhân của chế độ cộng sản hoặc giáo dân Công giáo thì
trong số dân di cư vào Nam, còn có những người thuộc
dân tộc thiểu số đã từng theo quân đội Pháp chống Việt Minh. Trong đó
có khoảng 45.000 người Nùng vùng Móng Cái và 2.000 người Thái và Mèo từ
Sơn La và Điện Biên cũng đã gồng gánh con cái, theo đường bộ đến Hải
Phòng để xuống tàu vào Nam.
Ngày
9 tháng 8 năm 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam của tân Thủ tướng Ngô
Đình Diệm lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn ở cấp một bộ trong nội các với ba
nha đại diện, một ở miền Bắc, một ở miền Trung và
một ở miền Nam để xúc tiến định cư. Thêm vào đó là Uỷ Ban Hỗ Trợ Định
Cư, một tổ chức cứu trợ tư nhân giúp sức.
Đối
với sinh viên đại học, Bộ Tư Lệnh Pháp dành 12 chuyến bay trong hai
ngày 12 và 13 Tháng 8 đưa khoảng 1200 sinh viên miền Bắc vào Nam. Ước
tính chỉ khoảng 1/3 ở lại còn 2/3 chọn di cư.
Ngày
04 tháng 8 năm 1954 cầu hàng không nối phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn
trong Nam với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải
Phòng ngoài Bắc được thiết lập. Nỗ lực đó được coi là
cầu không vận dài nhất thế giới lúc bấy giờ (khoảng 1.200 km đường chim
bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở nên đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6
phút một là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2000 đến 4200 người di
cư tới. Tổng kết là 4280 lượt hạ cánh, đưa
vào 213.635 người.
Ngoài
ra, một hình ảnh quen thuộc với người dân tỵ nạn là "tàu há mồm" tiếng
Anh là Landing Ship Tank viết tắt là LST- đón người ở gần bờ rồi chuyển
ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc. Các tàu
thủy vừa hạ xuống, hàng trăm người đã giành lên. Các tàu của Việt Nam,
Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba Lan... giúp được 555.037 người "vô
Nam". Ngoài ra cũng có tới 102.861 người tự tìm đường bộ hoặc ghe thuyền
và phương tiện riêng để tự túc di cư vào Nam,
lánh nạn cộng sản miền Bắc.
Được
sự trợ giúp tận tình của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, những người di cư
chúng tôi rất sớm ổn định cuộc sống trên quê hương mới trên nhiều tỉnh
thành ở miền Nam, với những tên gọi thân quen của những
làng xã, phố thị bản quán của chúng tôi ở miền bắc như Bùi Chu, Phát
Diệm hoặc Tân Hoá, Tân Thanh tức Thanh Hoá mới, Tân Phát tức Phát Diệm
mới, Tân Hà tức Hà Nội mới… với mong muốn bảo lưu được các nét đẹp văn
hoá của quê xưa trên vùng đất mới còn tiềm ẩn
nỗi nhớ quê hương bản quán, của người những người vì lý tưởng tự do mà
phải xa rời nơi chôn nhau cắt rốn.
Những tướng tá đã tham gia vụ đảo chánh ngày 01/11/1963
Biến
cố 30 tháng Tư năm 1975, một lần nữa mang hiểm họa cộng sản đến cho
toàn dân miền Nam, và cho cả người Bắc di cư chúng tôi, những người đã
một lần
phải lìa bỏ quê hương bản quán để lánh nạn cộng sản 21 năm về trước.
Những tưởng chúng tôi đã vĩnh viễn thoát khỏi họa cộng sản rồi, nào ngờ
đâu cái biến cố 01 tháng 11 năm 1963 lại báo hiệu cho chúng tôi về một
hiểm họa cộng sản mới, và điều đó đã ứng nghiệm
lời tiên liệu của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu phát biểu trong một cuộc họp
của Tổng Đoàn Thanh Niên Dân Vệ tháng 10 năm 1962 tại Trung Tâm Huấn
Luyện Thi Nghè, rằng “Nếu chính phủ này bị ngoại bang và tay sai lật đổ
thì 12 năm sau (tức là năm 1975) Việt Nam Cộng
Hòa sẽ bị rơi vào tay cộng sản.”. Thế là hàng triệu người
Việt lại phải ra đi tìm tự do mà không có bất cứ sự sắp đặt nào của quốc
tế! Những người Bắc 54 của chúng tôi lại một lần nữa phải “di cư” để
lánh nạn cộng sản thêm một lần nữa trong đời.
Thật là ai oán! Sao chúng tôi lại phải hai lần tắm trên một dòng sông?
Điểm khác biệt là lần này chúng tôi ra đi không được sự bảo trợ nào của
quốc tế, mà chúng tôi phải trả chi phí cho chuyến đi bằng vàng, bằng máu
và cả bằng sinh mạng của chúng tôi nữa.
Bởi người Ta đã sát hại Cụ Diệm, vị ân nhân của chúng tôi rồi… còn ai
nữa đâu để chở che cho chúng tôi trên bước đường gian nan đi lánh nạn
cộng sản lần thứ hai này, trách sao chúng tôi không phải trả giá.
Nhiều
người cho rằng chính những kẻ phản loạn và ăn cháo đái bát như Trần
Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn
Thiệu, Nguyễn Hữu Có,
Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, Phạm Xuân Chiểu, Trần Văn Minh, Nguyễn Ngọc Thơ,
Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Lê Văn Kim… là những tội đồ của dân tộc,
là những con chó phản chủ đã gián tiếp dâng miền Nam cho cộng sản để cả
dân tộc phải lầm than…
Riêng tôi là những người sinh sau đẻ muộn, chúng tôi không dám
phán xét ai cả, mà chỉ tâm niệm rằng vì nghiệp chướng của dân tộc Việt
Nam quá nặng nên đã đã trót sinh ra Hồ Chí Minh và những kẻ “ác ôn côn
đồ đáng nguyền rủa” đó mà thôi. Vả lại, trên bước
đường di tản nhọc nhằn rồi những năm tháng sống lưu vong nơi đất khách
quê người vật vờ như cái bóng, những kẻ đó chắc cũng đã nhận ra tội ác
và lầm lỗi của mình đối với một vị tổng thống anh minh, cũng như đối với
đất nước, đối với dân tộc Việt Nam, khi vì
tiền, bàn tay của họ đã vấy máu của Người đã ban phát cho họ những ân
huệ, bổng lộc và chức tước... Đó là sự trừng phạt không nhỏ, và chắc
chắn với những ray rức đó trong suốt những năm cuối đời trong kiếp sông
lưu vong, khi nhắm mắt xuôi tay, trở về với đất,
chắc chắn linh hồn của họ sẽ không bao giờ được siêu thoát. Nhất là
lịch sử ngàn đời của dân tộc Việt sẽ phán xét họ.(NPH tô đậm và in
nghiêng)
Tôi viết lên
bài tâm bút này chỉ là để làm tròn ước nguyện của ông tôi trước khi qua
đời cũng là xin được tỏ bày lòng tri ân của chúng tôi đối với NGÔ TỔNG
THỐNG và Nền Để Nhất Cộng Hòa đã một lần
giải thoát chúng tôi khỏi ách cộng sản vào năm 1954.
Như một nén hương lòng xin thành kính dâng lên Cụ với tấm lòng thành kính tri ân muôn đời muôn kiếp của con dân đất Việt.
Nguyễn Thu Trâm 8406
******
THƯƠNG TIẾC
CỐ TT NGÔ ĐÌNH DIỆM
Đốt nén nhang thơm tưởng nhớ
Người
Kể từ cánh hạc khuất ngàn khơi
Năm ba Xuân tiếc vì sao vỡ
Bốn mốt Đông hờn hạt ngọc rơi *
Dân tộc cộng xô vào diệt chủng
Giang sơn đảng hiến để tồn ngôi
Niềm đau vong quốc khôn cùng ấy
Khiến kẻ thương quê mãi ngậm
ngùi
Ngô Minh Hằng
0 comments:
Post a Comment