Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa
Thursday, 25 September 2014
CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT TRONG LỊCH SỬ
Thursday, September 25, 2014
No comments
VC tập trung trẻ em ra đấu tố các
nạn nhân
Cuộc
cải cách ruộng đất (CCRĐ) của cộng sản Việt Nam (CSVN) bắt đầu từ năm 1949 đến
năm 1956, diễn ra ở Bắc Việt Nam. Sách
báo đã viết nhiều về CCRĐ, về phương pháp CCRD, về tội ác của Hồ Chí Minh (HCM)
và CSVN trong CCRĐ. Bài nầy xin đặt lại
cuộc CCRĐ trong khung cảnh lịch sử hiện đại
1.- TRƯỚC KHI CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
Sau
thế chiến thứ hai, tại Bắc Kỳ, mặt trận Việt Minh (VM) do đảng CS chỉ huy nhanh
tay cướp chính quyền và lập chính phủ tại Hà Nội ngày 2-9-1945 do HCM lãnh đạo. Trong khi đó, Pháp trở lui Việt Nam, chiếm
Nam Kỳ rồi tiến ra Bắc Kỳ. Hồ Chí Minh
liền thỏa hiệp với Pháp, ký hiệp ước Sơ bộ
(6-3-1946) tại Hà Nội và Tạm ước
(14-9-1946) tại Paris, hợp thức hóa sự hiện diện của Pháp ở Việt Nam.
Pháp
càng ngày càng áp lực VM và đòi kiểm soát an ninh Hà Nội, thì VM bất ngờ tấn
công Pháp tối 19-12-1946, để lãnh đạo VM có lý do chính đáng trốn khỏi Hà Nội,
tránh bị Pháp bắt. Việt Minh và HCM để lại
Hà Nội 4,000 quân tự vệ nhằm bảo vệ Hà Nội chống Pháp, thực chất là cầm chân quân
đội Pháp tại đây để lãnh đạo VM có thời giờ trốn chạy vào các chiến khu trên rừng
núi. Quân tự vệ chiến đấu anh dũng,
trong từng ngôi nhà được gần 2 tháng, cầm cự cho đến ngày 17-2-1947 mới hoàn
toàn rút lui. Đây cũng là kế hoạch của
HCM và VM, vì cuộc chiến đấu trong gần 2 tháng đã làm cho Hà Nội sụp đổ, nhà cửa
hư hại. Dân Hà Nội bỏ chạy lánh nạn chiến
tranh, về vùng nông thôn lân cận do VM kiểm soát. Việc làm cho Hà Nội sụp đổ hoang tàn đúng
theo “Lời kêu gọi đồng bào phá hoại để kháng chiến” do HCM đưa ra ngày
16-1-1947, một tháng trước khi cuộc chiến đấu ở Hà Nội chấm dứt. (Hồ Chí Minh toàn tập tập 5, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tt. 25-26.) “Lời kêu gọi đồng bào phá hoại để kháng chiến”
chính là kế hoạch “tiêu thổ kháng chiến”, với những khảu hiệu “Phá hoại để
kháng chiến”, “Tản cư cũng là kháng chiến” “Vườn không nhà trống”.
2.- CÁC GIAI ĐOẠN CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
Chủ
trương “Vườn không nhà trống” không hiệu quả đối với quân Pháp vì quân Pháp được
tiếp liệu dồi dào từ Nam Việt Nam. Ngược
lại “vườn không nhà trống” làm cho dân chúng thêm nghèo đói trong chiến tranh,
không có lúa gạo mà ăn, lấy thực phẩm đâu mà nuôi quân CS? Lương thực nuôi quân càng ngày càng cạn kiệt,
nên CSVN mở ra kế hoạch CCRĐ bằng sắc lệnh số 78/ SL ngày 14-7-1949, rất nhẹ
nhàng để nông dân cày bừa, tăng gia sản lượng nông nghiệp. Đây là giai đoạn CCRĐ lần thứ nhứt.
Giai
đoạn thứ hai vào năm 1950, CSVN ra sắc lệnh số 20/ SL ngày 12-2-1950, tổng động
viên toàn bộ "nguồn nhân lực
[người], vật lực [gia súc, nông cụ] và tài lực [tiền bạc] cho tổ quốc". Tiếp đó, ngày 22-5-1950, xuất hiện cùng một
lúc hai sắc lệnh CCRĐ số 89/FL và số 90/ FL, vẫn chưa nặng nể.
Giai
đoạn CCRĐ thứ ba bắt đầu bằng sắc lệnh ngày 20-4-1953, đăng trên Công báo CSVN ngày 20-5-1953. Giai đoạn thứ tư vào cuối năm 1953, CSVN ra sắc
lệnh CCRĐ ngày 4-12-1953 gồm 3 phần, 12 đề mục và 38 điều khoản.
Vào
giữa năm 1954, nước Việt Nam bị chia hai sau Hiệp định Genève (20-7-1954). Cộng sản
Việt Nam ở phía bắc và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam vĩ tuyến 17. Sau khi tái tổ chức chính quyền, tạm ổn định
tình hình, HCM ký sắc luật về CCRĐ giai đoạn thứ 5 ngày 14-6-1955, rất cứng rắn
so với các sắc luật trước. (Lâm Thanh Liêm, Chính
sách cải cách ruộng đất Việt Nam (1954-1994), Paris: Nhà sách và xuất bản
Nam Á, 1995, tr. 14.) Sau những cuộc thảm
sát “long trời lỡ đất”, CCRĐ đợt 5 của CSVN chấm dứt ngày 20-7-1956.
3.-
CỘNG SẢN CÀNG THÀNH CÔNG, CCRĐ CÀNG CỨNG RẮN
Các
giai đoạn CCRĐ chẳng những khác nhau về nội dung cải cách mà quan trọng hơn là
khác nhau về cách thi hành CCRĐ. Đặc biệt,
CS càng thành công trên chiến trường thì CCRĐ càng cứng rắn.
Trong
chiến tranh, khi thiếu lương thực nuôi quân, CSVN mở cuộc CCRĐ một cách nhẹ
nhàng, bằng sắc lệnh số 78/ SL ngày 14-7-1949, thành lập "Hội đồng giảm
tô", giảm thiểu đồng bộ tiền thuê đất, nhằm khuyến khích nông dân ra sức cầy
bừa, tăng gia sản lượng nông nghiệp, cung ứng nhu cầu đội quân CS càng ngày
càng đông.
Từ
năm 1950, CSVN được Trung Cộng viện trợ võ khí, quân nhu, quân dụng và cả kinh
tế nữa. Cộng sản bắt đầu chuyển qua phản
công trong chiến tranh. Từ đó, CSVN cần
thêm nhân lực, tăng cường quân đội, dân công tải đạn... Vì vậy gọi là để tiếp tục công cuộc CCRĐ,
CSVN ra sắc lệnh số 20/ SL ngày 12-2-1950, tổng động viên toàn bộ "nguồn nhân lực [người], vật lực [gia súc, nông cụ] và tài lực [tiền bạc] cho tổ quốc". Nhờ đó, CSVN dễ bắt lính, đưa cả phụ nữ đi
dân công, tải đạn. Kế hoạch đưa phụ nữ
đi dân công do tướng Trần Canh đưa ra khi qua làm cố vấn cho HCM năm 1950. (Trương
Quảng Ba, “Quyết sách trọng đại Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp”, đăng
trong Hồi ký của những người trong cuộc…”,
Nxb. Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002, Dương Danh Dy dịch, tr. 23.)
Trong
thời gian từ 1951 đến 1953, phương pháp CCRĐ cứng rắn dần, nhất là trong các
vùng hoàn toàn do CS kiểm soát. Tuy
nhiên, CS còn dè dặt, e ngại tiếng đồn trong quần chúng lan rộng, khiến người
ta sợ hãi, bỏ vùng CS mà “dinh tê”, về vùng do chính thể Quốc Gia kiểm soát, hoặc
di cư vào Nam năm 1954.
Ngày
20-7-1954, hiệp định Genève được ký kết. Đảng CSVN làm chủ miền bắc vĩ tuyến 17. Ngay khi vừa về Hà Nội ngày 15-10-1954, CSVN
ra các quy định nghiêm cấm báo chí: "Không
được chống chính phủ và chế độ; không được xúi giục nhân dân và bộ đội làm loạn;
không được nói xấu các nước bạn; không được tiết lộ các bí mật quân sự; không
được đăng bài vở có phương hại đến thuần phong mỹ tục." (Hoàng Văn
Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, Mặt
trận Bảo vệ Tự do Văn hóa, Sài Gòn 1959, tr. 31.)
Nắm
vững ngành truyền thông, không còn lo ngại dân chúng Bắc Việt có thể thông tin
liên lạc với bên ngoài lãnh thổ, CSVN mở lại cuộc CCRĐ “long trời lỡ đất”, tự
do hoành hành bằng phương pháp tàn bạo bất nhân nhất trong lịch sử Việt
Nam. Điều mà dân chúng rất lo sợ trong
CCRĐ lần nầy là bị quy vào thành phần địa chủ và bị đưa ra đấu tố trước tòa án
nhân dân (TAND).
Cuộc
đấu tố bắt đầu bằng đấu lý, rồi đấu lực, đấu pháp và đấu ảnh. Đấu ảnh khá lạ lùng trong lịch sử tòa án, xảy
ra trong trường hợp nạn nhân đã chết. Đội
CCRĐ đem hình ảnh hay một vật dụng tượng trưng (áo, quần...) của nạn nhân để đấu
tố. Nhân vật bị đấu ảnh nổi tiếng nhứt
là nhà cách mạng Phan Bội Châu. Ảnh của
ông bị đem ra đấu tố, rồi vứt ảnh vào chuồng trâu. (Theo lời kể của đại tá cộng sản Phan Thiệu
Cơ (cháu nội Phan Bội Châu) do Phan Thiện Chí viết lại trên báo Kiến Thức Ngày Nay số 50, Tp.HCM ngày
15-12-1990. Ngoài ra, Lê Nhân cũng kể lại
việc nầy trong thư viết từ Hà Nội ngày 05-12-2005 gởi cho Phan Văn Khải, lúc đó
là thủ tướng CS. (Đàn Chim Việt ngày 5-12-2005.)
(Người viết cũng được cháu nội Phan Bội Châu ở Canada xác nhận điều nầy
khi gặp nhau ở Toronto năm 2006.)
Các
biện pháp trấn áp, tra tấn, bắt đầu từ bỏ đói, bỏ khát, phơi nắng, phơi mưa, mắng
chửi, hành hạ, nhục hình, thậm chí đào một cái hố, bắt nạn nhân nằm xuống, rồi
bắt dân chúng tiểu và đại tiện lên nạn nhân, giựt tóc, đánh đập, gìm nước (rồi
kéo lên cho tỉnh lại), dùng tre nhọn xuyên thủng tay chân, thân thể. Có khi đội CCRĐ chôn nạn nhân xuống đất, chừa
cái đầu lên trên, dùng bò kéo lưỡi cày có răng nhọn ngang qua đầu nạn nhân cho
đến chết. Nhiều nạn nhân chứng kiến các
cuộc trấn áp dã man, sợ quá, lên cơn đau tim chết, hoặc tìm cách tự tử để khỏi
bị hành hạ.
Kết
quả theo một tài liệu trong nước, trong cuộc CCRĐ đợt 5 (1955-1956), tổng số
người bị quy và bị giết thuộc thành phần địa chủ trong CCRĐ là 172,008 người. Tài liệu nầy cho biết 123,266 người tức tỷ lệ
71,66% bị quy sai. (Đặng Phong, Lịch sử kinh tế Việt Nam tập II, 1955-2000,
Hà Nội: Nxb.Khoa Học Xã Hội, 2005, tr. 85.)
Đó mới chỉ là thiệt hại nhân mạng.
Quan trọng hơn nữa là lần nầy, do tự do hoành hành, cuộc CCRĐ hết sức khốc
liệt, đẵm máu, vô luân, đảo lộn văn hóa, đạo lý, đúng là “bại nhân nghĩa, nát cả càn khôn”. (Lời Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô
đại cáo”.)
4.- TRUNG CỘNG HAY CSVN ĐỘC ÁC?
Theo
dõi diễn tiến các cuộc CCRĐ, điểm dễ nhận thấy là trong hai đợt CCRĐ đầu tiên
(1949 và 1950), CSVN thực hiện CCRĐ để phục vụ nhu cầu lương thực, nuôi quân
trong hoàn cảnh chiến tranh. Sau đó,
CSVN thực hiện CCRĐ theo bài bản “thổ cải” của Trung Cộng. Nguyên vào đầu năm 1950, Hồ Chí Minh qua
Trung Cộng và Liên Xô xin viện trợ. Stalin
giao cho Mao Trạch Đông giúp đỡ CSVN. Từ
đó, Trung Cộng viện trợ và đáp ứng tối đa cho nhu cầu của CSVN, viện trợ võ
khí, quân nhu, quân dụng, kinh tế, cả cố vấn quân sự và cố vấn chính trị, trong
đó có cả cố vấn CCRĐ.
Sau
Đại hội 2 tại Tuyên Quang ra mắt đảng Lao Động (từ 11 đến 19-2-1951), CSVN cử
người sang Trung Cộng tham dự khóa học tập về chủ nghĩa Mác-Lê tổ chức tại Bắc
Kinh, nhưng chính là để học phương thức CCRĐ theo đường lối “thổ cải” của Trung
Cộng. (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho mẹ và quốc
hội, Nxb. Văn Nghệ [tái bản], California, 1995, tr. 164.)
Theo
các cố vấn Trung Cộng, Mao Trạch Đông đã nói “... Cái cây nó cong về bên hữu, ta muốn uốn nó cho ngay thì tất nhiên là phải
bẻ cong nó qua về bên tả, bên trái.
Buông ra nó trở lại là vừa.”
Các cố vấn Trung Cộng còn cho rằng:
“Không sợ quá trớn. Có quá trớn mới bớt lại mà ngay được. Đấu tranh ruộng đất là một cuộc cách mạng
kinh thiên động dịa. Trong một cuộc đảo
lộn lớn lắm của cuộc sống, có người chưa quen, họ kêu. Không có gì lạ cả. Ta đánh họ đau mà họ không kêu, đó mới đáng lấy
làm lạ chớ... Một xã có từng nầy bần cố
nông thì theo kinh nghiệm Trung Quốc, nhất định phải có bằng nầy địa chủ...”
(Nguyễn Văn Trấn, sđd. tr. 166.) Từ đó cuộc CCRĐ của CSVN trở nên cứng rắn, sắt
máu như mọi người đều biết. Vì vậy, nhiều
người cho rằng Hồ Chí Minh và CSVN thực hiện CCRĐ giai đoạn thứ 5 tàn bạo theo
mô thức Trung Cộng vì do sức ép của Trung Cộng.
Điều
nầy không ai phủ nhận. Tuy nhiên, nhìn thật
kỹ từ phía CSVN, bản thân Hồ Chí Minh và nhóm lãnh đạo CSVN chẳng những rất ưng
ý mô thức tàn bạo của Trung Cộng, mà còn cố tình làm mạnh hơn, không phải chỉ vì
CSVN vâng lời Trung Cộng, mà chính vì bản chất gian ác, Hồ Chí Minh và CSVN tự
ý cố tình làm như thế. Vì vậy, không thể
nói cuộc CCRĐ ác độc là do lệnh của cố vấn Trung Cộng, mà còn vì sự ác độc thú
tính của Hồ Chí Minh và lãnh đạo CSVN.
5.- ĐẤT ĐAI CỦA TOÀN DÂN DO NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ
Âm
mưu chính của CSVN là muốn xóa bỏ quan niệm tư hữu đất đai thâm căn cố đế của
nông dân Việt Nam, là giới rất bảo thủ và thủ cựu, đồng thời CSVN muốn áp đặt nền
nông nghiệp chỉ huy của chế độ CS, thực hiện chủ trương đất đai thuộc “quyền sở
hữu của toàn dân, do nhà nước quản lý”. Xin
hãy chú ý đến tổ chức hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) do CS bày ra sau
CCRĐ. Sau CCRĐ, CSVN chia đất cho nông
dân cày cấy, nhưng nông dân chưa kịp mừng vui, thì CSVN tổ chức HTXNN, lùa nông
dân vào HTX, buộc nông dân đem đất đã được chia và cả đất riêng nhỏ nhoi do tổ
tiên để lại, gia nhập vào đất HTX do nhà nước quản lý. Từ đây, nông dân hoàn toàn tay trắng, chẳng
còn đất đai, chỉ làm công cho HTX tức cho nhà nước CSVN, nghĩa là CSVN chẳng những
ăn cướp đất của địa chủ, phú nông mà ăn cướp cả đất của nông dân nghèo khổ hết
sức bài bản vào tay CSVN.
Một
khi đã quản lý đất đai canh tác ở nông thôn, đảng Lao Động (LĐ) quản lý luôn
kho lúa gạo toàn dân, nghĩa là dễ dàng làm chủ nền kinh tế nước nhà, bởi vì nền
kinh tế Việt Nam lúc đó hoàn toàn dựa trên nông nghiệp. Quản lý lương thực đồng thời, còn giúp quản
lý hộ khẩu (gia đình) vì gạo bán theo sổ hộ khẩu. Đó là lý do chính của cuộc CCRĐ giai đoạn thứ
5 vào năm 1955.
6.- THIẾT LẬP HỆ THỐNG LÃNH ĐẠO CS Ở NÔNG THÔN
Âm
mưu thứ hai là cuộc CCRĐ nhắm xóa bỏ hệ thống cấu trúc xã thôn cũ và thay bằng
lãnh đạo CS. Tổ chức xã thôn Việt Nam có
từ lâu đời và rất phức tạp, gồm có (bất thành văn): Ban cố vấn, Hội đồng kỳ mục, và Hương hội. Tổ chức xã thôn cũ còn có đặc tính chung là
tự trị. Tục ngữ có câu: “Luật vua thua lệ làng”. Chẳng những tự trị, sinh hoạt xã thôn rất dân
chủ. Các việc quan trọng trong làng đều
được đem ra bàn bạc trong các kỳ họp hằng tháng tại đình làng để hỏi ý
dân. Điều nầy đi ngược lại với lối cai
trị độc tài của CS. Do đó, CCRĐ với những
màn đấu tố dã man nhằm xóa bỏ hẳn cấu trúc xã thôn với những tổ chức và nấc
thang giá trị văn hóa cũ, để thay thế bằng tổ chức xã thôn mới, hoàn toàn thuộc
quyền kiểm soát của cán bộ đảng viên CS.
Giới lãnh đạo xã thôn cũ lại là giới khá giả trong làng, có ít nhiều ruộng
đất, nên dễ bị CS quy vào thành phần địa chủ, và trở thành đối tượng đấu tố
trong cuộc CCRĐ do đội CCRĐ đưa ra đấu tố, đúng theo chủ trương: “Trí, phú, địa, hào; đào tận gốc, trốc tận rễ”,
mà cộng sản quyết tâm càn quét toàn bộ giới lãnh đạo cũ trong làng.
7.- CHUẨN BỊ TẤN CÔNG NAM VIỆT NAM
Âm
mưu thứ ba là CSVN tổ chức thanh lọc kỹ càng dân chúng Bắc Việt Nam, ổn định
tuyệt đối nông thôn Bắc Việt Nam. Hồ Chí
Minh vốn là một gián điệp của Đệ tam Quốc tế Cộng sản, đã học ngành tình báo tại
Moscow (Liên Xô). Sau năm 1954, Hồ Chí
Minh và CSVN lo sợ chính phủ Quốc Gia Việt Nam và các tổ chức hay đảng phái
theo chủ nghĩa dân tộc hoặc các tôn giáo, gài người ở lại đất Bắc sau hiệp định
Genève. Xa hơn, CSVN nghi ngờ các thế lực thù địch
cho người trà trộn trong nhóm miền Nam tập kết ra Bắc để phá hoại hoặc làm tình
báo. Vì vậy, tiến hành CCRĐ là phải truy
xét, soi rọi lý lịch ba đời nông dân, điều tra cặn kẽ, không bỏ sót bất cứ một
gia đình hay nhân vật nào bị nghi ngờ có thể nằm trong mạng lưới điệp viên của
miền Nam.
Cuộc
CCRĐ áp đặt nông thôn Bắc Việt Nam với khoảng 70% dân số, dưới quyền thống trị
của CSVN,
mở
đầu cho kế hoạch áp đặt sự toàn trị của CSVN ở Bắc Việt Nam sau 1954, bằng việc
cải cách công thương nghiệp ở thành phố, khóa sổ báo chí (vụ Nhân Văn Giai phẩm)
và thanh trừng nội bộ đảng CSVN (Vụ án chống đảng), đi đến chỗ ổn định tuyệt đối
Bắc Việt Nam, nhằm chuẩn bị tấn công Nam Việt Nam.
8.- ĐOẠN KẾT CCRĐ: THỜI CƠ CHO LÊ DUẪN
Trong
khi đó, Lê Duẫn đứng đầu Trung ương cục miền Nam (đổi thành Xứ ủy Nam Bộ tháng
10-1954, rồi trở lại TƯCMN tháng 1-1961).
Lê Duẫn đã dày công xây dựng cơ sở CS ở
miền Nam trong thời gian chiến tranh (1946-1954). Tuy nhiên, thành tích nầy không sáng chói bằng
giới lãnh đạo CS ở miền Bắc. Vì vậy sau
năm 1954, Lê Duẫn trốn lại ở miền Nam,
quyết chí đánh miền Nam, vì nếu CSVN đánh miền Nam, thì quyền lãnh đạo chiến
tranh chắc chắn phải vào tay Lê Duẫn. Vì
tham vọng quyền lực, nên Lê Duẫn nóng lòng đánh miền Nam, nhằm tạo hào quang
cho chính mình.
Điểm
đáng chú ý là tuy phản ứng của dân chúng đối với sự tàn bạo của cuộc CCRĐ năm
1956 bị dẹp yên, nhưng để lấy lòng dân chúng, hội nghị Trung Ương Đảng LĐ lần
thứ 10 từ tháng 9 đến tháng 11-1956 quyết định Trường
Chinh, trưởng ban chỉ đạo CCRĐ trung ương, rời chức tổng bí thư đảng LĐ tuy vẫn
còn trong Bộ chính trị. Hồ Chí Minh, chủ tịch đảng LĐ, kiêm nhiệm
chức vụ nầy.
Lúc
đó, Lê Duẫn đang nằm vùng ở miềnNam, không lãnh đạo CCRĐ giai đoạn 5 ở ngoài Bắc,
không bị tai tiếng vì vụ CCRĐ, nên được gọi về Hà Nội ngày 4-7-1957, giữ chức ủy
viên thường vụ bộ chính trị đảng LĐ, phụ tá cho Hồ Chí Minh. Sau đó, đại hội III đảng LĐ từ 5-9 đến
10-9-1960 bầu Lê Duẫn làm bí thư thứ nhất (không phải là tổng bí thư) thay Trường
Chinh. Như thế có nghĩa là kết cục của
CCRĐ năm 1956 tạo cơ hội cho Lê Duẫn thay Trường Chinh. Nhờ đó Lê Duẫn thăng tiến nhanh chóng.
Ngày
nay, một số người cho rằng việc CCRĐ do Hồ Chí Minh chủ trương, còn việc tấn
công Nam Việt Nam do Lê Duẫn thúc đẩy, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp không muốn
đánh Nam Việt Nam (?). Xin lưu ý một điểm
quan trọng: chủ trương tấn công Nam Việt Nam do chính Hồ Chí Minh và Võ Nguyên
Giáp đưa ra đầu tiên tại hội nghị Liễu Châu (Quảng Tây) từ 3 đến 5-7-1954 với
thủ tướng Trung Cộng là Chu Ân Lai, trước khi hiệp định Genève được ký kết. Lúc đó
Lê Duẫn còn ở trong Nam và không tham dự hội nghị nầy. Như vậy, không thể nói là Hồ Chí Minh không
chủ trương tấn công Nam Việt Nam mà phải khẳng định chắc chắn rằng chủ trương tấn
công miền Nam là do tham vọng của Hồ Chí Minh và toàn thể tập đoàn lãnh đạo
CSVN, muốn thống trị toàn cõi Việt Nam. Cấp
bậc càng cao, trách nhiệm và tội lỗi càng nhiều.
KẾT
LUẬN
Đặt
các giai đoạn CCRĐ từ 1949 đến 1956 trong khung cảnh lịch sử, những điểm dễ thấy
là: 1) Nội dung và phương pháp các giai đoạn CCRĐ do CS thực hiện thay đổi theo
hoàn cảnh chiến tranh. Lúc đầu (năm
1949), nhẹ nhàng để tăng gia lương thực nuôi quân, rồi khi CS siết chặt vùng
cai trị, thì CCRĐ cứng rắn dần dần, và trở nên tàn bạo theo sự thành công của
CS trên chiến trường. Cuộc CCRĐ lên cực
điểm dã man sau khi CSVN chiếm được miền Bắc Việt Nam sau hiệp định Genève ngày 20-7-1954. 2) CCRĐ khốc liệt không phải chỉ do sự chỉ đạo
và hỗ trợ của cố vấn Trung Cộng, mà do chính lãnh đạo CSVN tự ý muốn đẩy mạnh
CCRĐ đến độ tàn bạo để thực hiện chủ quyền và chủ thuyết CS. 3) CCRĐ
nằm trong tiến trình của CSVN cải đổi nền nông nghiệp tư nhân tự do qua nông
nghiệp chỉ huy của CS theo chủ trương “đất đai là tài sản của toàn dân do nhà nước
quản lý”. 4) CCRĐ nhắm xóa bỏ hệ thống lãnh đạo xã thôn cũ và thay bằng lãnh đạo
của CSVN. 5) CCRĐ cấp bách ổn định Bắc Việt Nam, để tiến hành chiến tranh xâm
lăng Nam Việt Nam của giới lãnh đạo CSVN.
6) Kết cục của CCRĐ đưa đến sự
thoái lui tạm thời của Trường Chinh, lý thuyết gia hàng đầu của CSVN, tạo thời
cơ cho Lê Duẫn tiến lên.
Cuối
cùng, một kẻ giấu mặt trong CCRĐ là Trung Cộng.
Trung Cộng xúi giục CSVN thực hiện CCRĐ một cách tàn bạo, vì Trung Cộng
ngầm chủ trương tàn phá Việt Nam. Việt
Nam càng bị tàn phá, càng yếu kém, thì càng có lợi cho Trung Cộng.
TRẦN
GIA PHỤNG
(Toronto,
23-9-2014).
Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!
.
.
0 comments:
Post a Comment