LỜI
NÓI ĐẦU
Thưa Quí Bạn đọc,
Hơn bốn mươi năm đã qua đi (từ 1971) như một cái chớp mắt.
Đời người ngắn lại vì thời gian đi quá mau. Ngồi suy tưởng lại 21 năm thiên
đàng Cộng hòa miền Nam, tôi phải thành thực nhận rằng từ vài trăm năm vừa qua ở
nước ta, không có chế độ chính trị nào tương đối tốt đẹp bằng chế độ Cộng Hòa
Miền Nam Việt Nam (Republic of Vietnam) kể từ 20-7-1954 cho đến 30-4-1975.
Tại
sao tôi dám khẳng định như thế? Có lẽ không phải riêng tôi mà hàng triệu người
cùng nhận xét như vậy dù miền Nam có quá nhiều cuộc đảo chính, chỉnh lý; rất
nhiều phá hoại của Việt gian Cộng Sản (VGCS) và bọn đốn mạt tay sai nằm vùng
(BTSNV), rất nhiều trận long trời lở đất như Tết Mậu Thân, tái chiếm cổ thành
Quảng Trị, Bình Long, An Lộc v.v...do Việt Cộng gây ra.
Từ nhận định nào tôi
dám nói như thế? Đó chính là vì Miền Nam có chế độ Dân Chủ, Tự Do, tôn trọng
Nhân quyền và Dân quyền. Nhờ lá “bùa hộ mạng” này, nhiều nước Dân Chủ Tây
Phương: Anh, Mỹ, Pháp, Tây Ban Nha, các nước ở Âu Châu, Nhật bản, Đài Loan, Hàn
quốc, Thái Lan v.v... đã ăn nên làm ra, kinh tế tiến vượt bực, nhân tài nhan nhản
để phát minh ra nhiều máy móc, thuốc men, dụng cụ, kĩ thuật tô điểm cho đời sống
nhân loại thêm tươi đẹp, từ đó mọi người trên trái đất, không phân biệt chế độ,
mầu da, sắc tộc và quốc gia đã được thụ hưởng những hoa trái của Văn minh mà
trước kia chưa từng bao giờ có. Lâý một thí dụ: thuốc trụ sinh (anti-biotic, BS
Flemming, Anh quốc), thuốc chủng ngừa bệnh đậu mùa (small-pox), thuốc cầm ngay
bệnh thổ tả (cholera)v.v....Nếu những bộ óc siêu việt chưa phát minh, tìm tòi
ra những thứ thuốc này thì ngay chính chúng ta, có khi chúng ta đã bị “lôi
thôi” (có khi chết, như một số đồng bào, người thân của chúng ta) với những căn
bệnh đó rồi.
Những phát minh này
trong thế kỉ vừa qua đa phần là do các nhà Bác học Tây Phương trong khi Liên
Xô, từ 1917 chỉ chuyên lo về sản xuất vũ khí để khống chế thế giới, các nước Cộng
Sản Đông Âu cũng thế và CS cũng chỉ tìm tòi mọi phương cách để kìm kẹp, đàn áp,
toàn trị con người mà ngày nay, hãy còn 4 nước theo chủ nghĩa Mác Lê, tình trạng
người dân trong các nước ấy mất hết quyền Tự do, Dân chủ như thế nào thì quí bạn
đọc đều đã biết.
Trung cộng mới nổi
lên vài chục năm nay về kinh tế nhưng Trung cộng cũng được hưởng biết bao thành
quả do chất xám của Nhân loại mang đến. Các kĩ thuật, máy móc, điện tử, không
gian, vũ khí chiến lược, ngay cả thuốc men của Tây Phương giúp người Trung hoa
không chết yểu như xưa như thời Trung hoa vẫn còn dùng “thuốc bắc” là những thứ
rễ, lá để chữa trị. Rễ, lá có chất bổ, điều trị những bệnh nhẹ nhưng không thể
diệt vi trùng như thuốc Tây.
Tất cả những phát minh
đó có được là nhờ ở một phương thuốc rất hiệu nghiệm, lá bùa rất quí báu, đó là
chế độ Dân Chủ, Tự Do, tôn trọng Nhân Quyền đích thực, không lừa mị, giả dối.
Dân Chủ Tự Do tôn trọng quyền tư hữu, khuyến khích con người làm việc hăng say
vì người được hưởng những thành quả của
công việc mình làm một cách xứng đáng và công bằng, không như chế độ tập quyền,
tập trung của cải của Cộng sản chỉ cốt phục vụ một đẳng cấp ăn trên ngồi trốc của
đảng, đảng phán ra một lời là khuôn vàng thước ngọc cho toàn dân trong khi
chính những kẻ lèo lái đảng đó ngu dốt, vô tài, bất đức, bất xứng, tham ô,
nhũng lạm nhưng chỉ vì lưu manh, luồn lọt quan thầy Nga-Tàu chiếm được chỗ ngồi
quan trọng trong đảng, được quan thầy dùng súng AK, còng số 8, và các trại tù
đói khổ kinh hoàng để bảo vệ, chống lưng cho những kẻ đó không bị sự trả thù của
nhân dân, cứ sống ngang nhiên mà phục vụ cho quan thầy đô hộ nước ta.
Những cái gọi là
khuôn vàng thước ngọc, 95% đã sai ngay từ căn bản lý luận (thí dụ: năm 1945 và
năm 1975, đốt hết sách vở không phải của CS, bỏ học Pháp, Anh ngữ v.v...) . Vì
thế, dò dẫm hơn nửa thế kỉ mà những chóp bu Việt Cộng ở Bắc bộ phủ vẫn như người
lòa đi trong sa mạc, không biết cái gì đúng, cái gì sai, cái gì hay, cái gì dở
trong khi nhân loại (Hoa Kỳ) đã lên tới sao Hỏa. Đảng phán ra, nếu kẻ nào bạo
phổi dám phê bình thì không bị tru di
tam tộc cũng tù chung thân! Đó là cái tuyệt chiêu của thiên đường xã nghĩa làm
cho dân nước VN ngày nay khổ sở, lầm than, đói nghèo hơn bất cứ dân tộc nghèo
khổ nào trên hành tinh này. Lấy thí dụ một nước nhỏ xíu như Singapore với dăm
triệu dân, diện tích 225 dặm vuông (chỉ bằng một tỉnh nhỏ của ta, hình vuông mỗi
cạnh 15 miles), dưới quyền lãnh đạo của Thủ tướng Lý quang Diệu, chỉ trong ba
chục năm nay họ tiến vượt bực, lợi tức đầu người một năm (GDP) là 32,000 đôla Mỹ
trong khi người dân ta lợi tức bình quân chỉ 600 đô/năm (thăm dò của IMF); nếu
Việt Nam muốn tiến bằng họ phải cần 197 năm trong khi họ cứ đứng tại chỗ chờ
mình còn nếu họ vẫn cứ tiến thì chưa biết đến bao giờ. (GDP của Singapore tới
nay 2013 đã trên 40,000 USD/năm).
Như đã nói, thế kỉ
21 này, con người đã lên tới Sao Hỏa, đang khám phá hàng trăm thiên hà khác,
trí óc con người đã vượt ra khỏi cái tầm thường để tìm hiểu vũ trụ, trái đất;
con người khác xa khi xưa, ngay thế kỉ trước. Những chế độ chính trị nào thực
hành Dân Chủ, Tự Do, con đường duy nhất để đi đến tiến bộ, an hòa và hạnh phúc
của Nhân loại thì chế độ đó tồn tại, vững vàng. Ngược lại, những chế độ kìm kẹp
con người, coi con người như đàn súc vật cần phải chăn dắt hàng ngày, hàng giờ,
tước bỏ hết quyền tự do Dân chủ của con người, những chế độ đó phải sụp đổ, sớm
hoặc muộn mà thôi.
Điển hình là chế độ
Xã hội chủ nghĩa Mác Xít khởi xướng từ Lênin, Stalin kìm kẹp con người trong
Liên bang Xô viết và các nước Đông Âu, chế độ đó đã sụp đổ tan tành đầu thập
niên 90. Bức tường Ô Nhục Bá Linh đã bị dân chúng nổ mìn, mang búa tạ ra đập bể
để dân Đông Đức khỏi chết ngạt trong cái nhà tù Xã nghĩa thối tha toàn xác chết,
AK và lựu đạn. Đông Đức, Liên Xô, Ba Lan, Lỗ ma ni, Bulgaria và nhiều nước Cộng
sản Đông Âu đã đối diện với tử thần, với đói rét, phải mau mau vượt thoát ra khỏi
Xã Nghĩa để cầu cứu các người anh em trong thế giới Tự Do cứu giúp. Tây Đức đã
tốn nhiều tỉ đồng Mã (Mark) giúp cho Đông Đức sống còn là một bằng chứng cụ thể
và đảng Cộng Sản Đông Đức đã tự động giải thể, tôn trọng cuộc Tổng tuyển cử
toàn quốc, chọn người có tài trí, có tâm huyết vào Quốc Hội nước Đức thống nhất
để viết ra một Bản Hiên Pháp làm giềng mối, căn bản cho mọi Luật pháp sau này.
Bản Hiến Pháp của nước Đức đã lựa chọn chế độ Dân Chủ Tự Do chính là thể hiện
lòng mong ước của toàn dân Cộng Hòa Liên Bang Đức vậy.
Trong 21 năm sống tại
miền Nam, tôi thiển nghĩ người miền Nam nói riêng, người Việt Nam nói chung tức
là có cả miền Bắc, chúng ta đã làm không biết cơ man nào là những sai lầm nên kết
cục, ngày nay, nước Việt Nam của chúng ta tan tành ra như thế này.
Sau đây, tôi sẽ lần
lượt trình bày cùng quí bạn những gì tôi đã thấy, đã nghĩ, đã sống trong 4 năm
sau cùng của miền Nam, từ 1971-1975, tức là nhiệm kỳ Dân biểu Pháp nhiệm II,
tôi đã được cử tri tín nhiệm vào ngày bầu cử 29-8-1971, cách đây 41 năm.
Sự việc tôi trình
bày là có thật, do nhiều nhân chứng và cả chính tôi chứng kiến, không thêm,
không bớt, e làm sai lạc lịch sử của nước nhà. Lịch sử dân tộc nào cũng rất cần
tôn trọng sự thật để cháu con sau này nhìn vào đó làm một tấm gương, làm tốt,
tránh xấu, giữ nước và xây dựng nước.
Cũng có những sự việc
liên hệ đến một hay nhiều cá nhân, đoàn thể, tôn giáo, những nhà tu hành hoặc
không phải tu hành mà chỉ mặc cái áo đen hay áo vàng mập mờ đánh lận con đen,
làm ung thối cả một chế độ, tiếp tay cho kẻ thù, hoặc làm ung thối cả một tôn
giáo hay đoàn thể. Khi đọc xong bài chót, quí bạn đọc có thể công khai lên tiếng
trên các Diễn Đàn nếu những sự việc chúng tôi trình bày (theo quí bạn) là không
đúng sự thực. Chúng tôi xin nhận lỗi nếu chúng tôi có lỗi sơ sót hay viết sai
nhưng với tôi, tấm lòng thành luôn luôn tôn trọng Sự thật và Lẽ phải là phương
châm của tôi, nếu đó là những sự thật không thể chối cãi thì tôi xin quí bạn
vui lòng chấp nhận.
VIỆT NAM CÓ CẦN HAI CUỘC CHIẾN 1945-1954
v à 1954-1975 ?
Câu trả lời là: Không, hoàn toàn không.
Một ký giả Hoa Kỳ bảo
tôi:
-
Nước Việt Nam là
quốc gia mà thế giới chú ý đến nhiều nhất. Nhưng nói đến VN, người ta không có
gì để nói nhiều bằng chiến tranh, nhất
là hai cuộc chiến
huynh đệ xâu xé nhau 1945-1954 và 1954-1975.
Ta cần giở lại vài
trang sử cũ:
Ngày 19 tháng 12 năm 1946,
Hồ chí Minh, với tư cách là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà đã tuyên
chiến với nước Pháp vì Hồ chủ trương phải có chiến tranh như Lênin từng nói:
“Chiến tranh đẻ ra cách
mạng” và cách mạng đẻ ra đấu tranh giai cấp, đấu tranh giai cấp để tiêu diệt
cho bằng hết “trí, phú, địa, hào” (đào tận gôc, trốc tận rễ) để chỉ còn một
giai cấp vô sản chuyên chính lên nắm quyền cai trị. Giai cấp vô sản chuyên
chính đó không thực sự là giai cấp vô sản nghèo rớt mồng tơi nhưng là chính Hồ
và đảng viên Cộng Sản (mạo nhận), cha truyền con nối, giầu bạc tỉ đô-la, thành
Tư bản Đỏ! Hãy coi Bắc Triều tiên, Cuba, Việt Nam...vả Trung Cộng (mới đây vợ
Bạc hy Lai gửi ra ngoại quốc qua một người Anh, Neil Heywood, 6 tỉ đô-la, bài
viết về tài sản (bạc tỉ đôla) của gia đình TT Trung cộng Ôn gia Bảo lãnh giải
thưởng Pulitzer).
Nhưng Hồ, con quan huyện
Nguyễn sinh Sắc, Hồ nằm trong diện “quan lại cường hào ác bá” khi xưa (chứ
không phải vô sản chuyên chính), danh từ chỉ chung những kẻ có chức quyền thời
Pháp thuộc đã đè đầu cỡi cổ dân chúng như Nguyễn sinh Sắc khi ông ta say rượu
đánh chết người, bị triều đình phạt đánh trăm hèo nhưng vì nhờ người thần thế
nói với vua quan nhà Nguyễn cho, ông ta chỉ bị lột chức quan huyện về làm dân
dã, túng đói nên con Nguyễn sinh Sắc tức là Nguyễn sinh Cung (hay Cong, tức
Nguyễn tất Thành, Hồ Chí Minh, Nguyễn ái Quốc, Trần dân Tiên T. Lan, Lin (tên
Nga) phải viết thư cho nhiều cấp chức quyền xin rủ lòng thương cha y (Nguyễn
sinh Sắc) mà ban cho Nguyễn sinh Sắc một chức nhỏ để có tiền sống qua ngày.
Cũng bởi cảnh túng quẫn, Hồ
xuống tầu của Tây (Admiral LaTouche Treville, năm 1911) xin làm bồi, để qua Paris, rồi Hồ làm đơn xin vào học trường thuộc địa
để ra làm quan cho Tây thuộc địa nhưng bị Chính phủ Pháp từ chối, có lẽ vì
tiếng Pháp của Hồ còn quá yếu, không “qualify” cho một sinh viên trường thuộc
địa của Pháp, Hồ chưa học xong bằng Tiểu học. (Sau đó, Hồ đi dự Hội nghị Quốc
Tế Cộng Sản, Hội nghị nói tiếng Pháp, nhưng Hồ chỉ nghe lõm bõm câu được câu
chăng, chính vì thế mà Hồ làm xằng. Hồ
cũng không phân biệt được Đệ II và Đệ III quốc tế là thế nào.).
Bị từ chối không được thâu
nhận vào trường đào tạo quan lại của Pháp, Hồ cay cú nhục nhã, bi phẫn lao đầu
vào làm tôi tớ cho Liên Xô để kiếm miếng sống, hết ở Pháp lại sang Nga
(Moscow), lĩnh lương tháng (9 rúp) của CS quốc tế, rốt cuộc, Hồ chẳng hiểu đệ
tam với đệ nhị CS quốc tế là cái gì, xung phong làm tên lính tiền phong cho CS
quốc tế đệ tam, lôi kéo nhiều triệu thanh niên nước Việt vào làm lính Lê Dương
đánh thuê cho CS mà nước Việt Nam thân yêu của chúng ta bị Mác-Lê-Mao-Hồ dày
đạp, nghiền nát thê thảm như ngày hôm nay, cộng thêm cái họa diệt vong là cái
giải hình chữ S ấy đã và sẽ thuộc hoàn toàn về bá quyền Tân thực dân Trung quốc
(neo-colonialism) vốn xưa nay, từ thời con chó sói đói Mã Viện (40 A.D), thèm
nhỏ rãi, coi nước Việt Nam như một miếng thịt bò còn tươi rịn máu.
Dân tộc Việt phải nhớ nằm
lòng một điều hết sức quan trọng là, nếu Hồ không khai chiến với nước Pháp
thì chỉ 3 năm sau, tức ngày 8-3-1949, Hoàng Đế Bảo Đại kí kết Hiệp Ước Elysée
tại điện Elysée vớiTổng Thống Vincent Auriol Pháp quốc. Nước Pháp trao trả Độc
Lập cho Việt-Miên-Lào (Đông Dương) mà các nước này không tốn một nhân mạng, một
đồng bạc của Quốc gia, như tất cả các nước Á-Phi bị đô hộ được hưởng.
Pháp trao trả qua
tay Hoàng Đế Bảo Đại, lúc đó là Quốc Trưởng nước Việt Nam (chứ không qua tay
Hồ). Điều ấy đã được minh thị bằng Sắc Lệnh của TT Pháp, không ai có thể chối
bỏ được cũng như nhiều nước nhược tiểu khác, sau khi thế chiến II chấm dứt, các
nước đô hộ đã trả Độc lập cho các nước bị trị vì đó là xu thế chính trị thời
đại, các đế quốc trước kia xâm lăng chiếm đất bắt buộc phải trả lại như quốc tế
minh định (Hội Nghị Yalta). TT Hoa Kỳ Franklin Delano Roosevelt (1882-1945) là
nhân vật hết sức chú tâm đến vấn đề trọng đại đó.
Vậy có nghĩa, nếu Hồ không
tuyên chiến với Pháp thì dân tộc VN không có cuộc chiến tranh 1946-1954, không
phải tiêu thổ kháng chiến, đồng không nhà trống, chết hàng triệu sinh linh và
bị tàn phế hàng triệu khác. Sự hi sinh ấy ngày nay quá vô nghĩa vì người dân
Việt không phải chết cho đất nước Việt mà chết cho Liên Xô-Trung Cộng và khối
CS quốc tế. Kẻ tôi tớ cho chúng sai bảo để đày đọa dân Việt chính là Hồ Chí Mén
(GS Hồ tuấn Hùng viết sách Hồ chí Minh sanh bình khảo, nói rằng y là người Hẹ,
do TC cài vào chứ Nguyễn sinh Cong đã chết vì bệnh năm 1932. Khi cô Huỳnh thị
Thanh Xuân, 15 tuổi, bị Hồ cưỡng dâm tại Bắc bộ phủ năm 1964, nay cô cũng kể
lại rằng “bác nói giọng lơ lớ rất khó nghe” có phải là người Hẹ học nói tiếng
Việt nó ra thế?)
Cũng từ cuộc chiến tranh 9
năm đó 1945-1954 mà xẩy ra cuộc chiến tranh 1954-1975 làm chết nhiều triệu đồng
bào, hàng triệu tàn phế, tổng cộng từ năm 1945 đến 1975, gần 10 triệu dân Việt
đã nằm xuống (Lê Duẩn xác định với đài BBC), bao tài sản một đời mồ hôi nước
mắt của dân chúng bỗng chốc thành tro bụi. Riêng Cải Cách Ruộng Đất rập theo
khuôn và chỉ thị của Liên Sô và Trung cộng đã giết hơn nửa triệu nông dân Bắc
Việt. Số ruộng tịch thu của nông dân để làm Hợp tác xã không kể sao cho xiết.
Chưa dân tộc nào trên thế giới đau khổ như dân tộc Việt chỉ bởi cái quái thai
Hồ chí Minh. Sự đau khổ đoạ đày đó còn kéo dài hàng trăm năm sau khi Việt Cộng
sụp đổ bởi y đã đầu độc cả mấy thế hệ thanh niên, bỏ hết luân thường đạo lý,
tôn giáo, văn hoá cha ông ngàn năm để lại. Nước Việt Nam ngày nay, sau 80 năm
dưới ách độc tài toàn trị của đảng Việt cộng (từ 3-2-1930, khi Hồ theo lệnh
Liên Sô thành lập đảng Cộng sản Đông Dương), nước ta đã mất hết, từ đất, biển
cho đến tâm thức con người. Và chính vì Hồ tặc và bộ hạ mà hàng triệu người
Việt đã chết oan mạng vì cái tâm độc ác rắn rết và chủ yếu bán nước cầu vinh,
làm tay sai cho Nga-Tàu của Hồ chí Minh và đồng bọn.
@@@
Sơ Lược Về Cuộc Bầu Cử Hạ Nghị Viện Năm 1971
Tôi
xin có đôi dòng về cuộc bầu cử Hạ Nghị Viện năm 1971.
Năm
1966, toàn dân miền Nam đã đi bầu Quốc Hội Lập Hiến. Quốc Hội này kéo dài một
năm, đã thảo xong Hiến Pháp cho nước Việt Nam Cộng Hòa, với thể chế Dân chủ,
tôn trọng các quyền Tự do, tài sản, tính mệnh của mọi công dân. Bản Hiến Pháp
này nói lên tính cách độc lập của QG và nền văn minh văn hóa của miền Nam không
thua bất cứ một quốc gia dân chủ văn minh nào trên thế giới.
Thi hành Hiến Pháp,
năm 1967 toàn dân bầu Hạ Nghị Viện Pháp
nhiệm I, sau dó 4 năm HNV này mãn nhiệm, toàn dân lại đi bầu HNV pháp nhiệm II,
ngày 29-8 năm 1971 và chính là pháp nhiệm tôi đắc cử.
Cá nhân tôi, nguyên là Giáo Sư Toán
Lý Hóa Trung học (từ lớp 10 trở xuống) từ năm 1959 tại nhiều trường Trung học ở
Sàigòn. Từ 1965, sau khi đậu Cử Nhân Văn chương và Triết học tại Đại học Văn
Khoa Sàigòn, tôi chuyển sang dạy Triết Học, Quốc văn và Anh văn các lớp thi Tú
Tài II và Tú Tài I tại nhiều Trung học tại
Sàigòn-Gia Định, tôi đã được đồng bào thương mến dồn phiếu cho, đắc cử Dân Biểu
pháp nhiệm II, đơn vị 1 Gia định ngày 29-8-1971. Trước đó tôi cũng đã là một
Nhà văn, một Nhà Thơ, một nhà báo viết cho nhiều tờ báo ở Sàigòn và là Chủ bút
Bán Nguyệt san Tinh Thần Nha Tuyên Úy Công giáo QLVNCH tại Sàigòn.
Đầu
tháng 9-1971, khi tôi vào Hạ Nghị Viện nhậm chức thì gặp Luật sư Trần văn
Tuyên, cũng đắc cử Dân Biểu (DB) khóa đó tại Sàigòn. LS Trần văn Tuyên chính là
nhân vật trong câu chuyện của tôi với bạn đọc hôm nay.
Luật Sư Trần Văn Tuyên
Tôi không biết nhiều về LS Trần văn Tuyên, tôi giao du
với ông cũng không nhiều vì ở trong Hạ Nghị Viện (HNV), chúng tôi phải họp hành
tối ngày, thảo luận và biểu quyết các Dự luật do Hành pháp đệ qua hoặc làm các
Luật mới theo nhu cầu của thời cuộc.
LS Trần văn Tuyên khi xưa đã là Thủ
lãnh Luật sư đoàn, một lãnh tụ của Việt quốc (VNQDĐ), tính tình ông cởi mở, dễ
chịu và là một khuôn mặt trí thức miền Nam lúc đó.
Khởi
đầu, khi thành lập các Khối, ông Tuyên được bầu làm Trưởng Khối Dân tộc Xã Hội (Đối lập với Hành pháp, tức TT Nguyễn văn
Thiệu, ngay cái tên đã ló mòi Cộng sản).
Sau
này khi sinh hoạt, chúng tôi mới biết ra những người đứng đàng sau giật giây Khối
Đối lập là một Nhóm Dân biểu Cộng sản nằm vùng (một số do Ấn Quang đưa vào bằng
bầu cử) hoặc chưa phải là CS nhưng là thân Cộng, hoặc một đôi người không thích
CS nhưng cũng không ưa ông Thiệu, không bỏ phiếu ủng hộ ông ta trong những Dự
luật.
Khối đối lập này gồm rất đông, tôi chỉ nhớ tên
một số như Phan xuân Huy, Kiều mộng Thu, Nguyễn ngọc Nghĩa, Hồ văn Minh, Hồ ngọc Nhuận, Đinh văn Đệ
(không vào Khối này nhưng bỏ phiếu y như Khối này), Hồ văn Kỳ Trân, Võ long Triều
(chủ nhiệm báo Đại Dân tộc của Việt Gian CS), Lý trường Trân, Trần văn Thung,
Nguyễn công Hoan, Hồ ngọc Cứ, (Dương văn Ba, Ngô công Đức đều CS nằm vùng, từ
khóa I, thất cử khóa II, Ngô công Đức, chủ nhiệm báo CS Tin Sáng), Nguyễn văn
Phước (2 người trùng tên), Lý quý Chung (chủ trương báo CS Điện Tín) , Nguyễn hữu
Chung, Đoàn Mại, Nguyễn hữu Thời, Phan Thiệp, Nguyễn công Hoan, Trần văn Sơn
v.v...
Đứng
bên cạnh, bỏ phiếu hầu hết giống như Khối
Đối lập này là Nhóm Dân biểu Quốc Gia Hạ Viện (DBQGHNV), đứng đầu là đại Việt
gian CS (người Công Giáo, anh rể Ngô công Đức) Nguyễn văn Binh, cựu Quận trưởng
Gò Vấp (đi đâu y cũng tự xưng là cháu Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, ông TGM
này bây giờ lòi đuôi chồn ra là CS chính gốc nằm vùng! tôi không ngờ, hay là
ông bị CS dùng ma thuật khống chế bởi đã vào tròng?)
Trưởng
Nhóm Nguyễn văn Binh có các thành viên: Đỗ sinh Tứ (quá cố), Nguyễn văn Kim (Quảng
Trị, quá cố), Nguyễn đức Cung, Nguyễn trọng Nho, Dương minh Kính, Trần văn Ân,
Nguyễn minh Đăng, Đặng văn Tiếp (quá cố), Nguyễn văn Cử (phi công đã bỏ bom
dinh Độc lập vì tư thù), Nguyễn tuấn Anh (bác sĩ).
Ba
Khối khác là Khối Cộng Hòa, đặc biệt chống Cộng yểm trợ Hành pháp.
Khối Dân Quyền, Trưởng Khối cựu Đại Tá Nhan
minh Trang (mới qua đời cuối tháng 6-2010), đứng lưng chừng ở giữa, lửng lơ con
cá vàng, một thái độ khó chấp nhận với người QG, một thái độ chỉ chờ sung rụng.
Khối Độc lập, cá
nhân người viết ở trong Khối này, khi Hành pháp đúng thì ủng hộ, khi Hành Pháp
sai thì chống thí dụ Sắc luật từ ông Thiệu đưa qua HNV về sửa Luật để ông ta ra
nhiệm kì 3. Tuy nhiên, Khối này có tự do bỏ phiếu, Khối viên không nhất thiết
phải bỏ phiếu theo Khối.
Còn
một số DB khác tuy không vào Khối Đối lập vì muốn giữ bí mật hành tung là chính
CS nằm vùng, giết người như ngoé, thí dụ như DB cựu Trung tá tỉnh trưởng Bình
Thuận rồi Thị trưởng Đà lạt Đinh văn Đệ. Xảo thuật của y quá giỏi, y qua mặt
tình báo của ông Thiệu cái vù đến nỗi khi y được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Quốc
phòng HNV, vào lúc dầu sôi lửa bỏng tháng 3-1975, y được Chủ tịch HNV Nguyễn bá
Cẩn và Dinh Độc lập cử làm Trưởng phái đoàn sang Hoa kỳ xin cấp viện trợ quân sự
300 triệu đô la để cứu nguy miền Nam. Giao trứng cho ác, ác đớp mất trứng là lẽ
đương nhiên!
Một
tay Đinh văn Đệ sát hại chiến sĩ QG và dân lành quá nhiều, nguyên một trận y lừa
để giết Nghĩa quân và Địa phương quân đi cứu đồn đã hơn 40 người. Sau 30-4-75,
cái mặt chuột cống dã man của y mới lòi ra. Nhưng rồi y và tất cả những bọn “ăn
cơm QG thờ ma CS” ngay cả Trí Quang, Dương quỳnh Hoa, Nguyễn hữu Thọ, Huỳnh tấn
Phát và Mặt trận GP miền Nam VN; những tên trí thức mù Vũ văn Mẫu, Ngô công Đức,
Nguyễn văn Binh, Trịnh công Sơn, Huỳnh tấn Mẫm, Đoàn văn Toại, Lê văn Nuôi, Ngô
bá Thành, ni sư Huỳnh Liên, Hoàng phủ Ngọc Phan, Hoàng phủ Ngọc Tường, Nguyễn đắc
Xuân, Lý quý Chung, Nguyễn công Hoan, Trần văn Thung, Nguyễn ngọc Nghĩa (hỗn
danh là DB tượng Chàm vì có lần y ăn cắp tượng Chàm), Hồ văn Minh v.v... đều
chung số phận với Nguyễn Hộ, Nguyễn đình Thi, Nguyễn văn Trấn, Nguyễn hữu Đang,
Nguyễn mạnh Tường, Hồ ngọc Nhuận, Ngô công Đức, Kiều mộng Thu v.v.....nghĩa là
hầu hết trí thức miền Bắc và một số miền Nam bị Hồ cho vào xiếc, Hồ lừa gạt trắng
trợn.
Vắt
chanh bỏ vỏ, CS muôn đời chỉ xài rồi giết, không bao giờ dùng. Phải nhớ rất rõ
điều đó. Nông thị Xuân đầu ấp tay gối thế nào với Hồ, được Hồ yêu quí vì có
nhan sắc từ khi còn là con bé Tày 13 tuổi bưng cơm ở hang Pắc Bó cho Hồ, Hồ đã
mò mẫm Nông thị Xuân từ hồi đó, rồi làm vợ Hồ từ 1955 (lúc thị Xuân đang là cán
bộ hộ lý, khoảng 20 tuổi, Hồ đã 65) đẻ con cho Hồ (Nguyễn tất Trung (1956), xin
đừng lộn với Nông thị Ngác, cũng vợ Hồ, đẻ ra Nông đức Mạnh năm 1940) mà Hồ còn
giết thảm thì còn ai y nương tay? Những tên như Đinh văn Đệ, Lý quý Chung, Hồ
ngọc Nhuận, Kiều mộng Thu, ni sư Huỳnh Liên, con điếm Ngô bá Thành (do báo chí
đặt), Huỳnh tấn Mẫm, Lê văn Nuôi, Ngô công Đức, Trịnh công Sơn, Dương văn Ba
v.v... và nhiều tên khác đã mất trắng cả cuộc đời vì Hồ!
Trước
khi chết, DBCS Nằm Vùng Lý quý Chung có viết cuốn “Hồi Ký Không Tên” nói rõ việc
y theo Việt Cộng và ân hận ra sao, cha y (Lý quý Phát) khuyên y thế nào (Đến giờ
này mà mày còn mù hay sao mà đi theo VC?) đã nói lên sự ân hận một đời. Nguyễn
văn Trấn, Xứ bộ Nam Kỳ khi xưa, một đảng viên cao cấp CS, đi sát với Hồ nhiều
trường hợp, và cả tướng Trần Độ, phải than thở những lời sau đây:
“Đảng
Cộng sản Việt Nam còn tàn ác hơn Tần thủy Hoàng và dã man hơn Hitler.”
LS
Nguyễn hữu Thọ, trên giường bệnh sắp chết, dặn con rằng:
“Hãy
coi gương cha, chớ đi theo bọn Việt Cộng mà mất cả cuộc đời!”
Ấy
là những người được Việt gian CS đặc biệt ưu đãi, trong đó có bác sĩ Dương quỳnh
Hoa, bộ trưởng Y tế của Mặt trận GP miền Nam VN, gia nhập đảng CS Pháp từ 1956 ở
Paris, trước khi đậu bác sĩ.
Ngay
từ đầu, tôi lấy làm lạ rằng ông Trần văn Tuyên, một người Quốc gia chân chính,
một lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân đảng (VNQDĐ) tại sao lại chịu làm bung xung
cho bọn Dân biểu Cộng sản (DBCS) nằm vùng (như đã kể trên) để đánh phá QLVNCH
và chính phủ của TT Nguyễn văn Thiệu, dù sao đang là một chính phủ hợp hiến, hợp
pháp và (tạm) hợp lòng dân để chiến đấu một mất một còn với CS?
Có một lần rất hãn hữu,
một lần duy nhất trong 4 năm làm việc tại Hạ Nghị Viện (HNV) với nhau, bữa đó
Dân biểu Ngô trọng Hiếu (Biên Hoà) và tôi (lúc đó là Chủ tịch Ủy Ban Phát triển
Nông thôn HNV) cùng ngồi đàm đạo với LS Trần văn Tuyên. Sau vài câu thăm hỏi,
tôi đi ngay vào đề. Tôi nói:
“Thưa anh Tuyên, tôi và anh Hiếu đây
và một số anh em khác biết rằng cá nhân anh là một người QG chân chính đã hoạt
động chính trị nhiều năm, những chỉ trích Hành pháp và Quân đội về trường hợp một
số tướng tá, tỉnh, quận trưởng tham nhũng, lạm quyền là đúng, là giúp ích cho
Hành pháp sửa đổi, chấn chỉnh, thay thế, nhưng tôi e rằng đang lúc Cộng quân
ngày càng tăng cường sức ép, bồ câu Mỹ đòi rút hết quân Mỹ, chính phủ Mỹ đe rút
hết quân viện, trăm phần nguy khốn mà Quốc hội, do những tay sai CS nằm vùng
chúng ta nhìn rõ thấy họ hàng ngày, với ba tờ nhật báo tay sai của CS là các tờ
Đại dân tộc, Điện Tín và Tin Sáng làm công cụ tuyên truyền cho CS, lại ra sức
đánh phá Hành pháp và Quân đội, người QG mù quáng cũng hùa theo ( như các LM Trần
hữu Thanh, Đinh bình Định, Chân Tín, ông Nguyễn ngọc Lan và một số DB Nhóm
QGHNV, và mấy NS theo đuôi CS) thế thì Hành pháp và QĐ còn tinh thần đâu mà chống
chõi với Việt cộng, bảo vệ dân chúng? “
LS Tuyên hỏi anh Hiếu:
“Thế anh Hiếu có câu hỏi gì dành cho
tôi không?”
DB Hiếu trả lời:
“Câu hỏi của tôi cũng tương tự như
câu hỏi của anh Trần đình Ngọc. Chỉ thêm một chút là trước khi nhận chức Trưởng
Khối Dân tộc Xã hội (tức Đối lập), anh có tiên liệu được những gì anh phải làm
vừa lòng những anh em trong Khối đó đòi hỏi? Và anh có biết một số trong bọn họ
là CS nằm vùng không? Có lẽ anh không biết và anh cũng không ngờ?”
Thay
vì trả lời thẳng vào câu hỏi, LS Tuyên, mặt rầu rầu, đáp:
“Làm
thế nào để các anh hiểu tâm tư của tôi với chỉ vài phút ngắn ngủi gặp nhau ở
đây? Tôi đã suy nghĩ nhiều nhưng chẳng tìm ra một giải pháp để gỡ rối cái vị thế
dầu sôi lửa bỏng của tôi hiện tại. Để có dịp thuận tiện, tôi sẽ nói với các anh
nhiều hơn”.
Nói
xong anh đứng lên bắt tay tôi, anh Hiếu và ra xe. Tôi nghĩ anh tránh né câu hỏi,
một câu hỏi đi thẳng vào những gì anh đang trăn trở vì một người làm chính trị
lâu năm, một LS kinh nghiệm như anh sao không nhận ra những gì một chiến sĩ QG
không thể và không nên làm tay sai (dù là lầm lẫn lúc đầu) cho giặc. Nhưng có lẽ
anh đã đi quá xa và lúc đó anh không còn kiểm soát được Khối viên (là những con
cáo già CS) nữa! Ba tờ báo Đại dân tộc (của DB Võ long Triều), Tin Sáng (của
Ngô công Đức) và Điện Tín do Lý quý Chung đã rất hữu hiệu yểm trợ Khối Đối lập
và Nhóm Dân biểu QG HNV trong việc cho những DB này đi tầu bay giấy và tìm cách
mạt sát các DB có lập trường QG là tay sai cho Nguyễn văn Thiệu. Anh Trần văn
Tuyên có lẽ cũng đã “rét” với những tờ báo này!(Ngày nay ở hải ngoại cũng có bọn
ăn cơm QG thờ ma CS y như vậy. Những Nhà thơ nào chỉ viết Thơ tình, không đả động
gì đến VGCS thì chúng đưa lên mây xanh dù không có tài. Những Nhà Thơ nào có thực
tài nhưng chỉ trích những cái xấu, cái dã man, tàn bạo, giết dân của VGCS thì
chúng lờ như không có hoặc tìm cách chỉ trích, phê bình sai lạc. Thực là một bọn
phê bình láo lếu và vô liêm sỉ!)
Dân
trí quá thấp, những người bình dân đâu có hiểu gì CS cho đến sau 30-4-1975, rất
nhiều người miền Nam mới bật ngửa thì sự đã rồi. Những người này trước kia chứa
chấp cán binh CS, nuôi ăn, tiếp tế, nhận làm mẹ nuôi, chị nuôi chiến sĩ
v.v...Cũng chính những người này, sau khi CS đổi tiền hai lần, đánh tư sản mại
bản công thương nghiệp tư bản tư doanh, đuổi đi vùng kinh tế mới để chiếm nhà,
chiếm đất, chiếm xe cộ, tài sản, trương mục ngân hàng, chính họ là những người
chửi rủa CS nhiều nhất, căm thù CS hơn ai hết vì họ quá thất vọng.
Người
dân miền Nam quả thực quá ít kinh nghiệm với CS nên dễ bị lừa. Nói gì bình dân,
những trí thức như Dương quỳnh Hoa, Lâm văn Tết, Nguyễn văn Trấn, Xuân Vũ Bùi
quang Triết (tác giả Đường đi không đến), Nguyễn thị Bình, LS Nguyễn hữu Thọ,
Nguyễn ngọc Lan, Chân Tín, Lý chánh Trung, Nguyễn văn Trung, Lý quý Chung, cả
sư hổ mang Trí Quang và ông Thích Nhất Hạnh, cả Dương thu Hương, Nguyễn mạnh
Tường, Hoàng xuân Hãn, Trần đức Thảo, Nguyễn đình Thi và hàng đống trí thức
miền Bắc đó, hằng hà sa số bị lừa đau đớn, thế thì người dân miền Nam chữ nghĩa
ít, học hỏi nông, xưa nay chân chất thật thà thì bị lừa đến táng gia bại sản,
đến mất mạng cũng là phải thôi! Hãy cứ hỏi nhà văn Dương thu Hương, ngày
30-4-1975 ngồi khóc ở vệ đường Sàigòn vì nhận ra được là cả thế hệ của chị đã
bị lừa, cái dã man mọi rợ (ý chỉ chế độ CS miền Bắc) lại thắng cái văn minh (ý
chỉ miền Nam) là đủ thấy sự đau đớn và sự thật.
Tôi
xin mở một dấu ngoặc với chị Dương Thu Hương. Không phải chị chỉ khóc có một lần
ngày 30-4 đâu mà có lẽ chị còn khóc dài dài, chị Thu Hương ạ. Cái gian dối, lừa
gạt, hung ác, vô văn hóa từ Hồ tặc truyền vào dân VN y như bệnh Aids, tệ hơn bệnh
Aids như dân Ba Lan nói, nó sẽ còn kéo dài hàng thế kỉ, vài thế kỉ là ít sau
khi CS giẫy chết chứ thuốc trụ sinh Dân Chủ dù mạnh mấy không đủ làm cho cái
ung bướu quái ác CS đó biến đi ngay trong con người VN được đâu. (Năm 2008, chị
Dương Thu Hương lại viết cuốn sách “Đỉnh cao chói lọi” để ca ngợi giặc Hồ. Lập
trường của chị bất nhất, chao đảo như đứa con nít. Có lẽ sống với CS gian dối
nhiều năm, chị đã nhiễm phải cái HIV+ tai hại tuỳ tiện và gian dối đó, hết thuốc
chữa! Tôi đã có 8 bài dài thảo luận với chị DTH về vấn đề này đăng trên
vietnamexodus.org và cả Bacaytruc.com )
Trở
lại với anh Trần văn Tuyên, một thời gian sau, anh từ nhiệm chức vị Trưởng Khối
Dân tộc Xã hội tức Đối lập HNV, người thay anh là DB Lê đình Duyên, một DBCS nằm
vùng.
ĐI TÙ CẢI TẠO
Sau
30-4-1975, cũng như nhiều anh em DB/HNV khác, LS Trần văn Tuyên đi trình diện
và vào tù cải tạo.
Câu chuyện sau đây về cuộc đời “ba
chìm bảy nổi” của anh Tuyên do chính anh tâm sự với một bạn tù cùng buồng với
anh, anh này kể lại cho Bút Xuân nghe nhưng xin giữ kín danh tánh, câu chuyện
“có thế nào nói lại vậy” không thêm, không bớt như sau:
Sau ngày 19-8-1945, do một
mối giây liên hệ nào đó như bạn học, bạn đồng chí v.v... anh Trần văn Tuyên lúc
đó được tướng Võ nguyên Giáp (CS miền Bắc) cử làm Chánh văn phòng cho ông ta.
Giáp bảo với anh Tuyên là để rồi Giáp sẽ thưa với cụ (Hồ) chấp thuận để anh
Tuyên có chức vụ và làm việc với Giáp.
Có một bữa, ông Hồ,
Giáp và một số đông đồng chí, có cả anh Tuyên được mời đi dự một bữa cơm với
nông dân, anh Tuyên kể lại như thế ở trong tù. Cơm dọn ra toàn là dưa cà mắm mặn,
rau muống luộc, một bữa cơm hoàn toàn đạm bạc của nông dân. Trong lúc chộn rộn
người ngồi kẻ đứng, ông Hồ ghé tai Giáp nói nhỏ:
“Cỗ bàn ngon lành ở phía sau, các
chú xuống đó mà ăn chứ cơm này ăn gì được.”
Giáp bảo anh Tuyên loan báo cho anh
em.
Thành ra, ngồi ăn cơm với nông dân
chỉ là ngồi lấy lệ, biểu diễn, ăn qua quýt, xong lỉnh ra đàng sau để hưởng sơn
hào hải vị đã làm sẵn để phục vụ.
Sau ngày Việt Cộng tự
động giải tán CP Liên hiệp và Quốc Hội số 1, dân quân du kích Việt Cộng, theo lệnh
từ ông Hồ và ban tham mưu VC, từ 1946,
đã giết hại các người QG, các đảng phái phi CS, và cả người Công Giáo hay bất cứ
ai bị nghi ngờ là không đồng chính kiến. Những người này bị ghép vào một tội
chung: “Việt gian phản động làm tay sai cho Pháp” . Chỉ chín chữ đó đủ để ăn
vài viên đạn vào đầu hoặc như nhà văn Khái Hưng và nhà văn Lan Khai, bỏ vào bao
bố trôi sông (Khái Hưng và Lan Khai bị giết ở sông Ninh Cơ).
Báo cáo từ các nơi gửi
tới tấp về cho Chính Phủ Viêt cộng để giải
quyết các khiếu oan cho dân. Anh Trần Văn Tuyên, với chức vụ Chánh Văn phòng,
các công văn đều qua tay anh, anh phân loại rồi mới trình lên cho tướng Giáp để
giải quyết. Anh Tuyên đã trình lên tướng Giáp nhiều lần xin tướng Giáp trình “Cụ
Hồ” giải quyết ngăn chặn những sự giết chóc bừa bãi ở các xã nhưng anh Tuyên trình
đã nhiều lần hồ sơ chất đầy bàn mà không được tướng Giáp lý tới. Lần trình sau
cùng, tướng Giáp gọi anh Tuyên vào văn phòng, bảo:
“ Mang tiếng làm chính trị mà sao
chú mày còn chậm hiểu quá. Việc gì mà phải giải quyết những vụ việc ấy. Đó là
chính sách của trên, chú mày hiểu chưa?”
Từ đó, ông Tuyên đâm
ra sợ và kị Việt Cộng, càng ngày ông càng rõ tâm địa thâm độc gian ác của ông Hồ
chí Minh và bọn thủ hạ. Ông ghê tởm những hành động sát nhân mà những người bị
giết chỉ là những người QG yêu nước, yêu đồng bào, những người dân hiền lành bị
nghi ngờ đối nghịch với chủ nghĩa CS của ông Hồ và đồng bọn.
Và cũng chính vì vậy,
ông Tuyên đã vượt thoát vào Nam tìm Tự Do sau tháng 7-1954, bỏ lại hai đứa con
trai, một anh sau này đậu Kĩ sư canh nông chế độ Việt Cộng.
Sau 30-4-1975, như các DB và NS khác
kẹt lại, LS Trần văn Tuyên vào trại tù cải tạo. Khi ông còn ở trong tù, hai anh
con trai ngoài Bắc vào, đã lặn lội đi thăm bố, mang theo quà của tướng Giáp là
một cân đường và một cân mứt hạt sen.
GS Bút Xuân TRẦN ĐÌNH NGỌC
Cựu Dân Biểu
HNV/VNCH
Cựu Sĩ Quan QLVNCH
(Khóa 13 Thủ đức)
0 comments:
Post a Comment