Ngày 21 tháng 3 năm 1975 nguyên gia đình bị Cộng sản bắn chết ở quốc lộ 1, gần đèo Hải Vân đang trên đường di tản.
TẠI BAN MÊ THUỘT
-
2 giờ 20 sáng ngày thứ hai-10 tháng 3 năm 1975, quân Cộng sản bắc việt
bắt đầu nã pháo đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly vào các cứ điểm quân sự
và Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu.
- 4 giờ chiều ngày thứ hai-10 tháng 3 năm
1975, quân Cộng sản bắc việt chiếm thị xã Ban Mê Thuột, ngoại trừ khu
vực Bộ tư lệnh sư đoàn 23 bộ binh còn được trấn giữ...
- 6 giờ
chiều ngày 10 tháng 3 năm 1975, thành phố bây giờ như một bãi tha ma,
chứa đầy tử khí. Những đống tro tàn của nhiều khu phố bị cháy, bụi khói
và gạch vụn gợi cho người ta cái cảm xúc của một chiến trường tàn cuộc
lạnh lẽo rợn người”. (Nguyễn Định, BMTNĐCC.) Theo nguồn Quốc Gia Hành
Chánh.
TẠI QUẢNG TRỊ
TẠI HUẾ
Ngày 21 tháng 3 năm 1975 nguyên gia đình bị Cộng sản bắn chết ở quốc lộ 1, gần đèo Hải Vân đang trên đường di tản.
Người phụ nữ này 1 mình dẫn mấy đứa con chạy nạn từ Huế đang ngồi trên đèo Hải Vân với nỗi lo âu.
TẠI CỬA THUẬN AN
Chiếc xà lan Quân vận Vùng 1, di tản Quân & Dân chuyến cuối cùng từ Cửa Thuận An.
TẠI ĐÀ NẴNG
Ngày 27-28 tháng 3 năm 1975, người Đà Nẳng chạy trốn Cộng sản.
Ngày 27-3-1975 Chuyến máy bay dân sự đầu tiên của Mỹ mướn đáp xuống phi trường Đà Nẵng để đưa người di tản, nhưng mỗi khi máy bay đáp xuống những hỗn loạn diễn ra dữ dội. Nên các chuyến bay dân sự đó phải đình chỉ.
Sau đó thay đổi bằng 4 máy bay C-130 nhưng hỗn loạn vẫn liên tục nên 4 chiếc này chỉ cất cánh duy nhất được một lần vào ngày 29-3-1975
Ngày 27 tháng 3 năm 1975 tại bến tàu Đà Nẵng.
Cảng Đà Nẵng, trong giờ phút hấp hối. Người dân chạy trốn Cộng sản được câu lên tàu SS Pioneer Contender.
Một số người dân di tản đả được ngồi yên dưới hầm Tàu.
Những ngày cuối tháng 3-1975. Có 6 chiếc xà lan do các tàu kéo từ Vũng Tàu ra Đà Nẵng để đưa người di tản.
Bến tàu Đà Nẵng rất hỗn loạn, nên các chiếc tàu thả neo ngoài xa, dân dùng thuyền bè từ bờ ra tàu tại Đà Nẵng
Mỗi chiếc tàu chở được chừng 10 ngàn người thì nhổ neo về Cam Ranh.
Chiều ngày 28-3-1975, tại bãi biển Mỹ Khê, Đà Nẵng. Những cảnh hỗn loạn xảy ra. Cả chục chiếc thiết vận xa M-113 làm đầu cầu nối ra biển để lên tàu. Sau đó có nhiều chiếc bị chìm xuống biển và một số binh sĩ biết lội thì còn sống sót, số người không biết lội đã bị chìm dần xuống đáy biển Mỹ Khê.
Tối 28-3-75 bọn Cộng sản pháo kích vô căn cứ Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, lửa cháy rực một góc trời.
Chiến Hạm HQ-802 nhổ neo xuôi Nam lúc 11 giờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975.
Và những số người dân khác. cố gắng dùng đủ loại phương tiện để chạy ra khỏi Đà Nẵng. Phải bằng mọi cách để trốn thoát khỏi Cộng sản ngày 28 tháng 3 năm 1975.
Ngày 30 tháng 3 năm 1975 Dân tị nạn từ Huế, Đà Nẵng và các thành phố khác chen chúc chạy trốn Cộng sản trên quốc lộ 1 hướng vô Nam.
TẠI TUY HÒA, PHÚ YÊN
Ngày 16 tháng 3 năm 1975 Ban Mê Thuột, Pleiku, KonTum, Phú Bổn nói chung là tất cả các tỉnh trên Cao Nguyên đang vào giờ hấp hối, cho nên những con đường để thoát chạy như là, 7B, 14, 19, 20, 21.
Nhưng tổn thất nhất là con đường 7B có thể nói đó là CON ĐƯỜNG MÁU của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa & Dân chúng.
Những người dân rút chạy khỏi cao nguyên ngày 19-3-1975 tại Phú Bổn, Kontum.
Một quân nhân VNCH trên trực thăng đã cứu bé trong cuộc di tản hỗn loạn
Đoàn xe nối đuôi qua cầu phao trên Sông Ba ngày 18-3-1975. Phú Yên.
Ngày 22-3-1975 một phụ nữ được trực thăng di tản ra khỏi Tuy Hòa, ôm chặt con vào lòng với nỗi đau khổ vì người chồng còn kẹt ở lại.
--------
Tháng Tư Buồn
Thuyền nhân Nguyễn Thượng Chánh
Từ năm 75 đến thập niên 80 có hằng trăm ngàn
người Việt Nam liều chết vượt biển để tìm tự do và cuối cùng một số
người may mắn đã đến được bến bờ tự do.
Video - Medecins du monde (Tàu Pháp cứu vớt thuyền nhân Việt Nam) (nói tiếng Pháp)**** http://www.ina.fr/economie-et-societe/vie-sociale/video/CAB8201303801/medecins-du- monde.fr.htmlThống
kê cho biết có vào khoảng trên 35.000 người Việt Nam đang sinh sống tại
thành phố Montréal. Họ được gọi là Les Vietnamiens de Montréal hay Les
Viéto-Montréalais.
Theo thời gian, cộng đồng người Việt Montréal dần dần lớn mạnh thêm, thích nghi và hội nhập một cách êm ái vào xã hội Québec.
Video : The fall of Saigon 1975http://www.youtube.com/watch?v=IdR2Iktffaw
Trên bước đường tị nạn, người Việt đã mang theo họ
kinh nghiệm sống từ quê hương khói lửa cùng với một tâm quyết sắt đá là
phải gầy dựng lại một cuộc đời mới trong tự do.
Một tương lai sáng sủa hơn đang chờ đón con cháu họ.
«Les
Vietnamiens de Montréal» là tên một quyển sách nghiên cứu xã hội, nhân
chủng học do Giáo sư Louis-Jacques Dorais và Eric Richard thuộc Đại học
Laval, Québec thực hiện và do Les Presses de lUniversité de Montréal
xuất bản năm 2007. Sách hiện có trong tất cả các thư viện Québec.
Tác
phẩm trên dựa vào việc tìm hiểu về cuộc sống và hội nhập của người tị
nạn Việt Nam thuộc thế hệ thứ nhứt và thứ hai, nghĩa là những lớp người
tị nạn cộng sản đến định cư tại Montréal từ 1975 cho đến những năm 1980.
Quyển
Les Vietnamiens de Montréal được thực hiện qua thể thức phỏng vấn thăm
dò một số vài chục nhóm mẫu (échantillons) đồng hương Việt Nam thuộc
nhiều lứa tuổi, có hoàn cảnh xã hội và điều kiện kinh tế khác nhau.
Tượng đài tưởng niệm chiến sĩ QLVNCH và thuyền nhân Việt Nam tại Montreal. (photo internet)
Theo
người gõ, những nhận xét và kết luận trong tác phẩm trên chỉ có một giá
trị thống kê tương đối mà thôi. Nó chỉ nói lên được phần nào, những vấn
nạn chung chung mà hầu như không ít người tị nạn, và di dân Việt Nam
mới đến định cư thường hay gặp phải...
Dù sao đi nữa, Les
Vietnamiens de Montréal được nhìn qua từ phía các học giả Québecois cũng
giúp cho chúng ta hiểu thêm về người Việt đang định cư tại Montréal.
Một số trích dẫn tiêu biểu từ tác phẩm Les Vietnamiens de Montréal:
« Montréal đối với tôi như một gia đình đa chủng tộc» (nam 37tuổi, định cư năm 82, trang 28).
“…Khi
đến đây, tôi gặp được nhiều sự may mắn. Tôi tìm được việc làm tại Baie
James. Tôi là kẻ thích phiêu lưu. Cho dù là người Québecois, họ cũng
không dám bén mảng đến nơi đó. Vì lạnh quá mà. Nhưng tôi tự nhủ: mình
không có một sự chọn lựa nào khác hơn được. Đây là lý do sinh tồn của
mình. Có người xúi tôi đi xin trợ cấp xã hội ( prestation khoảng
1000$/tháng cho gia đình gồm 2 người lớn, năm 2013) nhưng tôi dứt khoát
chối từ...” (nam 76t, cựu viên chức cao cấp VNCH, định cư năm 75, trg
119).
“...Những điều tôi biết được đều do Pa Má tôi kể lại. Có
nghĩa là nếu sống bên Việt Nam thì sẽ không có tương lai. Nếu còn ở bên
đó thì chắc chắn là Pa Má tôi phải đi cày ruộng rồi. Bởi lý do nầy nên
Pa Má tôi quyết định vượt biên. Pa tôi ngày xưa là dân hải quân và chúng
tôi bị thua trận. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng Pa tôi cần phải đi để cứu
lấy mạng sống của mình...” (nam 19t, sanh tại Québec, trg111).
“...Tôi
không cảm thấy hối tiếc gì cả. Tôi nghĩ rằng cha mẹ tôi quyết định rất
đúng cho gia đình và cho cả em tôi. Tôi cũng biết là Pa tôi đã hy sinh
rất nhiều để cho chúng tôi có được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Pa Má tôi
phải gánh chịu bao nỗi khó khăn nhọc nhằn mới đến được bến bờ tự do. Pa
tôi bắt đầu bằng những công việc lặt vặt để kiếm sống...” (nam 28t, sanh
tại Toronto, trg112).
“Tôi muốn giữ lại tất cả, ngoại trừ những
khía cạnh quá nghi thức về tập tục. Tôi sẽ dạy dỗ con cái tôi theo kiểu
Canada, nghĩa là rất cởi mở, nhưng tôi vẫn áp đặt chúng cái tâm thức
mentalité của người Việt Nam mình đồng thời cũng giữ khía cạnh tích cực
của Bắc Mỹ...” (Méthot,1995:176, trg 114).
Sự tham gia của người
Việt Montréal thuộc thế hệ thứ hai vào các nhóm và hội đoàn Việt Nam rất
ư là mập mờ…Ngoài ra, những ý kiến thu lượm được về những tổ chức hội
đoàn nói trên phần nhiều là rất tiêu cực. Thí dụ, giới trẻ nói rằng họ
không tin cậy các hiệp hội có tôn chỉ đề cao một vài khía cạnh của nền
văn hóa Việt Nam. Một số thì không thích cách thức buổi lễ được tổ chức
cũng như họ không ưa một số khuôn mặt nào đó. Có những người khác thì
cho rằng mục đích chánh của các hội đoàn là nhằm gom người Việt lại với
nhau trong một thế giới riêng của người Việt không khác gì tạo ra những
khu biệt cư ghetto (L.J. Dorais, trg 114).
Gia đình Thuyền nhân Nguyễn Thượng Chánh, trại tị nạn Leam Sing, Thái Lan 1980.
«...Thật
vậy, tôi tự nhận tôi là tôi.Tôi không chối cãi tôi là Việt Nam, vì lúc
đi ra ngoài đường, người ta hỏi quốc tịch tôi là gì…Tôi muốn nói tôi là
người Á Đông, nhưng đồng thời tôi cũng là Việt Nam…Tôi tự cảm nhận tôi
chỉ là tôi. Tôi không phải là người Việt, mà tôi cũng không phải là
người québecoise. Tôi là tôi. Tôi tự hào trong thâm tâm, mình là mình
(nữ 21t, định cư Québec lúc 4t, trg 115).
Growing up an Asian
Canadian is not an easy task. Sure, I was born a Canadian but my parents
are Vietnamese. I clearly look Vietnamese, but am I a true Vietnamese
girl/behind this Asian face I wear, two different cultures are at war.
At home, the Vietnamese mentality reigns; at school, I must act
differently to integrate myself.
“Trưởng thành như một người
Canada gốc Á không phải là chuyện dễ dàng đâu.Thật vậy, tôi sanh ra là
Canadian, nhưng cha mẹ tôi là người Việt Nam. Rõ ràng tôi giống người
Việt Nam, nhưng có phải tôi là một phụ nữ Việt Nam đúng nghĩa không?
Đàng sau bộ mặt Á châu mà tôi mang, có hai nền văn hóa đang xâu xé lẫn
nhau. Ở nhà, cái mentalité Việt Nam ngự trị và ở trường tôi phải hành sự
khác đi mới hội nhập được (Nguyễn Tuyết Nhung, Liên Hội Sinh Viên VN
Montréal 1998, trg 117).
Theo Méthot (1995), giới trẻ Montréal
xây dựng bản sắc identité dựa trên hình ảnh có được từ xã hội đang sống
và từ những người mà họ tiếp xúc hằng ngày (trg 116).
Lo làm
việc…Lo cho cuộc sống của mình, con đường nhỏ bé mình đi một mình
ên…Chấp nhận trách nhiệm của chính mình. Đó là những điều tôi thật sự
quyết định làm. Thí dụ, khi tôi phải lo buổi cơm tối ở nhà cha mẹ, tôi
phải làm như thế nầy, như thế nọ…không được như vầy, không được như vậy,
v.v…Thật sự là chán ngán! Nay, thì tôi về nhà lúc nào tôi muốn. Bởi thế
mà tôi đã bỏ đi ở riêng. Tôi thật sự cần có đời sống của riêng tôi, tôi
muốn làm gì thì làm, tôi tự quyết định những gì mình muốn làm. Tôi
không cần phải nghe Pa Má tôi phán: «Không, đừng làm như vậy, đừng, đừng
và đừng…»! Để cuối cùng mình không được làm gì hết (nữ 21t, định cư
Québec lúc 4t, trg 119).
Với cha mẹ tôi, rõ ràng là ổng bả còn
mang tâm thức mentalité của Việt Nam. Ổng bả muốn con cái mình học y
khoa hoặc lãnh vực khoa học về sức khỏe. Nếu mình không làm theo như ý,
ổng bả xem đó là một sự thất bại. Và ổng bả tối ngày đem mình ra so sánh
với con của người khác… Nhìn theo một khía cạnh nào đó thì ổng bả đang
hạ giá trị mình xuống. Chắc chắn là trên một bình diện nào khác, cha mẹ
mình ước mong điều tốt đẹp cho mình, nhưng khi mình không có khả năng là
mình không thể làm được. Chấm hết! (nam 22t, định cư tại Québec lúc
được 6 tháng tuổi, trg 120).
Ổng bả đem so sánh mình một cách
không thương tiếc với người khác. Việc đó làm mình rất bực bội vì mình
lúc nào cũng cảm thấy bị đặt trong tình trạng phải tranh đua, và lúc nào
mình cũng vẫn là người thua cuộc hết (nam 19t, sanh tại Québec, trg
120).
Vâng, chúng tôi có với nhau một mối quan hệ rất tốt đẹp
ngoại trừ việc Pa Má tôi còn mang nặng cái đầu óc, cái mentalité quá
Việt Nam hoàn toàn khác biệt với tâm ý mentalité của dân bên nầy. Cái gì
cũng gắt gao, cũng đều bị ổng bả kiểm soát hết, những khi tôi nói thật
sự tất cả bất cứ chuyện gì. Một mặt khác, tôi không muốn làm xúc phạm
đến cha mẹ tôi, và làm họ phải buồn lòng. Nói chung thì nó như thế đó,
đó là một vấn đề thuộc về quyền tự do (nam 19t, sanh tại Québec, trg
121).
Cha mẹ tôi thuộc về một thế hệ khác. Về mặt sinh hoạt, tôi
thường ham đi chơi với bạn bè khiến ổng bả rất bực mình. Những chuyện
như thế lúc nào cũng làm ổng bả khó chịu hết (nam 25t, đến Québec lúc
6t, trg 121).
Dù rằng tôi rất yêu quê hương, tôi cũng không muốn
về sống ở bên đó.Tại vì tôi đã sống nhiều năm bên nầy rồi, nếu về bển,
tôi cần phải có nhiều năm để thích nghi lại. Không, tôi nghĩ tôi không
về Việt Nam để sống đâu vì tôi đã quá quen với cuộc sống ở bên đây rồi
(nữ 17t, đến Québec lúc 5t, trg 128).
Bìa sách về thuyền nhân Việt ở Montreal.
Có
những điều mà tôi không ý thức được. Như gần đây, tôi đi chơi Núi Mont
Tremblant với vài người bạn gồm có một bạn da đen và hai bạn Á châu.
Chúng tôi bị một nhà hàng từ chối, viện lý do không còn bàn nào trống
hết, mặc dù thật sự không phải như thế (nam 28t, sanh tại Toronto, trg
130).
Tôi biết là vấn đề kỳ thị có ở đây. Những nơi tôi làm việc,
thì không có, nhưng ngoài đường đôi khi nó xảy ra cho chính tôi do các
đứa nhỏ, những thiếu niên gây ra…Chả có gì quan trọng cho tôi vì tụi nó
không hiểu những gì tụi nó đang làm...(nữ 28t, đến Québec năm 1988, trg
191).
Cũng có một số dân Québecois rất lạnh nhạt thờ ơ, như thể
họ đến từ hành tinh khác. Họ chả biết gì ráo. Có một hôm, có một ông nọ
đã hỏi tôi:Người BắcTonkinois? Là ở đâu đến vậy? Rồi ông ta lại hỏi lúc
xưa gốc gác tôi ở đâu? Tôi trả lời, tôi là người Việt Nam. Rồi ông ta
hỏi tiếp theo: Là xứ nào vậy? Trời ơi, ông ta là người cũng phải trên 30
tuổi rồi…Nhưng đối với những người có đi du lịch thường thì khá hơn,
hiểu biết nhiều hơn…(nữ 24t, định cư Québec 83, trg 191).
Thành
thật mà nói, tôi cho tôi là người Việt Nam, nhưng đồng thời cũng là
người Québecois. Tôi phải nói sao đây? Tôi có một tâm thức mentalité
thiên nhiều về Việt Nam, tôi còn nhiều gốc gác Việt Nam, ngoại trừ thời
niên thiếu ở đây tôi thường sống với người Québecois. Nhưng tôi thường
nghĩ rằng lúc nào tôi cũng là người Việt Nam nhiều hơn là người
Québecois (nam 22t, sanh tại Québec, trg 204).
Tôi là người Việt Nam và tôi sống tại Canada. Chỉ thế thôi! (nam 50t, định cư 1982, trg 204).
Tôi
là Québecois và Việt Nam. Tôi đẻ bên Việt Nam nhưng tôi không còn nhớ
gì hết.Tôi đi học ở đây, bạn tôi là người Québecois. Tôi nghĩ rằng tôi
có mỗi thứ một nửa (nam 24t, đến Québec năm 80, trg 204).
Tôi cảm
thấy rất thích hợp ở đây, và thích nghi tốt đẹp vào đời sống Québec.
Tôi vẫn giữ nét Á châu nhưng tôi vẫn có thể thích nghi vào một nền văn
hóa khác hơn nền văn hóa Việt Nam (nữ 46t, đến Québec 81,trg 204).
Mối
giao tiếp của tôi phần lớn là với người Québecois. Tôi cảm nhận, một
nửa của tôi sống theo kiểu Québecois và tôi vẫn giữ một nửa Việt Nam. Có
nghĩa là chỉ tôi tiếp thu những điều tốt đẹp của xứ nầy mà thôi (nam
51t, đến Québec 84, trg 205).
Tôi không có thể nào nói được tôi
hoàn toàn là người Việt Nam cả. Khi tôi nói chuyện với các bạn tôi thì
tôi cho rằng tôi là người Việt Nam, người Québecoise hay là người
Canada. Không khác gì tôi là một phụ nữ quốc tế (nữ 42t, đến Québec 82,
trg 205).
Tôi không còn biết thật sự ra xứ sở của tôi là Canada
hay là Việt Nam nữa. Tôi không biết…Có thể tôi xem cả hai đều là xứ sở
của tôi hết (nam 23t, đến Québec 92, trg 205).
Đúng vậy, tôi rất
quan tâm đến chuyện bên nhà, tôi nôn nóng lắm, có thay đổi bên đó nhưng
vẫn còn cái mentalité cộng sản. Dù sao, Việt Nam cũng là quê hương của
cha mẹ tôi, tôi muốn hiểu rõ hơn những gì xảy ra bên đó (nam 22t, sanh
tại Québec, trg 209).
Rất quan trọng đối với tôi, vì tôi thương
người dân bên đó. Tôi không muốn nhìn thấy cảnh họ bị áp bức, đàn áp,
đói khổ…Tôi tin tưởng rằng mọi người có quyền sống theo ý họ muốn của
họ…(nam 46t, định cư tại Québec 81, trg 209).
Vâng, tôi rất quan
tâm đến tình hình chính trị của Québec và Canada nhiều hơn là của Việt
Nam.Tôi thường theo dõi trên TV các cuộc tranh luận chính trị tại quốc
hội Québec hoặc Ottawa (nam 42t, đến Québec năm 75, trg 185).
Vâng,
rất quan trọng vì tôi là Québecois và Canada là xứ sở của tôi. Tôi có
bổn phận với tư cách là một cử tri…(nam 24t, đến Québec 1980, trg 185).
Giới
trẻ có một tương lai tốt trước mắt. Chắc chắn là họ sẽ quên đi…Họ quên
rất mau nếu không có ai nhắc nhở họ thế nào là văn hóa Việt Nam (nam
33t, đến Québec 82, trg 189).
Tôi nghĩ rằng, theo cái đà nầy thì
trước sau gì họ cũng sẽ bị mất gốc hết. Bởi vì ngày nay, họ muốn thích
nghi, nhất là đối với lớp trẻ. Đối với bọn trẻ, sanh bên nầy hay bên nhà
cũng vậy, tôi thiết nghĩ như họ thường hay nói «Bof!». Họ từ từ sẽ
thích nghi, và sẽ đồng hoá với tất cả mọi người (nữ 17t, đến Québec
1991, trg 189).
Kết luận của tác giả Louis-Jaques Dorais
Cho dù tương lai sẽ ra sao, nó vẫn thuộc về của giới trẻ.
Tại
Montréal cũng như tại những nơi khác, người Việt thuộc thế hệ thứ hai
hoặc thứ ba sẽ lần hồi thay thế bậc cha anh trong việc điều hành các vấn
đề cộng đồng của người Việt Nam.
Chính nhóm trẻ sẽ quyết định là
có cần nên bảo tồn hay không một vài nét đặc thù tiêu biểu của bản sắc
identité Việt Nam hay ngược lại.
Tốt hơn hết là chúng ta nên hòa
nhập trọn vẹn vào nhóm đa số Québec và Canada bằng cách theo đuổi tất cả
cách sống của họ, cũng như những giá trị và biểu thị trổi bật của xã
hội Bắc Mỹ.(Trg 222)
Quel que soit lavenir, il appartient aux
jeunes. À Montréal comme ailleurs, les Vietnamiens de la seconde et de
la trosième génération vont progressivement remplacer leurs ainés đans
la conduite des affaires communautaires et la définition de lethnicité
vietnamienne. Ce sera donc à eux de décider si cela vaut la peine de
préserver une certaine spécificité identitaire ou, au contraire, sil est
préférable de se confondre complètement dans le Québec et le Canada
majoritaires, en adoptant la totalité des pratiques, des valeurs et des
représentations qui prévalent en Amérique du Nord ./. (Louis J. Dorais )
Trg 222
Kết luận trên của Louis Jacques Dorais có lẽ đã làm nhiều đồng hương lớn tuổi không mấy hài lòng.
Đây không phải là điều làm một ai ngạc nhiên hết./.
Nhóm thế hệ kế thừa
“…Vào
tháng 12 năm 2012, với sự hỗ trợ của Thượng Nghị sĩ Ngô Thanh Hải, Nha
sĩ Hoa Xuân Long và bằng hữu đã thống nhất thành lập Thế hệ Kế thừa
(Generations Legacy) tại Montréal với mục đích liên kết các thế hệ trong
Cộng Đồng Người Việt Quốc gia Vùng Montréal, đặc biệt là giới trẻ cùng
chung sức bảo tồn và phát huy nền văn hóa Việt Nam ở hải ngoại nhằm xây
dựng một cộng đồng vững mạnh và đóng góp thêm vào quốc gia đa văn hóa
Canada.
Thành viên của nhóm Thế hệ Kế thừa (THKT) là thế hệ thứ
hai di dân gốc Việt với đầy lòng nhiệt tình và tài năng…(Ngưng trích
ThoiBao online/Nhóm thế hệ kế thừa) http://www.thoibao.com/index.php/en/an-ban/montreal/cong-dong-montreal/10210-nhom-the-he-ke-thua
Vài con số thống kê
Thống kê Statistics Canada 2001 cho biết:
Tổng số người Việt định cư tại tỉnh bang Québec: 28 300 người.
- 83,1% nguồn gốc Việt Nam và 16,9% vừa có nguồn gốc Việt Nam và đồng thời có thêm ít nhất một nguồn gốc khác nữa, - 72,9% đẻ ngoài Canada - 74,2% định cư từ 1971 đến 1990 - 89,3% từ 15 tuổi trở lên, thuộc thế hệ thứ nhứt, đẻ ngoài Canada. - 53,4% theo đạo Phật - 25,5% theo thiên Chúc Giáo - 18,1 không theo đạo nào hết
Văn hóa :
- 82,6% biết tiếng Pháp - 52% biết cả hai sinh ngữ Pháp và Anh
Họ thường sinh sống ở đâu?
-
90,5% trong vùng Montréal. (39,3% Quận Villeray-St Michel-Parc
Extension-Côte des Neiges- Notre Dame de Grâce, 8,5% quận Rosemont- La
Petite Patrie và 9,9% tại quận Saint Laurent)
- 3,7% vùng thủ đô Québec
- 2% vùng Gatineau
Du sinh địch vận
Mời
các bạn đọc xem bài viết dưới đây của Gs Lâm Văn Bé (Montreal) để hiểu
rõ thêm về tình hình thật sự hiện nay của “người Việt có mặt” tại hải
ngoại. http://nguoivietboston.com/?p=1457– Du sinh và lao động xuất khẩu: Hai đặc sản của cộng sản Việt Nam
“Đó
là 5000 du sinh con ông cháu cha và những công chức, công an giả dạng
là «tu nghiệp sinh» đi học với học bổng của nhà nước. Họ đi học nhưng họ
phải làm công tác địch vận theo nghị quyết 36 của đảng. Họ len lỏi
trong các hội đoàn, các campus đại học, sử dụng các chiến thuật địch vận
thời chiến tranh để tuyên truyền, khủng bố, khuynh đảo các cộng đồng
người Việt. Trong đại học, họ khôn khéo lập các hiệp hội sinh viên, tuân
hành các chỉ thị của tòa đại sứ để lôi cuốn các sinh viên con em người
Việt tị nạn, vốn có tinh thần cởi mở nhưng lại ngây thơ trước các mưu
chước thâm độc tâm lý chiến cộng sản. Đám du sinh địch vận nầy lại được
sự hổ trợ của đám sinh viên du hí, bởi lẽ chúng phải bảo vệ tập đoàn cầm
quyền của cha ông chúng. Chúng cũng có tác phong côn đồ ngang ngược khi
cần đối phó với cộng đồng di tản chống đối chúng. Đám đông thầm lặng
người Việt tị nạn ngao ngán trước viễn cảnh đã trốn cộng sản mà vẫn chưa
được yên thân”.( Ngưng trích GS Lâm Văn Bé).
Người Việt ở Montreal, Canada (Đài Á Châu Tự Do RFA) http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Vietnamese_community_in_Montreal_Canada_HYen-07072008164355.html
“Trên xứ Canada đất rộng người thưa, có khoảng 150
ngàn người Việt nhận quốc gia Bắc Mỹ này làm quê hương thứ hai, trong số
đó 40 ngàn người gốc Việt định cư ở thành phố Montreal
Phần thứ
nhất là trước 1975 tức là các du học sinh. Thứ hai là sau 1975 trong đó
có tôi. Thứ bà là sau năm 1990 một số do chính phủ Việt Nam Cộng sản
hiện tại gửi đi bằng đường chính thức, thì đây là một vấn đề chúng tôi
gặp khó khăn, nhưng đối hoạt động của cộng đồng thì tất cả người Việt
Nam đều có sự giúp đỡ như nhau vì đối với chúng tôi cộng đồng là tập
thể, nếu là người Việt Nam chúng tôi vẫn giúp.
Trí thức ở
Montreal rất nhiều, bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, kỹ sư rất nhiều. Montreal
với hơn 40 chục ngàn người Việt Nam ở đây có 500 bác sĩ, 300 nha sĩ, 300
dược sĩ. Người Việt ở Montreal mở nhà hàng khá nhiều. Những người làm
thợ thuyền ở Montreal rất ít.” (Ngưng trích Hưng Yên thông tín viên
RFA).
Tham khảo:
- Eric Richard, Univ Laval, Québec: Une identité vietnamienne transnationale? Le cas des Vietnamiens de Montréal.http://pages.usherbrooke.ca/sodrus/pdf/pdf_colnov05_1/comm_eric_richard.pdf
- Louis-Jacques Dorais, Univ Laval,Québec: Identités vietnamiennes au Québechttp://www.erudit.org/revue/RS/2004/v45/n1/009235ar.html
- Statistics Canada 2006. The vietnamese community in Canadahttp://www.statcan.gc.ca/pub/89-621-x/89-621-x2006002-eng.htm
- Caractéristiques socioéconomiques des immigrants résidant à Montreal. Mars 2010http://ville.montreal.qc.ca/pls/portal/docs/PAGE/MTL_STATS_FR/MEDIA/DOCUMENTS/04_CARACT_POPULATION_IMMIGRANTE.PDF
*Thuyền nhân Nguyễn Thượng Chánh
- Tự do vô giáhttp://vietbao.com/D_1-2_2-67_4-205311_5-15_6-5_17-7639_14-2_15-2/
- Tuyết lạnh tình nồnghttp://vietbao.com/D_1-2_2-67_4-205312_5-15_6-5_17-7639_14-2_15-2/
*Bùi Trọng Cường và Nguyễn Phục Hưng- Di tản và dượt biênhttp://nguoiviethaingoai.org/ditan.html
Montréal, tháng tư năm 2013
|
|
0 comments:
Post a Comment