Trong
năm 2010, nhiều bài vở trên báo chí, truyền thanh, truyền hình đã vạch
rõ bộ mặt bán nước của nhà cầm quyền Công Sản, đứng đầu là Hồ Chí Minh.
Cuốn DVD “sự thật về Hồ Chí Minh” do Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ và bạn hữu
thực hiện đã đưa những sự kiện lịch sử để dẫn chứng về sự bán nước này,
và đã được dư luận khắp nơi ủng hộ. Một số phần tử lưng chừng ở Việt
Nam, sau khi xem xong cuốn phim này đã thay đổi hẳn thái độ và đứng về
phía các nhà Dân Chủ mà đấu tranh chống lại nhóm cầm quyền độc tài bán
nước Cộng Sản Việt Nam. Ông Nguyễn Văn Văn, một nhà Dân Chủ ở Hà Nội,
qua cuộc phỏng vấn của đài Little Saigon Radio, thứ năm 22 tháng 7, năm
2010, cho biết: “Từ hơn 30 năm nay, tôi vẫn tin tưởng ở Đảng Cộng Sản,
cho mãi đến khi xem cuốn DVD Sự Thật về Hồ Chí Minh, tôi mới tỉnh ngộ và
bắt đầu chiến đấu chống lại cái đảng bán nước này.”
Tuy
nhiên, tất cả những lời tố cáo trên đều do những người ở về phía đối
lập với Bắc Bộ Phủ, cho nên cũng chưa được thành công tối đa, vì nhiều
người đọc, người xem, và người nghe cho rằng đó là những điều tuyên
truyền của những người chống Cộng cực đoan và những thành phần thuộc chế
độ cũ. Giờ đây, đọc cuốn hồi ký “Ghi chép về việc đoàn cố vấn quân sự
Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp” do Nhà Xuất Bản Lịch Sử Đảng
Cộng Sản Trung Quốc, Bắc Kinh ấn hành năm 2002 và được dịch bởi Trần Hữu
Nghĩa và Dương Danh Dy, toàn bộ diễn tiến nô lệ Trung Cộng đã được phơi
bầy một cách rõ ràng. Qua cuốn hồi ký viết bởi những nhân vật cao cấp
của Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc này, người đọc mới hiểu tại sao
Hồ Chí Minh và thuộc cấp đã không thể nào không cúi đầu trước sự chỉ đạo
của Trung Cộng, và không thể nào không dâng đất cho Trung Cộng để trả
ơn cứu trợ từ những năm xưa. Điểm đáng nói là cuốn sách được xuất bản
đúng thời điểm mà Trung Cộng từng bước thôn tính Việt Nam, từ biển Đông,
tới Tây Nguyên, và miền cực Bắc Việt Nam. Có lẽ đây là một lời cảnh cáo
các kẻ cầm quyền Việt Nam: “Đừng quên là Cộng Sản Việt Nam đã từng nợ
đàn anh Trung Quốc từ khi còn Pháp thuộc. Nếu không có đàn anh Trung
Quốc viện trợ, thì đảng Cộng Sản Việt Nam đã không tồn tại mà tham tham
nhũng nhũng, sống huy hoàng phè phỡn như hôm nay.” Và cũng có lẽ đây là
một lời trần tinh về âm mưu thôn tính Việt Nam của Cộng Sản Trung Quốc,
nhằm giải thích cho dư luận biết tại sao mà Trung Cộng muốn coi Việt Nam
như cái sân sau của Trung Cộng.
Qua
cuốn hồi ký này, người đọc mới thấy rõ mối giây liên lạc chặt chẽ giữa
hai đảng Cộng Sản: Việt Nam và Trung Quốc, đúng như lời mà các Đảng Viên
Cộng Sản Việt Nam vẫn luôn đọc như đọc thần chú: “ Việt Nam – Trung
Quốc, núi liền núi, sông liền sông” và “Trung Quốc và Việt Nam như môi
với răng, môi hở thì răng lạnh”, thêm 16 chữ vàng: “Láng giềng hữu nghi,
hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”.
Cũng
qua những tác giả của cuốn tư liệu này, như La Quý Ba, Trương Quảng
Hoa, Độc Kim Ba, Vu Hóa Thầm, Trần Canh, Như Phụng Nhất, những nhân vật
lừng lẫy trong trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, người ta biết nhiều
dấu mốc quan trọng:
-Năm 1924, Hồ Chí Minh từ Moscow đến Quảng Châu, học tập lý luận Mác Lê.
-Năm 1930, Hồ chí Minh thành lập đảng Cộng Sản Đông Dương tại Hồng Kong.
-Năm 1938, Hồ chí Minh đến Diên An, tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai nước.
Sau
đó, mối quan hệ song phương càng ngày được phát triển. Tháng 10 năm
1940 Hồ Chỉ Minh đến Quế Lâm, thành lập văn phòng Việt Nam Độc Lập Đồng
Minh Hội. Trên danh nghĩa thì Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội này, sau
được gọi tắt là Việt Minh, được hoàn toàn “độc lập” theo như tinh thần
của bản tuyên ngôn, nhưng thực tế vẫn Độc Lập dưới sự chỉ đạo của Trung
Cộng!
Tháng
1 năm 1950, Hồ Chí Minh đóng giả vai người già bị thương, đầu quấn
khăn mặt, tay chống gậy, sang cầu viện Tầu Cộng. Trần đăng Ninh, một cán
bộ lão thành trong đảng Cộng Sản hộ tống và đôi khi cõng Hồ Chí Minh
sang qua cửa Thủy Khẩu thuộc Long Châu, Quảng Tây. Sau đó, Hồ Chí Minh
mới được đưa sang diện kiến Trung Ương Đảng Công Sản. Lưu Thiếu Kỳ tiếp
Hồ Chí Minh tại Trung Nam Hải. Phía Trung Cộng có Chu Đức, Đồng Tất Vũ,
Lưu Bá Thừa, Nhiếp Vinh Trần, Lý Duy Hán. Phía Việt Minh có Trần Đăng
Ninh, Hoàng văn Hoan. Sau mấy buổi họp đầu tiên không mấy thành công, Hồ
Chí Minh muốn đi Liên Xô cầu viện. Vì cũng chưa sẵn sang yểm trợ cho Hồ
Chí Minh, nên Lưu Thiếu Kỳ báo cáo với Mao Trạch Đông về việc này, và
dàn xếp cho Hồ Chí Minh đi theo Mao Trạch Đông đến Liên Xô. Chuyến đi
thất bại. Stalin không chịu viện trợ cho Hồ Chí Minh chống Pháp, mặc dù
Mao Trạch Đông giới thiệu và năn nỉ, vì trong suốt chuyến đi, Hồ Chí
Minh đã biểu diễn thành công màn kịch là một tay đàn em khả tín, biết
quỵ lụy và vâng phục. Vì thế, khi về đến Trung Nam Hải, Mao Trạch Đông
và Lưu Thiếu Kỳ quyết định giúp Hồ Chí Minh bằng một phái đoàn Cố Vấn
tối cao do Vi Quốc Thanh, nguyên Phó Tư Lệnh Lực Lượng Công An Trung
Cộng làm trưởng đoàn. Nhóm Cố Vấn này được Hồ Chí Minh ra lệnh cho toàn
thể đảng viên goi là “Các đồng chí Cố Vấn Vĩ Đại Trung Quốc.”
Đồng
thời với việc gửi đoàn Cố Vấn Vĩ Đại sang Việt Nam mở đầu chiến dịch
giúp Hồ Chí Minh, Trung Cộng viện trợ 150,000 khẩu súng, hơn 3,000 khẩu
pháo, và đạn dược, xe cộ, quần áo, lương thực, đồ dùng hàng ngày như bát
ăn cơm tráng men, khăn bông. (Trích bài viết của Trương Quảng Hoa, một
Cố Vấn Vĩ Đại của Hồ Chí Minh).
Đến
năm 1945, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thành lập vào 2 tháng 9 năm 1945
nhưng không được nước nào công nhận, trừ Trung Cộng. Staline mới đầu từ
chối không công nhận cho đến khi Trung Cộng công nhận rồi, mới chịu
thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Minh.
Thực
hiện tích cực việc yểm trợ cho Cộng Sản Việt Nam, Trung Cộng đã chỉ
đạo, giúp đỡ vũ khí, lương thực, Cố Vấn, chiến lược cho Việt Minh đánh
Pháp. Mở đầu là Chiến dịch Biên giới đánh Đông Khê (Thất Khê, Cao Bằng)
năm 1950. Các trận đánh này đều do các Cố Vấn Trần Canh, Nhiệm Cùng, Vân
Dật, Thiên Hựu, Quí ba, Kiếm Anh, Phương Phương, Quốc Thanh định đoạt.
(Trích thư của Hồ Chí Minh gửi đảng Cộng Sản Trung Quốc ngày 14/10/50).
Từ
đó, các thắng lợi khác với quân Pháp cũng đều do Cố Vấn Trung Quốc chỉ
đạo. Những cố vấn này lại nhận chỉ thị trực tiếp của Lưu thiếu Kỳ vì Mao
Trạch Đông giao cho Lưu Thiếu Kỳ trách nhiệm điều khiển Việt Minh.
Chiến
dịch viện trợ vĩ đại nhất mà Trung Cộng giúp Việt Cộng là Trận Điện
Biên Phủ. Thắng lợi hoàn toàn là do Cố Vấn Vi Quốc Thanh chỉ huy. Trước
trận chiến quyết định này, có một số trận đánh khác nhằm để tiêu hao lực
lượng quân Pháp. Từ ngày 20 tháng 1 năm 1954, các chiến lược tấn công
từ Tây Bắc xuống đến phía Nam như Kontum, Pleiku, Tây Nguyên, Phú Yên…
đều do Vi Quốc Thanh hoạch định. Võ nguyên Giáp chỉ biết thi hành theo
chiến thuật. Sau khi thắng lợi được vài trận, Vi Quốc Thanh quyết định
nhận lời đánh Điện Biên Phủ theo lời năn nỉ của Võ Nguyên Giáp. Mới
đầu, vì quân Pháp không nắm vững được tin tức về sự chỉ huy của Vi Quốc
Thanh, nên còn gửi thư thách thức Việt Minh. De Castries, tư lệnh quân
Pháp ở Điện Biên Phủ, viết thư cho Võ Nguyên Giáp:
“Tôi
biết bộ đội của ông đã bao vây Điện Biên Phủ, nhưng vì sao không tấn
công? Tôi đã kiên nhẫn chờ đợi. Nếu ông có gan dám mở tấn công, thì xin
bắt đầu đi. Tôi đang chờ đón những thách thức của ông, quyết một phen
thắng bại với ông”.
Thư được trình lên Vi Quốc Thanh, hắn cười nói:
“Lão De Catries này ngông cuồng lắm! Hãy đợi đấy! Đến lúc chiến dịch mở màn, là lúc hắn khóc.”
Người phiên dịch báo cáo :
“De
Castries là một danh tướng của Lục Quân Pháp là cấp dưới cũ của Navarre
, đã qua trường Quân sự, là học viên ưu tú. Hắn vốn quân hàm Đại Tá,
gần đây vừa được phong Thiếu Tướng.
Vi Quốc Thanh nói:
“Thế thì hãy để xem chúng ta học được cái gì ở học viên ưu tú này, xem họ có tài chỉ huy đến đâu!”
Và
thế là mọi kế hoạch tấn công Điện Biên Phủ đều do Vi Quốc Thanh chỉ
đạo. Từ Hồ Chí Minh đến Võ Nguyên Giáp đều im re, nghe lệnh của Vi Quốc
Thanh.
Sau
khi thắng trận, Hồ chí Minh mở tiệc chiêu đãi Vi Quốc Thanh, và ôm hôn
tay Đại Cố Vấn này. Hồ Chí Minh còn làm một bài thơ chữ Hán tặng Vi Quốc
Thanh:
Bách Lý tầm xuân vi ngộ quân
Mã đề đạp toái lĩnh đầu văn
Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ
Mỗi đóa hoàng hoa nhất điểm xuân
(Trăm
dặm tìm bạn nhưng không gặp, vó ngựa dẫm nát mây đỉnh núi, Quay về tình
cờ gặp cây mai rừng, mỗi đóa hoa vàng một điểm xuân). (Trích tài liệu
của đại cố vấn Vương chấn Hoa tức Vu Hóa Thầm).
Từ
đó, cho đến 30-4-1975, nhất cử nhất động đều do Đại Cố Vấn Trung Quốc
chỉ huy và yểm trợ. Ngoài việc viện trợ súng đạn và lương thực, Trung
Cộng còn cung cấp nhân sự. Các binh lính Trung Cộng đều trá hình làm
lính hậu cần.
Trong
thời gian giúp cho Việt Cộng thành công việc cưỡng chiếm miền Nam,
Trung Cộng đã để lộ dã tâm muốn đòi nợ chiến tranh bằng lãnh thổ. Khi
Nixon dội bom Bắc Việt, Trung Công cho thiết lập giàn rada phòng không
từ bên trong đất Bắc. Sau khi chiến tranh chấm dứt, Trung Cộng không rút
về, mà biến thành đất của phương Bắc luôn. Dàn phòng không này, hiện
nay, được biến cải thành pháo đài vừa phòng không vừa có thể phóng hỏa
tiễn tấn công, lại được dùng để khống chế Việt Cộng. Bộ Chính Trị Cộng
Sản Việt Nam tuy biết là Trung Cộng xâm lăng một cách âm thầm, nhưng vì
nợ ơn nhiều quá, nên phải im lặng, và lại cũng biết rằng, nếu chỉ một
câu nói gây bất bình cho các đại cố vấn, thì tình hình nguy ngập liền.
Trận
chiến năm 1979 xẩy ra không phải vì Việt Cộng muốn đấu lại “cha đỡ đầu”
(God Father) Trung Cộng mà vì Trung Cộng bực tên đàn em đã xua quân qua
chiếm Campuchia mà không xin phép đàn anh, nên mới “dậy cho Việt Nam
một bài học”. Sau trận này, Việt Cộng khiếp hãi, không bao giờ dám làm
mất lòng đàn anh nữa.
Hiện
nay, ở miền Bắc, Trung Cộng chiếm hết các đỉnh cao để đặt rada, thêm
vài ngàn cây số vuông cưỡng chiếm bằng cách dời cột mốc, cộng với tất cả
các rừng đầu nguồn, dưới danh nghĩa là “cho thuê”. Tại cửa “khẩu”, hàng
hóa Tầu và hàng giả mạo quốc tế tự do tràn vào Việt Nam không kiểm
soát, không đóng thuế. Công An Việt Cộng đứng hút thuốc lá Tầu, nhìn dân
“cửu vạn” Việt khiêng hàng Tầu vào ào ạt và chờ đợi cho những hàng dỏm,
hàng Tầu này giết chết hết hàng nội địa Việt Nam.
Tại
Tây Nguyên, Trung Cộng vừa khai thác Bo xit, vừa thiết lập giàn phòng
không thứ hai, và đặt máy trinh thám, theo dõi các hoạt động của Bộ
Chính Trị và quân đội. Chung quanh các khu vực Trung Cộng khai thác này,
người dân Việt phải tuân theo luật lệ của lính Tầu, nếu không muốn bị
bắt, đánh đòn, và nộp tiền chuộc mạng. Lính Tầu giả dạng công nhân có
toàn quyền bắt cóc gái Việt, cưỡng bức lấy chúng, nếu không thì chúng
cưỡng hiếp. Những đứa trẻ đẻ ra bởi các cuộc hôn nhân cưỡng hiếp này
được khai sinh dưới tên Tầu. Dần dần chúng biến dân Việt thành dân Tầu
qua thẻ căn cước, những ai có thẻ căn cước Tầu sẽ được hưởng tiện nghi
đặc biệt hơn dân Việt. Nếu dân làng phản đối, lính Tầu có thể tung hàng
trăm người tràn vào làng, dùng gậy phá nhà, đánh đập dân chúng trong khi
Ủy Ban Nhân Dân và công an Việt Cộng bỏ chạy. Nhiều nhà nghiên cứu cho
biết, thực ra, Trung Cộng cũng cần có bô xít để làm nhôm, nhưng mục tiêu
chiếm lĩnh Việt Nam lại quan trọng hơn. Do đó, cho đến nay, tháng 7 năm
2010, vẫn chưa thấy ký lô nhôm nào xuất xưởng.
Trung
Cộng cũng “trúng thầu” khai thác con đường xuyên Bắc Nam, đi dọc theo
những tỉnh thành quan trọng. Bên cạnh con đường đó là tất cả các dịch vụ
phục vụ cho văn hóa Tầu. Ngoài biển Đông, Trung Cộng khống chế thủy
lợi, dành quyền khai thác thủy sản, bắt ngư dân Việt phải theo luật lệ
của chúng, nếu không, sẽ bị bắt, bị giết, bị tịch thu tầu và các phương
tiện đánh cá, ngoài ra, phải nộp tiền chuộc mạng.
Nhìn
chung, Việt Nam ngày nay là cái sân sau của Trung Cộng. Những tên Thái
Thú Trung Cộng này văn minh hơn xưa, không bắt dâng nộp gái tơ, ngà voi,
tê giác, ngọc trai như xưa, nhưng tha hồ mua gái Việt với giá rẻ như
bèo, và hưởng thụ tài nguyên cùng nhân lực Việt Nam không tốn một viên
đạn. Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay, đang thực hiện đúng đắn những
phương châm lãnh đạo đất nước là “Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý, Nhân
Dân làm Chủ” Họ chỉ dấu đi hai chữ “Trung Cộng” sau những nhóm chữ đó.
Nhóm chữ này, nếu viết đầy đủ, sẽ là : Đảng Cộng Sản Trung Quốc lãnh
đạo, Nhà Nước Việt Nam quản lý, Nhân Dân Trung Quốc làm chủ kinh tế Việt
Nam.
CỘNG SẢN VIÊT NAM ĐÃ LÀ NÔ LỆ CỦA TRUNG CỘNG TỪ NHIỀU THẬP NIÊN TRƯỚC (2)
Trong
bài thứ nhất, một số tư liệu đã được liệt kê, chứng minh Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã lệ thuộc Đảng Cộng Sản Trung Quốc từ nhiều năm trước. Qua
bài viết “Mẫu Mực sáng ngời của Chủ Nghĩa Quốc Tế Vô Sản” do La Quý Ba
(Luo Guibo), Trưởng Đoàn Cố Vấn Chính Trị cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
từ 1951-1954, Đại Sứ Trung Quốc tại VNDCCH từ 1954-1975, xuất bản bởi
Bắc Kinh năm 2002, độc giả còn được biết thêm nhiều chi tiết về vấn đề
hữu nghị “anh-em” nhưng thực chất là “nô lệ, cha-con” này.
La Quý Ba viết:
“Tháng
1, 1950, Hồ Chí Minh đích thân bí mật đến Bắc Kinh, yêu cầu Trung Ương
Đảng Cộng Sản Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp. Trung ương đảng
ta theo yêu cầu của Hồ chí Minh và Trung ương Đảng Đông Dương, đã báo
cáo và được Mao Chủ Tịch đồng ý, quyết định cử tôi bí mật sang Việt Nam,
làm đại diện liên lạc giữa Trung ương đảng Cộng Sản Trung Quốc và Trung
Ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ còn tự tay viêt
giấy giới thiệu cho tôi:
“Xin
giới thiệu đồng chí La Quý Ba, Bí thư Tỉnh Ủy và chính ủy trong quân
đội của chúng tôi đến chỗ các đồng chí làm đại diện liên lạc của Trung
Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, đi theo có 8 tùy tùng.
Lưu Thiếu Kỳ , Bí Thư Trưởng Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, ngày 17/1/1950”
Sau
khi nêu lên tình hình chiến tranh Việt Nam với sự can thiệp của Anh,
Pháp, và Quốc Dân Đảng Trung Quốc cùng đến Việt Nam để tiếp nhận sự đầu
hàng của Nhật, La Quý Ba cho biết là “vào thời điểm này, trên quốc tế
chưa có một nước nào công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, không có
một tổ chức quốc tế nào đặt quan hệ với Việt Nam, Việt nam chưa giành
được vị thế quốc tế, cũng không được viện trợ bên ngoài. Vấn đề viện trợ
Việt Nam chống quân xâm lược thực dân Pháp như thế nào là một việc lớn
mà lãnh đạo tối cao ba phía Trung Quốc, Việt Nam, Liên Xô trao đổi bàn
bạc.” La quý Ba xác nhận rằng Hồ Chí Minh đã vội vã đề nghị các nước Xã
Hội Chủ Nghĩa công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng Liên Xô đã bác
bỏ ngay, chỉ có Trung Cộng công nhận Việt Cộng mà thôi. Sau khi Trung
Cộng công nhận Việt Cộng rồi, thì Liên Xô mới chính thức giao hảo sau.
La quý Ba kể rõ chi tiết về việc Hồ Chí Minh bị Liên Xô từ chối viện trợ:
“Hồ
Chí Minh từ xa xôi nghìn trùng đến Trung Quốc, đi Liên Xô là để mong
được sự viện trợ nhiều mặt, nhất là viện trợ về quân sự và kinh tế tài
chính. Stalin cho rằng, Trung Quốc là nước láng giềng của Việt Nam, hiểu
rõ tình hình Việt Nam, còn Liên Xô và các nước Đông Âu chịu nhiều vết
thương chiến tranh nặng nề trong chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô
còn phải giúp đỡ các nước XHCN Đông Âu khôi phục và xây dựng, trên vai
còn rất nặng gánh, mong rằng nhiệm vụ viện trợ Việt Nam, Trung Quốc là
chính.”
Từ
đó, Trung Cộng công khai giúp đỡ Việt Minh về mọi mặt. Bắt đầu từ những
trận đánh lớn với quân Pháp. Những điều mà La Quý Ba kể lại sau đây đã
đánh đổ huyền thoại Võ Nguyên Giáp và quân đội Nhân Dân, vì theo lời kể
của La, thì hầu như mọi trận đánh đều được các “đồng chí Cố Vấn Trung
Quốc Vĩ Đại” chỉ thị. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình chiến tranh
giữa Việt Minh và Pháp, La Quý Ba nhận xét:
“Bước
đầu tiên viện trợ Việt Nam là phải khai thông giao thông biên giới
Trung-Việt, vì có thế vật tư viện trợ Việt Nam mới có thể chở sang Việt
Nam thuận lợi. Chỉ cần quân đội Nhân dân Việt Nam chiếm con đường giao
thông chủ yếu trên biên giới Trung-Việt thì quân Pháp sẽ mất ưu thế số
một. Chỉ có hai lựa chọn khai thông con đường giao thông chủ yếu biên
giới Trung-Việt: một là đánh Cao Bằng tiếp giáp giữa Việt Nam và Quảng
Tây; một nữa là đánh Lào Cai tiếp giáp giữa Việt Nam và Vân Nam. Đánh
Cao Bằng trước hay đánh Lào Cai trước, hay là đánh cả hai cùng một lúc,
Trung Ương đảng Cộng Sản Đông Dương và Trung Ương đảng ta đều đã điều
tra nghiên cứu, suy nghĩ trao đổi nhiều lần gần 3 tháng. Ngày
02/07/1950, Mao Chủ Tịch gửi điện trả lời Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt
Nam:
“Đồng
ý ý kiến đánh Cao Bằng trước, phương án tác chiến cụ thể đối với Cao
Bằng, chờ sau khi Trần Canh đến, do các đồng chí quyêt định cuối cùng….”
Như
thế, mọi việc đã rõ: Trung Cộng chỉ đạo cho Việt Cộng từng chi tiết
chiến tranh. Trần Canh là nhân vật cố vấn tối cao về chiến tranh Việt
Nam, không phải Võ Nguyên Giáp cũng không phải Hồ chí Minh. Dĩ nhiên,
Mao Trạch Đông là lãnh tụ cao nhất.
Vì
thế, trong tất cả các cuộc mít tinh của Việt Cộng, hình Mao Trạch Đông,
Stalin luôn được treo lộng lẫy trên cao, trong khi hình Hồ Chí Minh chỉ
được treo phía dưới.
Ngoài
ra, các cố vấn Trung Cộng là các chỉ huy trực tiếp của Việt Cộng. Lính
Trung Công thì được giả trang thành các đầu bếp hoặc lính cần vụ để che
mắt quốc tế.
Quân
Ủy và Bộ Chính Trị Trung Cộng giữ vai trò chủ đạo từ xa. Ai cũng biết,
với vai trò Chủ Tịch Đảng Công Sản Trung Quốc, Mao Trạch Đông nhất định
không có thời gian mà bàn luận về chiến lược các trân chiến với Việt
Cộng, chỉ có thể nghe qua những lời tâu của Bộ Chính Trị, của Quân Ủy
trung ương mà quyết định. Một khi mà Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương
muốn tâu trình lên Mao Chủ Tịch, phải họp bàn liên miên rồi mới quyết
định ra một chiến lược cuối cùng. Như đã viết ở trên, trận đánh Tây Bắc
đã được bàn thảo gần 3 tháng mới được lệnh của Bắc Kinh mà thi hành.
Nhưng như thế vẫn chưa đủ cho tinh thần nô lệ của Hồ Chí Minh. La quý Ba kể thêm về sự khẩn nài của Hồ Chí Minh như sau:
“Mùa đông năm 1951, Hồ Chí Minh một lần nữa bí mật đến Bắc Kinh thăm Trung Quốc.”
Sau khi kể về việc ôm hôn thắm thiết, La Quý Ba cho biết:
“Trong trao đổi, Hồ chí Minh hỏi Mao Chủ Tịch:
“Bộ
Chính Trị Trung Ương chúng tôi yêu cầu đồng chí La Quý Ba khi tham gia
hội nghị Bộ Chính Trị Trung Ương chúng tôi nêu nhiều ý kiến về các mặt
công tác của chúng tôi, giúp đỡ nhiều cho chúng tôi. Nhưng đồng chí quá
thận trọn, quá khiêm tốn. Tôi mong các đồng chí giao cho đồng chí ấy nêu
nhiêu ý kiến. Mao Chủ Tịch, các đồng chí có đồng ý không?”
Đây
là một câu nói xã giao kiểu cách, có tính chất chính trị. Thay vì nói
thẳng là “chúng tôi mong đồng chí ấy chỉ dậy thêm cho chúng tôi”, thì
lại nói khéo là xin “giao cho đồng chí ấy nêu nhiều ý kiến!”
Hồ
Chí Minh còn đóng kịch là một đệ tử chân thành: “Hồ chí Minh là người
rất giầu tình cảm, nhìn thấy rõ người bị truyền cảm bởi sự chân thành
của Mao Chủ Tịch, Người đứng dậy nói:
“Tôi và các đồng chí Việt Nam đều cảm nhận sự chân thành giúp đỡ chúng tôi từ trong hành động của các đồng chí”.
La
quý Ba còn kể nhiều chi tiết về bữa cơm thân mật với Mao Chủ Tịch,
trong đó Hồ Chí Minh khoe về tài ăn ớt chỉ thiên của mình.
Sau
lần ăn cơm thân mật nói chuyện về ớt đó, thì hầu như mọi việc sinh hoạt
của đảng Cộng Sản Việt Nam đều được chỉ thị của Trung Cộng:
“Dù là
điện của Trần Canh, Vi Quốc Thanh và tôi xin chỉ thị của Mao Chủ Tịch,
Trung Ương Đảng hay chỉ thị của Mao Chủ Tịch, Trung Ương đảng đối với
chúng tôi, dù là bức điện về mặt tác chiến (như chiến dịch Biên Giới,
chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến dịch Tây Bắc. v.v..) xây dựng bộ đội và
huấn luyện bộ đội, hay là những bức điện vấn đề quan trọng về mặt xây
dựng tư tưởng và xây dựng tổ chức của Đảng, công tác tài chính kinh tế,
công tác cải cách ruộng đất, viện trợ quân sự, viện trợ tài chính kinh
tế và công tác công an, tình báo, dân tộc thiểu số..v.v.. Mao Chủ Tịch
đều đích thân phê duyệt, sửa chữa, ký cho chuyễn đi, trong đó có những
bức điện đặc biệt quan trọng, Mao Chủ Tịch tự khởi thảo, khi trả lời các
bức điện của Hồ Chí Minh, Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam trưng cầu ý
kiến Trung Ương Đảng hoặc các bức điện quan trọng của Mao Chủ Tịch,
Trung Ương Đảng nêu ý kiến hoặc kiến nghị với Hồ Chí Minh…”
Qua
sự trình bầy của La quý Ba, sự việc đảng Cộng Sản Việt Nam là nô lệ của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã rõ ràng. Ngay cả việc đấu tố trong cải cách
ruộng đất cũng là một bài học mà học trò Việt Cộng thực tập với quan
thầy Trung Cộng, với xác và máu trên ba trăm ngàn người Dân Oan cũng như
cán bộ bị sửa sai. Chưa kể giai đoạn sau, khi gây chiến với Miền Nam,
Việt Cộng còn nợ Trung Cộng không biết bao nhiêu súng đạn, quân trang,
quân dụng và thực phẩm. Những Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sau
khi bị lừa váo các trại cải tạo đều có chế độ ăn uống giống nhau: Gạo
Trung Cộng đầy sâu bọ bò lổn nhổn trong các bao gạo mốc ẩm, mà lớp mốc
ẩm có thể dầy đến một xăng ti mét. Điều này chứng tỏ Việt Cộng sống dựa
vào “đàn anh – cha nuôi – ông chủ” Trung Cộng tối đa, chưa kể khi Mỹ thả
bom miền Bắc, Việt Cộng đã phải cầu cứu Trung Cộng mang các giàn ra đa
tối tân và hệ thống súng phòng không dầy đặc không gian miền Bắc. Trung
Cộng đã thừa cơ hội, mang quân và ra đa sang miền Bắc, thiết lập doanh
trại với các biện pháp an ninh tối đa, sau đó, thản nhiên sát nhập các
vùng có ra đa này thành vùng của Tầu, mà không có ý định trả lại. Từ các
doanh trại cực kỳ an ninh này, Trung Cộng đã khống chế toàn bộ miền Bắc
qua các máy móc gián điệp cực kỳ tinh vi, theo dõi các lãnh đạo Bắc Bộ
phủ, rồi “black mail” đe dọa những kẻ muốn trở cờ, hay thăng thưởng cho
những tên đầy tớ trung thành bằng tiền bạc hay chức vụ.
Như
thế, việc Phạm Văn Đồng ký giấy công nhận chủ quyền của Trung cộng trên
Hoàng Sa cũng chỉ là một biện pháp trả nợ. Việc Việt Cộng lờ đi sự ăn
hiếp của Trung Cộng trên biển Đông, núp tránh việc ngư dân bị bắn, giết,
phá tầu, đòi tiền chuộc, việc ký khai thác Bô Xít, cho thuê rừng đầu
nguồn, cho thắng các cuộc đấu thầu từ Nam ra Bắc… cũng chỉ là vấn đề trả
nợ mà thôi.
Dân
Việt Nam, nếu muốn được sống oai hùng, độc lập,không sợ Trung Cộng ăn
hiếp, thì dứt khoát phải lùa cái đảng Cộng Sản Việt Nam nô lệ này xuống
biển. Còn Việt Cộng thì còn Trung Cộng đứng sừng sững sau lưng với cái
búa đòi nợ!
CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ LÀ NÔ LỆ CỦA TRUNG CỘNG TỪ NHIỀU THẬP NIÊN TRƯỚC (3)
Trong
cuộc nói chuyện riêng với Tiến Sĩ Lê Quốc Quân tại Sài gòn ngày 9 tháng
8 vừa qua, ông có vẻ vui mừng cho biết là hiện nay Hà Nội đang khởi
động một khí thế mới nhằm chống lại sự khống chế của Trung Cộng. Một nhà
Dân Chủ khác, ông Nguyễn Văn Văn ở Nghệ An, cho rằng ngoài việc tăng
cường sức mạnh quân đội, Nhà Nước đang từng bước tiến tới việc thay thế
ảnh hưởng của Trung Quốc bằng Hoa Kỳ. Việc Ngoại Trưởng Hilary Clinton
tuyên bố ngăn chặn sự độc quyền di chuyển của Trung Cộng trên biển Đông
cũng đã làm cho nhân dân Việt Nam nức lòng chờ đợi. Thêm vào đó, sự kiện
chiến hạm John S. McCain ghé bến Đà Nẵng và 3 chiến hạm Curtis Wilbur,
Chung-Hoon, McCampbell bỏ neo ngoài khơi trong tháng 8 năm 2010 cũng là
một dấu chỉ cho thấy Mỹ cũng đang tìm cách lấy lại ảnh hưởng với Đông
Nam Á, đặc biệt là Việt Nam. Một số bình luận gia còn cho rằng việc Hàng
Không Mẫu Hạm USS George Washington mời các tướng lãnh Cộng Sản Việt
Nam lên thăm tầu khi đang neo ở khoảng cách giữa Đà Nẵng và Hoàng Sa là
một cử chỉ thiết thực nhất của việc liên kết giữa Việt Cộng và Hoa Kỳ
trong tương lai để chống lại mộng bá quyền của Trung Cộng.
Nhưng
một trí thức khác, Kỹ Sư Nguyễn Trung Lĩnh, người đã từng ở Âu Châu 12
năm, nay đang hoạt động tại Hà Nội lại có quan điểm hoàn toàn ngược lại.
Ông nói: “Đừng vội sung sướng với những biểu hiện bề ngoài đó!” Trong
một cuộc nói chuyện dài khoảng 30 phút, ông cho rằng nhà cầm quyền Cộng
Sản Việt Nam khó lòng thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Cộng đang đè nặng
lên dân Việt. Theo ông có hai cách duy trì vị trí “vĩ đại” của Trung
Cộng trên đất Việt. Trước hết, Trung Cộng tìm cách khống chế các lãnh
đạo cao cấp Việt Cộng qua những món nợ từ trong cuộc kháng chiến chống
Pháp đến cuộc chiến tranh Việt Nam. Từ Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh
Triết, Nông Đức Mạnh, đến Nguyễn Chí Vịnh.. đều bị Trung Cộng khống chế
bằng lá bài chính trị. Họ không thể nào thoát ra khỏi vòng kềm tỏa của
Trung Cộng. Mọi cuộc thăng chức hay bãi chức đều do Cố Vấn Trung Quốc
chỉ đạo. Từ đó, cho dù Việt Nam không có treo cờ Trung Cộng trên khắp
ngả đường, bàn tay vô hình của Trung Cộng vẫn luôn đặt trên đầu các lãnh
đạo Việt Nam. Thứ hai, Trung Cộng tìm cách mua chuộc để thắng hầu như
tất cả các cuộc đấu thầu những công trình vĩ đại, to lớn. Trung Cộng
thường “lại quả” đến 30% cho một chương trình đấu thầu. Số tiền này lại
không đến từ Trung Cộng mà đến từ những khế ước đấu thầu cho Việt Nam,
tức là, Tầu dùng tiền Việt mua chuộc quan chức Việt.
Nói
một cách cụ thể, nếu một công trình trị giá 5 tỷ đô la được thực hiện
ởViệt Nam, Trung Cộng lấy ra 30% tức là 1 tỷ rưỡi đô la để chi cho các
quan lớn. Một số tiến khùng khiếp làm cho tất cả những tâm hồn tham
nhũng không thể không rung động. Môt giới chức cao cấp của Cộng Sản, còn
đang trong vòng hoạt động Dân Chủ một cách bí mật, nói rằng vụ Trung
Cộng chi cho Nguyễn Tấn Dũng 150 triệu đô để thực hiện dự án Bô xít Tây
Nguyên là có thật. Vụ này được một số Dân Biểu phe chống Nguyễn Tấn Dũng
đưa ra trước Quốc Hội để tố khổ Dũng, nhưng vì tỷ lệ của phe có ăn chia
với Thủ Tướng quá đông, nên dự định này bị dìm chết ngay lập tức. Ngay
trước khi họp Quốc Hội, một phát ngôn viên đã ra thông báo là chuyện này
được Quốc Hội thông qua rồi, nên khỏi bàn tới.
Trong
giới thạo tin ở Sài Gòn cũng có vài lời xì xào về việc cựu Chủ Tịch Lê
Đức Anh bị tố cáo ăn ngủ với một nữ gián điệp Trung Cộng khi sang Bắc
Kinh và bị chụp hình quả tang trong những tư thế không đẹp, nhưng rồi
lại đâu vào đó, các bản tin đó lập tức bị chìm chết liền, không thể lọt
ra ngoài đến tai nhân dân. Nhưng có một việc mà Bộ Chính Trị không thể
ngăn được đó là việc Tổng Cục 2 do Nguyễn Chí Vịnh cầm đầu đang bị một
nhóm tướng lãnh tố cáo đã có những hành vi qua mặt luật pháp một cách
công khai. Tuy trên giấy tờ và danh hiệu chỉ là số “2” nghĩa là còn dưới
số “1”, Nguyễn Chí Vịnh còn đứng dưới Bộ Trưởng Quốc Phòng, nhưng gần
đây số “2” này đang lộng hành, dưới sự chỉ đạo của Trung Cộng. Tổng Cục 2
không chừa một chỗ nào mà không “chọc”, từ Tình Báo, Kinh Tế, Chính
Trị, đến quân sự. Bằng chứng rõ rệt nhất là vào đầu tháng 8 năm 2010,
Nguyễn chí Vịnh đã trả lời phỏng vấn của báo South China Morning Post về
sự liên hệ giữa Trung Cộng và Việt Nam. Theo nguyên tắc thông thường,
chỉ có Bộ Trưởng Quốc Phòng mới có quyền trả lời những cuộc phỏng vấn
như vậy, và mỗi lần phỏng vấn, phải hỏi ý kiến Bộ Chính Trị. Đằng này,
Nguyễn Chí Vịnh khơi khơi nịnh bợ Trung Cộng khi trả lời một tờ báo mà
ai cũng biết là gián điệp của Trung Cộng. Vì thế, mà dư luận cho rằng
Tổng Cục 2 chính là cánh tay nối dài của Trung Cộng, và Nguyễn chí Vịnh
là một đứa con nuôi của đại sứ Bắc Kinh.
Cũng
theo Kỹ Sư Nguyễn Trung Lĩnh, như vậy, việc vùng vẫy thoát khỏi quỹ đạo
của Trung Cộng là việc “còn lâu!” Rừng đầu nguồn đã lọt vào tay Trung
Cộng một cách chính thức, đường xuyên tốc Bắc Nam đã được Trung Cộng và
Việt Cộng ký kết, nhận cho Trung Cộng độc quyền khai thác khắp cả đất
nước Việt Nam. Hàng dỏm của Trung Cộng tràn ngập, giết chết hàng nội
địa. Và còn hàng ngàn những dịch vụ từ trung bình đến lớn đều nằm trong
tay Trung Cộng.
Trong
hai bài trước, người viết đã trình bầy những dữ kiện liên quan đến việc
Hà Nội vẫn là nô lệ của Trung Cộng từ nhiều thập niên trước, qua tuyển
tập phát hành bởi Nhà Xuất Bản Lịch Sử Đảng Cộng Sản Trung Quốc, in tại
Bắc Kinh, năm 2002, và được dịch bởi Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy,
những chuyên viên về Trung Quốc, đang sống ở Việt Nam. Tuyển tập này
được hiệu đính bởi Dương Danh Dy, có hàng chữ “Tài liệu lưu hành nội bộ”
lại được Tập San Truyền Thông (Canada) số 32 & 33, in lại vào Hạ -
Thu 2009. Người chủ biên là Trần Giao Thủy. Trong tuyển tập gồm toàn
những tài liệu quý giá này của nhà nghiên cứu Trần Giao Thủy, người ta
thấy có những bài viết xác định rõ vai trò của Trung Cộng trong suốt
chiều dài lịch sử của Việt Cộng. Một trong những bài viết có tính tổng
quát nhất là bài “Đoàn Cố Vấn Quân Sự hoàn thành nhiệm vụ Viện Trợ cuộc
đấu tranh chống Pháp của Việt Nam” do Trương Quảng Hoa viết, có ghi lại
những đặc tính của những món nợ giữa Trung Cộng và Việt Cộng theo 6 điểm
chính.
“Thứ
nhất: Giúp Quân Đội Nhân Dân tổ chức chỉ huy tác chiến, giành thắng lợi
chiến tranh chống Pháp.” Trong mục này, Trương quảng Hoa ghi rõ: “Từ
tháng 8 năm 1950, đoàn cố vấn quân sự sang đến Việt Nam, đến đình chiến
Dộng Dương năm 1954, Quân đội nhân dân lần lượt tiến hành tám chiến dịch
quy mô tương đối lớn: Biên Giới, Trung du, Đông bắc, Nình Bình, Hòa
Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, Điện Biên Phủ. Trừ chiến dịch Hòa Bình, do
Đoàn cố vấn quân sự đang tập huấn chỉnh đốn chưa ra mặt trận trực tiếp
giúp chỉ huy ra, còn các chiến dịch khác đều tiến hành dưới sự giúp đợ
của Đoàn cố vấn quân sự từ quyết sách đến tổ chức thực hiện trong suốt
quá trình chiến dịch.”
Trong
đoạn này, tác giả nói rõ “đã đập tan thắng lợi các kế hoạch chiến tranh
từ de Lattre de Tassigny đến Navarre, từng bước giành thắng lợi trong
chiến tranh chống Pháp.”
Đoạn tiếp theo chỉ rõ Trung Cộng đã làm gì để giúp quân đội Việt Cộng:
“Thứ
hai: Giúp quân đội nhân dân tăng cường xây dựng quân sự, nâng cao tố
chất quân sự của bộ đội. Căn cứ theo yêu cầu phát triển của tình hình
Đoàn cố vấn quân sự giúp Quân đội nhân dân thực hiện ba lần chuyển biến
về tư tưởng chỉ đao tác chiến và xây dựng quân đội, tiến hành ba lần
chỉnh đốn biên chế tổ chức trang bị và huấn luyện quân sự có tính cách
toàn dân….được Trung Quốc viện trợ và Đoàn cố vấn quân sự giúp đỡ cụ
thể, Quân đội nhân dân lần lượt thành lập 6 Đại đoàn bộ binh và 1 đại
đoàn công pháo biên chế, cải thiện trang bị, tăng cường huấn luyện chiến
thuật kỹ thuật bước đầu nắm vững cách đánh vận động và nắm kỹ thuật
lớn. Sức chiến đấu nâng cao rõ rệt.”..
Đoạn
thứ ba nói về vai trò chính trị trong quân đội: “Thứ ba: giúp quân đội
nhân dân tăng cường xây dựng chính trị, nâng cao tố chất chình trị của
quân đội. Một là, giúp đặt đúng vị trí và vai trò xứng đáng của công tác
chính trị trong quân đội, chú trọng tăng cường lãnh đạo tư tưởng, tăng
cường chỉ đạo công tác chính trị thời chiến, bắt tay từ giáo dục cơ bản,
có bước đi tổ chức tiến hành bốn đợt giáo dục tư tưởng chính trị lớn
trong toàn quân, từ đó nâng cao rất nhiều giác ngộ chính trị của bộ đội…
Hai là, giúp tăng cường xây dựng Đảng trong quân đội. Sau khi công
khai tổ chức của Đảng Lao Động trong quân đội, giúp xây dựng và kiện
toàn chế độ Đảng ủy, xây dựng tập thể Đảng Ủy, làm sống động sinh hoạt
Đảng…. Ba là, giúp Tổng cục chính trị xây dựng kiện toàn bộ máy các ban
nghiệp vụ, xác định rõ ràng chức trách công việc, huấn luyện cán bộ
nghiệp vụ…”
Việ
làm sau nữa cũng là đi sâu, đi sát vào từng chi tiết trong việc huấn
luyện quân đội: “Thứ tư: Giúp Quân đội nhân dân đào tạo huấn luyện cán
bộ, nâng cao tố chất của đội ngũ cán bộ. Một là, giúp đào tạo, nâng cao
cán bộ. Đây là một khâu quan trọng để làm tốt việc xây dựng đội ngũ cán
bộ Quân đội nhân dân, bảo đảm nhu cầu tác chiến và xây dựng quân
đội….Hai là, sau chiến dịch biên giới, kịp thời nắm bắt giúp giải quyêt
vấn đề đường lối, phương châm chính sách cán bộ…”
Đó
là những mặt nổi của quân đội nhân dân, sang đến vấn đề lương thực, hậu
phương, giao thông, xây dựng các tuyến đường chữa bệnh, xây dựng binh
trạm và hệ thống cấp cứu chữa bệnh… cũng nằm trong tay cố vấn Trung
Cộng. “Thứ năm:giúp quân đội nhân dân tăng cường xây dựng hậu cần, nâng
cao năng lực bảo đảm hậu cần…”
Cuối
cùng, “Thứ sáu: Hỗ trợ làm tốt công tác viện trợ vật tư quân sự cho
Việt Nam, bảo đảm nhu cầu tác chiến và xây dựng quân đội nhân dân… Theo
thống kê chưa đầy đủ trong thời ký chiến tranh chống Pháp, Trung Quốc đã
viện trợ cho Quân đội nhân dân Việt Nam 155,000 khẩu súng các loại,
57,850,000 viên đạn các loại, 3692 khẩu pháo các loại, 1,080.000 đạn
pháo các loại, 840,000 quả lựu đạn, 1231 ô tô, 1,400,000 bộ quân phục,
hơn 14,000 tấn lương thực và thực phẩm phụ, hơn 26,000 tấn dầu, và rất
nhiều thuốc men và vật tư quân dụng khác..”
Như
thế, món nợ của Việt Cộng với Trung Cộng là một món nợ khổng lồ, không
biết đến thế hệ nào mới trả hết nổi. So sánh quân đội nhân dân với một
con người, từ những ngày mới được chập chững sinh ra, cho đến khi thành
nhân, đều được người bảo mẫu nói tiếng Trung Hoa săn sóc, thì làm sao mà
có một đứa con bất hiếu dám chống lại người bảo mẫu, vú em như thế? Chỉ
trừ khi người con kia dám làm cách mạng, mà hiện nay, miệng người con
đang ngập ngụa tiền bạc, tay chân vơ vét sắc dục thả giàn, quyền hành
mênh mông trên tất cả thân phận giống nòi Việt Nam, không thể tin rằng
có một ngày không xa, Việt Cộng bất ngờ phản lại Trung Cộng. Mà nếu có
ngày đó thực, vì người con bỗng nhiên tỉnh ngộ, nhớ lại Tổ Tiên dân Việt
mới chính là nguồn máu nóng của mình, thì cũng phải có sự giằng xé nội
tâm ghê gớm lắm, có khi phải mất đi một phần thân thể, phải tự chặt đi
một cánh tay, một bàn chân của mình, hay phải cắt bỏ cái bao tử tham lam
đi, thì mới mong có ngày trở thành người Việt Nam chân chính được.
Chu Tất Tiến.
-----------
Học sinh lớp 1 bị bắt ký cam kết 'không tham gia biểu tình'
Đây là Bản cam kết của Trường tiểu học Nguyễn Du - Quận Hoàn Kiếm, do cô giáo phát cho học sinh (cháu trai tôi, học lớp 1) và yêu cầu phụ huynh lẫn học sinh phải ký vào.
Chưa vội nói đến tính chính trị của Bản cam kết này, mà chỉ nói đến tính quy phạm của 1 văn bản thôi đã cho thấy tính chất coi thường nhân dân, cụ thể ở đây là coi thường học sinh lẫn phụ huynh.
Mang danh 1 cơ quan giáo dục, đào tạo mà bản cam kết không đóng nổi 1 con dấu đỏ thể hiện tính chính thống và tính pháp lý của đơn vị tổ chức phát hành. Nội dung cam kết thì “ông đá gà bà đá vịt”, nhăng cuội, và thể hiện sự ngu dốt tột độ của giới giáo dục vì đưa ra cái tiêu đề: Bản cam kết thực hiện đảm bảo an ninh trật tự trước, trong và sau Tết Nguyên Đán Quý Tị 2013.
__._,_.___
0 comments:
Post a Comment