Như vậy đảng CSVN và những người Cộng sản miền Nam, trong đó có bà Nguyễn Thị Bình, người đã được thu nạp vào đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1948 có còn chối cãi rằng họ “không phải là Cộng sản” không?
Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa
Tuesday, 29 January 2013
40 năm sau hiệp định Paris : Tội Lỗi VC vẫn chưa nói thật!
Tuesday, January 29, 2013
No comments
Người
lính cắm cờ Mặt trận giải phóng miền Nam trên nóc Dinh Độc Lập vào lúc
11 giờ 30 phút (30/04/1975) là Bùi Quang Thận, đại đội trưởng Đại đội 4,
Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn tăng thiết giáp 203, Quân đoàn 2 cũng là bộ đội
Cộng sản miền Bắc quê ở Thái Bình phải không? Còn chuyện bà xác
nhận “hai đoàn này là một” là chuyện ai không biết? Tuy hai khuôn mặt
nhưng là một “cơ thể” của đảng đẻ ra. Có khác chăng bà là “phái nữ” còn
ông Bộ trưởng Ngọai giao Nguyễn Duy Trinh là “phái nam”!... (Phạm Trần)
Thực chất
Hội nghị dài 4 năm 8 tháng 16 ngày, bắt đầu từ 13/05/1968 đến
27/01/1973, không kể các phiên họp kín giữa Mỹ và Bắc Việt, chỉ nên coi
đại diện cho 3 phe tham chiến gồm Mỹ, VNCH và phe Cộng sản Bắc và Nam
bởi lẽ tổ chức MTGPMN do đảng Lao Động Việt Nam, sau đổi thành đảng Cộng
sản Việt Nam thành lập và chỉ huy từ chính trị đến quân sự từ quyết
định của Đại hội tòan quốc lần thứ III ngày 10/09/1960.
Như vậy đảng CSVN và những người Cộng sản miền Nam, trong đó có bà Nguyễn Thị Bình, người đã được thu nạp vào đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1948 có còn chối cãi rằng họ “không phải là Cộng sản” không?
Bởi vì làm gì có điều được gọi là“đại diện cho cuộc chiến đấu trực tiếp với Mỹ”của phe MTGPMN trên chiến trường miền Nam trong 20 năm chiến tranh gọi “chống Mỹ cứu nước”?
Bà cũng im hơi lặng tiếng sau
chiến dịch đảng cướp sạch tài sản của giới thương gia Sài Gòn và phá
họai nền kinh tế phồn thịnh của miền Nam trong chiến dịch diệt tư sản
năm 1977 khiến cả nước phải mất hàng chục năm mới ngóc đầu lên được!
Sự thật dối mãi rồi cũng có ngày lộ
ra như trường hợp Phái đoàn của Chính phủ mang tên “Cách mạng Lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam” do bà Nguyễn Thị Bình cầm đầu tại Hội nghị
Paris cách nay 40 năm.
“Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam” đã
được ký kết ngày 27/01/1973 bởi 4 bên ghi trong biên bản gồm: Hoa Kỳ,
Việt Nam Cộng Hòa (VNCH, Nam Việt Nam), Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa (miền
Bắc) và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
(CPCMLTCHMNVN), thành lập ngày 06/06/1969, tức Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam (MTGPMN).
Ngọn nguồn xâm lăng
Bà Nguyễn thị Bình trong thời gian hiệp định Paris
Nghị quyết “về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới” được viết theo phương châm “xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam”, theo đó, chính quyền miền Bắc viết:“Để
bảo đảm cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam giành được toàn thắng,
đồng bào ta ở miền Nam cần ra sức xây dựng khối công nông binh liên hợp
và thực hiện một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống
Mỹ-Diệm lấy liên minh công nông làm cơ sở. Mặt trận này phải đoàn kết
các giai cấp và các tầng lớp yêu nước, dân tộc đa số, các dân tộc thiểu
số, các đảng phái yêu nước và các tôn giáo, và tất cả những người có
khuynh hướng chống Mỹ-Diệm. Mục tiêu phấn đấu của mặt trận này là hòa bình, độc lập dân tộc, tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa bình thống nhất Tổ quốc. Công tác mặt trận phải
nhằm đoàn kết tất cả những lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ bất cứ
lực lượng nào có thể tranh thủ, trung lập những thế lực cần phải trung
lập, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân vào phong trào đấu tranh chung
chống Mỹ-Diệm nhằm giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc.”
Trước khi chủ trương thành lập một
Mặt trận mang danh nghĩa của “nhân dân miền Nam” để chống chính quyền
VNCH thời Đệ I Cộng Hòa dưới quyền lãnh đạo của Tổng thống Ngô Đình
Diệm, đảng Lao động Việt Nam ở miền Bắc thời ấy đã nói trắng ý đồ xâm
lăng miền Nam từ năm 1959 khi đưa ra chủ trương phá hoại miền Nam qua
Nghị quyết Trung ương “lần thứ 15 (mở rộng) về tăng cường đoàn kết, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà”.
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) họp tại Hà Nội từ ngày 12 đến ngày 22-1-1959 viết:
“-
Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc
và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước
Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
-
Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế
quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô
Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp
dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do
dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo
vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới”.
Những
người Cộng sản miền Bắc cũng không giấu giếm khi họ nói thêm rằng: “Hội
nghị Trung ương lần thứ 15 nhận định rằng hiện nay, cách mạng Việt Nam
do Đảng ta lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ
với nhau, song song tiến hành, ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau, trợ lực mạnh
mẽ cho nhau, nhằm phương hướng chung là giữ vững hoà bình, thực hiện
thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam
tiến lên chủ nghĩa xã hội.” - (Tài liệu của đảng CSVN)
Cộng sản Miền Nam
Như vậy đảng CSVN và những người Cộng sản miền Nam, trong đó có bà Nguyễn Thị Bình, người đã được thu nạp vào đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1948 có còn chối cãi rằng họ “không phải là Cộng sản” không?
Cùng được kết nạp vào đảng năm 1948
còn có Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch đầu tiên của Mặt trận Giải
phóng miền Nam khi thành lập ngày 10/12/1960 và Kỹ sư Huỳnh Tấn Phát,
Phó Chủ tịch, Thủ tướng của Chính phủ CMLTCHMNVN đã gia nhập đảng Cộng
sản Đông Dương từ năm 1947.
Theo tiểu sử công khai thì Bà Bình,
tên thật là Nguyễn Châu Sa hay Nguyễn Thị Châu Sa, sinh ngày 26 tháng 5
năm 1927 tại tỉnh Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Tuy nhiên, nguyên
quán của thân phụ bà là ông Nguyễn Đồng Hợi, lại ở Điện Bàn, Quảng Nam.
Thân mẫu bà là bà Phan Thị Châu Lan (tục gọi là cô Mè, 1904-1944), là
người con gái thứ hai của nhà chí sĩ Phan Chu Trinh.
Bà Bình tham gia hoạt động chống
Pháp từ thời còn niên thiếu. Năm 1954, bà ra tù và tham gia phong trào
hòa bình đòi thi hành Hiệp định Genève. Năm 1955, bà được đảng điều ra
Bắc tập kết và được đào tạo thêm theo chương trình bồi dưỡng cán bộ đặc
biệt.
Năm 1962, bà được điều trở lại miền
Nam với cái tên mới là Nguyễn Thị Bình, giữ chức vụ Ủy viên Trung ương
Mặt trận Giải phóng, hoạt động trong tổ đối ngoại, kiêm Phó tổng thư ký
Hội Phụ nữ Giải phóng. Cuối năm 1968, bà được cử làm Trưởng đoàn đàm
phán của Mặt trận Giải phóng sang Paris dự Hội nghị Paris về Việt Nam,
đến đầu tháng 1 năm 1969, ông Trần Bửu Kiếm giữ chức vụ trưởng đoàn, còn
bà được rút về nước để chuẩn bị cho việc thành lập Chính phủ lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sau đó đảng Cộng sản cử Bà làm Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao cho Chính phủ này để đảm nhận lại chức vụ Trưởng đoàn đàm
phán của phe MTGPMN tại cuộc hòa đàm Ba Lê.
Những mặt trái
Trong cuộc phỏng vấn của báo điện tử đảng Cộng sản Việt Nam phổ biến ngày 23/01/2013, bà Bình nói: “Trong
4 đoàn, đoàn Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đại diện cho
cuộc chiến đấu trực tiếp với Mỹ. Do đó theo tôi, chú ý của thế giới tập
trung vào đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; và hơn nữa, như chúng ta
biết, hai đoàn này là một, mục tiêu là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Vì vậy, tất
cả những đề nghị giải pháp đưa ra đều do Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam và được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
ủng hộ. Vì thế, vị thế của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam là rất quan trọng trong đàm phán Hiệp định Paris. Bên
cạnh đó, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam còn có
vị trí quan trọng, bởi là người trực tiếp chiến đấu, với đường lối độc lập hòa bình trung lập, nhấn mạnh đến đường lối hòa bình, mềm dẻo đối ngoại trong đàm phán.”
Bà Bình đã “phóng đại tô mầu” văng miệng cho vai trò “chiếc áo rộng hơn người mặc” của MTGPMN vì bà không mất tiền mua.
Tại sao?
Bên trái Xuân Thủy (Cộng Bắc) bên phải Nguyễn Thì Bình (Cộng Nam)
Chắc Bà Bình
quên mất hình ảnh chiếc xe tăng đi đầu húc đổ cổng dinh Độc Lập ngày
30/04/1975 ở Sài Gòn tuy có cắm cờ của “giải phóng” nhưng những lính
trên xe là của miền Bắc đấy chứ?
Rồi người lính cắm cờ MTGPMN trên
nóc Dinh Độc Lập vào lúc 11 giờ 30 phút (30/04/1975), Bùi Quang Thận,
đại đội trưởng Đại đội 4, Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn tăng thiết giáp 203, Quân
đoàn 2 cũng là bộ đội Cộng sản miền Bắc quê ở Thái Bình phải không?
Còn chuyện bà xác nhận “hai đoàn này là một” là
chuyện ai không biết? Tuy hai khuôn mặt nhưng là một “cơ thể” của đảng
đẻ ra. Có khác chăng bà là “phái nữ” còn ông Bộ trưởng Ngọai giao Nguyễn
Duy Trinh là “phái nam”!
Thế rồi bà Bình còn hô hoán lên rằng: “Nếu
không có chiến thắng Mậu Thân 1968, không có những ngày chiến đấu ác
liệt bảo vệ thành cổ Quảng Trị, không có chiến thắng Điện Biên Phủ trên
không, không có sự hỗ trợ chi viện của miền Bắc thì không có Hiệp định
Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình tại Việt Nam. Và đương
nhiên, nếu không có Hiệp định Paris năm 1973 thì sẽ không có Đại thắng
mùa Xuân năm 1975.”
Đồng cảm giữa Xuân Thủy và Thị Bình ở Paris
Tòan là những chuyện “bới đống tro tàn tìm máu đổ” và nhận công “hão”. Bà Bình nói “chiến thắng Mậu Thân 1968” là
bà đã nhục mạ lên những xác người Việt Nam vô tội của miền Nam bị lính
Cộng sản hai miền Nam-Bắc sát hại không gớm tay trong cuộc thảm sát ở
Huế và ở khắp thành thị miền Nam của năm ấy mà bà không nhớ sao?
Còn bao nhiêu xác người dân, trong
số có không biết bao nhiêu con trẻ, phụ nữ và các cụ gìa đã bị lính Cộng
sản rượt bắn tiêu diệt không thương tiếc trên đường chạy trốn để không
bị bắt lại ở đường số 1 nối liền Quảng Trị với Thừa Thiên?
Còn chuyện bà nhớ ơn miền Bắc đã “hỗ trợ chi viện” cho miền Nam “kháng chiến chống Mỹ” và “chống Ngụy” là đầu óc bà bắt buộc phải “có vấn đề” rồi!
Nếu
miền Bắc của bà tử tế như họ nói từ xưa đến nay thì làm gì có những câu
chuyện “lính Việt Cộng miền Nam” đã “chửi thề nguyền rủa” các đồng chí
miền Bắc cướp công cách mạng của đồng bào miền Nam sau cuộc chiến?
Quân “giải phóng” làm gì có xe
tăng, đai pháo và hỏa tiễn. Chúng là của Trung Cộng và khối Liên Sô trao
cho lính miền Bắc Cộng sản để đem vào Nam giết hại dân lành và phá họai
xóm làng đấy thôi?
Chẳng nhẽ bà đã quên câu chuyện “Câu lạc bộ truyền thống kháng chiến” của
những “Lão thành Cách mạng” và Tướng tá người miền Nam bị “khóa miệng”
từ tháng 3 năm 1989 bởi Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, và một số người bị
bắt giam hoặc bị qủan thúc như các ông Tạ Bá Tòng, Hồ Văn Hiếu, Ðỗ Trung
Hiếu, Lê Ðình Mạnh?
Những người “kháng chiến gian khổ
gấp trăm lần hơn” bà Bình không “có công” với cách mạng như bà hay sao
mà họ bị trù dập đau đớn như thế, hay chỉ vì họ đã bất đồng chính kiến
và bất mãn trước chủ trương kỳ thị và những chính sách làm nghèo đói dân
miền Nam của đảng miền Bắc sau ngày 30/4/1975?
Chắc hẳn bà cũng chưa quên những
lời oán trách bị kỳ thị và bị “vắt chanh bỏ vỏ” của bà Bác sỹ Dương
Qùynh Hoa, Bộ trưởng Y tế của Chính phủ ma CMLTCHMNVN sau ngày “giải
phóng” đấy chứ?
Hay là bà Bình cũng quên nốt lời
lên án các chỉ huy quân sự miền Bắc đã “chủ ý” đẩy “lính Việt Cộng” miền
Nam vào chỗ thiêu thân trong trận tấn công Mậu Thân?
Những
người Cộng sản miền Nam được hưởng ân sủng như bà không nhiều. Nhưng bà
cũng không nên quên rằng, dù bà cố nói sai đi thì lịch sử vẫn còn ghi
đậm nét những phá họai đất đai và con người miền Nam của đảng Cộng sản
Việt Nam trong hai cuộc chiến huynh đệ tương tàn.
Bởi lẽ nếu 30,000 quân lính miền
Bắc không lén lút ở lại trong Nam sau Hiệp định Geneve 1954 để nuôi
dưỡng chiến tranh xâm lược và nếu ngót 200,000 bộ đội chính quy miền Bắc
không được “ở nguyên vị trí” trong Nam do nhượng bộ vì quyền lợi thiển
cận phải tái đắc cử của Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon trước khi ký
Hiệp định Paris năm 1973, nhờ đó mà Bắc Việt có thể dấy lên cuộc chiến
mới phá họai hòa bình để giết hại đồng bào thì làm gì có chuyện được gọi
là “Đại thắng mùa xuân 1975”, hay bị rơi vào hòan cảnh “một triệu người vui thì cũng có một triệu người buồn” như Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói?
Thế rồi người dân cũng chưa thấy bà
Bình có lời bênh vực nào cho những người biểu tình chống Trung Cộng
đang xâm chiến biển đảo của Việt Nam ở Biển Đông khi họ bị công an đàn
áp dã man từ Sài Gòn ra Hà Nội?
Cũng chưa nghe bà than phiền gì về
chuyện hàng chục nghìn người dân miền Nam đã bỏ xác trên Biển Đông khi
vượt biển tìm tự do sau ngày “các đồng chí” của bà chiếm Sài Gòn?
Bà Nguyễn Thiụ Bình hiện nay
Những tệ nạn xã
hội, văn hóa suy đồi, luân thường đạo lý đảo ngược, truyền thống dân
tộc băng họai trong xã hội ngày nay và nạn tham nhũng đang đe dọa sự
sống còn của cả nước có do Mỹ-Ngụy để lại không hay bởi “các đồng chí
Cộng sản của bà” gây ra?
Có phải đó là những “thành qủa vĩ đại” của cách mạng không hay là những thảm họa của cái gọi là “Đại thắng mùa Xuân năm 1975”?
Rồi
bà Bình hãy ngẫm lại xem chủ trương “hòa hợp, hòa giải dân tộc” do bà
rêu rao ở Hội đàm Paris 40 năm trước đã thực hành ra sao ở trong Nam kể
từ 30/04/1975, hay lòng người Nam-Bắc từ đó đến nay đã chia rẽ và hận
thù nhau hơn bao giờ hết?
Ấy là chưa kể gần như tòan vẹn trên 3 triệu cây số vuông Biển Đông đã nằm trong tay kiểm soát của Trung Cộng.
Rồi
bà phải trả lời như thế nào với một số Trí thức Sài Gòn từng là người
của MTGPMN hay cảm tình viên trong thời chiến đã bị trù dập, bị khống
chế và bị đe dọa, khủng bố trong mấy năm gần đây chỉ vì muốn biểu tình
chống xâm lăng của Trung Cộng ở Biển Đông?
Chẳng lẽ bà không biết đến những
người như Giáo sư Tương Lai, cựu Dân biều VNCH Hồ Ngọc Nhuận, Bác sỹ
Hùynh Tấn Mẫm, Luật sư Lê Hiếu Đằng v.v…?
Tại sao họ đã quay lưng lại với đảng và nhà nước của bà thì bà phải hiểu chứ?
Những sự thật phũ phàng này không ghi trong “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam” nhưng đang nhảy múa trước mắt mọi người.
Chẳng nhẽ bà Bình không thấy hay Bà biết mà không dám nói?
(01/2013)
Phạm Trần
Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!
.
.
0 comments:
Post a Comment