Chết Không Nhắm Mắt
S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến
Tôi tình cờ “nhặt” trên FB một tác phẩm khá độc đáo của Marc Riboud.
Ông “chớp” được cảnh một anh bộ đội (với con búp bê nằm dưới nắp ba lô,
và cái sắc cầm tay) đang trên đường trở về quê cũ. Cùng với bức ảnh là
lời bình, cũng độc đáo không kém, của face booker Nguyễn Hoàng : “Thằng
này coi vậy mà hiền, chỉ lấy con búp bê cho con và cái bóp đầm cho vợ mà
thôi.”
Thằng chả hiền thiệt chớ. Cái ba lô xẹp lép hà. Ngó thấy mà thương.
Là kẻ cầm súng, thuộc phe thắng trận, đương sự có thể thu góp được chiến
lợi phẩm nhiều hơn thế.
Bên thua cuộc, rõ ràng, không mất mát chi nhiều mà Bắc/Nam đã được “nối vòng tay lớn” – theo như cách nói của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn. Rồi ra, tác giả còn dự tưởng, sẽ có những đoàn tầu thống nhất “toả khói trắng hai bên đường,” những đám “trẻ thơ đi hát đồng dao” khắp ngõ, và “mọi người ra phố mời rao nụ cười.”
Họ Trịnh, có lẽ, thực lòng tin tưởng như thế. Niềm tin của ông
cũng được không ít người cùng thời chia sẻ. Sự thực, tiếc thay, khác
thế. Sau ngày “Nam/Bắc hoà lời ca” thì nụ cười gần như biến mất trên môi
của mọi người dân Việt. Dù thuộc bên thắng cuộc, những bộ đội phục viên
cũng không hề được hân hoan cười đón khi họ trở về:
“Tôi đã được chứng kiến cảnh hẫng hụt của nhiều người khi họ… ngơ
ngác tìm kế sinh nhai, đã không ít người đòi đảng, chính quyền cơ sở
phải chia ruộng đất cho họ, và tất nhiên đảng, chính quyền không thể moi
đâu ra ruộng đất để cho họ cày, cực chẳng đã, nhiều người đã trực tiếp
đòi ruộng cha ông mà ngày trước họ đã góp vào hợp tác xã, không ít người
đã tự ý đi cày ruộng cha ông của mình, thế là … họ được quy là công
thần gây rối, chống lại đường lối của đảng, nhà nước, kết cục có người
bị đuổi ra khỏi đảng, có người bị bắt lên xã, lên huyện tạm giam để xử
lý vì đã ngang nhiên lấn chiếm đất đai của nhà nước đã giao cho người
khác.” (Vi Đức Hồi – Đối Mặt, Chương II).
Đoạn hồi ký thượng dẫn giúp cho độc giả hiểu tại sao vỉa hè Hà Nội lại đông đảo những người làm nghề cửu vạn. Họ sống ra sao?
“Mỗi tối thuê cái chiếu nằm gầm cầu, có tiền bạc của nả thì gối đầu, giắt lên ngực. Bốn bên lủng củng người nằm, nói anh bỏ lỗi, nó đéo nhau huỳnh huỵch rồi lại chửi nhau, quát nhau to tiếng hơn ô tô chạy ngoài đường.” (Tô Hoài. Chiều Chiều. Phương Nam, Hà Nội: 2014).
Giữa Thủ Đô Của Lương Tâm Nhân Loại mà trải chiếu “đéo nhau huỳnh
huỵch” thì (ngó) cũng hơi khó coi. Tuy thế – và được thế – vẫn hơn hẳn
nhiều bạn đồng đội (không may) khác, đang “nạng gỗ khua rỗ mặt đường
làng.”
Hạnh phúc hay đau khổ (nghĩ cho cùng) chỉ là sự so chiếu, và mọi so
chiếu đều tương đối cả. Nói chi đến những người lính vô danh, ngay cả
một nhân vật tiếng tăm cỡ như thi sĩ Tế Hanh (“từng là ủy viên ban chấp
hành hoặc thường vụ Hội Nhà Văn VN, từng mười năm liền phụ trách đối
ngoại của hội, từng có chân trong ban phụ trách nhà xuất bản Văn học”)
đến cuối đời cũng đành chép miệng : “Trải qua hai cuộc chiến tranh mình
còn được sống, được làm thơ, còn may mắn hơn khối người khác, thế là
được rồi.” (Vương Trí Nhàn. Cây Bút Đời Người. Phương Nam, Hà Nội: 2002).
Vâng, đúng thế. Còn sống là “may mắn hơn khối người” rồi!
Theo thống kê (chắc không khả tín) của Tổng Cục Chính Trị thì đến năm
2012, toàn quốc chỉ có 1.146.250 liệt sĩ và khoảng 600.000 thương binh,
trong đó có 849.018 liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ.
Wikipedia tiếng Việt cho biết thêm:
“Từ tháng 12 năm 1994 đến hết năm 2001, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã phong tặng và truy tặng danh hiệu cao quý cho 44.253
Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng.”
Có bà bị lọt sổ vì không đủ “kiên trinh” nên đã (lỡ) đi thêm bước nữa – theo như tường trình của Tuổi Trẻ Online:
“Chúng tôi đến
khi bà Trần Thị M. đang ăn tối ngay trên giường. Bà đã ở trên giường
như vậy gần ba năm rồi, kể từ khi đôi chân không còn tự đứng lên được
nữa. Ấy thế nhưng khi hỏi đến chuyện xưa, đôi mắt bà sáng lên. Bà say
sưa kể về những ngày hoạt động cách mạng, những ngày tù ngục đòn roi tra
tấn, thương tích tới 75% (thương binh hạng 2/4)… Vượt qua được hết, chỉ
không chịu nổi mỗi lúc nghe tin chồng, tin con thôi” – bà chợt trầm
giọng. Ba lần ‘không chịu nổi’ ấy là vào năm 1962, ông Võ Mười, chồng
bà, hi sinh khi bà mới 30 tuổi; năm 1964, con trai út Võ Danh của bà bị
bắn chết khi vừa 6 tuổi, đang được giao việc cảnh giới cho các chú cán
bộ họp; năm 1971, con trai lớn Võ Thái làm giao liên cho ban binh vận
Khu ủy Khu V hi sinh ở tuổi 16.
Còn lại một mình giữa đạn bom, hai lần bị bắt, giam cầm tra khảo ở nhà lao Quảng Ngãi, năm 1974 bà gá nghĩa với một người đồng đội, ông Thái Văn Thới. Chiến tranh vẫn ác liệt, đâu biết mai này sống chết thế nào. Thương nhau, thông cảm hoàn cảnh của nhau thì về với nhau thôi” – bà kể. Ngày 21-2-2014, UBND P.12, Q.Bình Thạnh đã tổ chức cuộc họp để xét duyệt và đề nghị Nhà nước tặng danh hiệu Bà mẹ VN anh hùng cho bà. Phường đã có tờ trình về trường hợp của bà gửi Phòng Lao động – thương binh và xã hội (LĐ-TB&XH) Q.Bình Thạnh, Sở LĐ-TB&XH TP.HCM. Tuy nhiên, sau đó gia đình bà nhận được thông báo bà chưa được lập hồ sơ đề nghị phong tặng danh hiệu Bà mẹ VN anh hùng do đã… tái giá.”
Phải chi cái hồi giao “công tác cách mạng” cho hai đứa nhỏ (6
tuổi và 16 tuổi) mà Nhà Nước cũng xét (nét) kỹ càng như vậy thì đỡ cho
mẹ Trần Thị M. biết mấy. Dù sao, vẫn còn có điều an ủi là nhờ đang sống ở
thành phố mang tên Bác nên tờ trình về trường hợp của bà cũng đã được
gửi tới Sở LĐ -TB&XH TP.HCM và đã được cứu xét (rồi) từ chối!
Có mẹ không nhận được danh hiệu anh hùng chỉ vì lỡ “chui rúc” ở những nơi hoang vu quá. Bên Kia Đèo Bá Thở là một nơi như thế:
“Trên bản đồ quân sự cũng như bản đồ của nha Địa Dư không bao giờ có địa danh ‘Đèo Bá Thở’. Bởi vì đặt cái tên cho ngọn đèo này chính là tôi và một vài người bạn… Ngọn đồi nằm không xa trại giam chúng tôi trong tỉnh Yên Bái. Ngày ngày đội chúng tôi có mười anh em phải băng qua bên kia cái đèo khốn nạn này, tới một khu rừng toàn thị là tre, nứa, giang…
Mấy ngày đầu chúng tôi không chú ý tới cuối dốc bên kia có một
cái nhà tranh đã sập. Người chủ căn nhà lấy vài thân tre to, chống cái
mái lên, nên mái nhà chạm đất. Tất nhiên trong tình trạng đó nó không có
cửa. Chúng tôi đã vài lần đi về ngang đó và tưởng nó đã bỏ hoang, bởi
vì trông nó còn thua một cái chòi chăn vịt ở miền Nam.
Một hôm cả bọn chúng tôi thấy trời còn sớm, nên nghỉ lại bên kia
dốc một lát trước khi ‘bá thở’. Chúng tôi nghe lục đục trong cái chòi bỏ
hoang, và phát giác đuợc một cụ già thật già. Nét mặt bà cụ nhăn nheo
hệt như những vết nẻ của ruộng bị hạn hán nhiều ngày.
Bà già có một cặp mắt nâu đục, lờ đờ và đầy rỉ mắt. Bà già mặc
một cái áo bông vá chằng vá đụp. Phải gọi đây là cái áo vá trên những
miếng vá. Nó nặng dễ chừng đến năm ký chứ không chơi. Chúng tôi gạ
chuyện, song tất nhiên bà già biết chúng tôi là tù ‘Ngụy’ nên không hé
răng một nửa lời.
Hôm sau trong lúc đốn tre chúng tôi hội ý. Chúng tôi lấy dư ra
mỗi ngày vài cây về giấu ở gần căn lều của bà cụ. Được vài ngày đủ tre
để dựng lại căn lều, chúng tôi để hai người lại sửa còn tám người vào
rừng đốn tre cho đủ số lượng của mười người. Chúng tôi cũng cắt tranh về
để dậm lại những chỗ quá mục nát. Căn nhà sửa xong, có cửa để chui ra
chui vào. Bà già khi đó tự động nói chuyện với tụi tôi:
– Lão có ba đứa con, một đứa đã có giấy tử sĩ, hai đứa kia thì
hoà bình lâu rồi, nhưng lão không hề nhận được một chữ của chúng từ ngày
chúng đi. Lão mới có giấy mẹ liệt sĩ, mỗi tháng có tiền nhưng chả vào
đâu.” (Hoàng Khởi Phong. “Bên Kia Đèo Bá Thở.” Cây Tùng Trước Bão. Thời Văn, Hoa Kỳ: 2001).
Bà lão hẳn đã qua đời từ lâu. Những người lính thắng trận trên
đường về quê (với con búp bê cầm tay) hơn 40 năm trước e cũng không còn
mấy ai sống sót. Đám mẹ ngụy và lũ con thua cuộc cũng thế, cũng đều đã
lần lượt đi vào lòng đất.
Kẻ Bắc/người Nam, bên thua/bên thắng nên họ đã phải trải qua
những hoàn cảnh và kinh nghiệm sống khác nhau. Duy có điều này thì chắc
chắc là hoàn toàn không khác : khi họ chết không ai nhắm mắt!
– Tưởng Năng Tiến
https://vietbao.com/p301409a311857/s-t-t-d-tuong-nang-tien-chet-khong-nham-mat
0 comments:
Post a Comment