Trong tác phẩm Bên Thắng Cuộc, chương “Nạn kiều”, nhà báo Huy Đức nhắc tới “Phương án II”, “một kế hoạch ‘được phổ biến miệng để giữ bí mật’, theo đó: người di tản được đóng vàng để công an mua thuyền hoặc đóng thuyền cho đi mà không sợ bị bắt hay gây khó khăn. Việc thực hiện Phương án II chỉ do ba người là bí thư, chủ tịch và giám đốc công an tỉnh quyết định. Công an được giao làm nhiệm vụ đứng ra thu vàng và tổ chức cho người di tản.”[1] Đó là thời điểm từ giữa năm 1978 đến giữa năm 1979, khi chiến dịch bài Hoa ở Việt Nam dâng cao và chiến tranh biên giới Việt-Trung bùng nổ. Những người vừa mất nơi sinh sống, vừa mất hết tiền của vào tay chính quyền để ra đi “hợp pháp” trong vòng bí mật và không ít cũng sẽ mất mạng trên biển trong kế hoạch này phần lớn là người Việt gốc Hoa.
Phương án bí mật, chưa bao giờ được chính quyền Việt Nam thừa nhận này, được đánh giá từ một nguồn bất ngờ khác: bức thư của cố Thủ tướng Singapore vừa qua đời, gửi cho cố Thủ tướng Anh ngày 5/6/1979, đăng trên trang Margaret Thatcher Foundation[3], diễn ra lạnh lẽo.
Cuối năm 1978, đầu năm 1979, hàng trăm ngàn thuyền nhân Việt Nam trở thành một vấn nạn quốc tế. Khác với nhiệt tình cứu giúp những năm trước, các nước trong khu vực bắt đầu lo ngại, từ chối, thậm chí xua đuổi và có cả trường hợp nổ súng vào thuyền nhân Việt Nam. Các nước phương Tây bắt đầu đùn đẩy nhau trách nhiệm bảo lãnh. (TT.Lý Quang Diệu. ẢNH TODAYONLINE.COM) Anh quốc đóng một vai trò, vì điểm đến của những nạn kiều gốc Hoa này trước hết là Hồng Kông, trong khi Anh quốc chỉ sẵn lòng tiếp nhận tổng cộng chưa đầy 2000 người.Trước áp lực của công luận, Thủ tướng Anh Margaret Thatcher thậm chí đã tính đến việc mua một hòn đảo ở Thái Bình Dương cho thuyền nhân Việt Nam định cư. Dự định này bị Lý Quang Diệu phản đối, vì lo ngại nó sẽ trở thành một đảo quốc, cũng của những người Tàu tha phương, cạnh tranh với Singpore.[4]
Ngày 23/5/1979, một chiếc thuyền với 293 người tị nạn Việt Nam được con tàu chở hàng Roachbank của Anh trên đường từ Singapore đến Đài Loan cứu vớt, đến Cao Hùng ngày 27/5. Song chính quyền Đài Loan từ chối không cho họ nhập cảnh, tàu Roachbank không được phép cập cảng.[5] Bà Margaret Thatcher đã nhờ đến Thủ tướng Singapore để gây áp lực với chính quyền Đài Loan, trước khi nước Anh phải đối diện với trách nhiệm bảo trợ những con người trong bước đường cùng đó. Toàn văn bức thư trả lời của Lý Quang Diệu như sau: Ngày 5/6/1979
Thưa Thủ tướng, Cảm ơn bà về bức thư ngày 30 tháng Năm. Vấn đề người tị nạn này rất nghiêm trọng và có lẽ sẽ còn tồi tệ hơn.
Tháng trước, tại một hội nghị quốc tế ở Jakarta ngày 15-16 tháng Năm, đại diện Việt Nam đã tuyên bố rằng Việt Nam sẽ cho phép 10,000 người di tản hợp pháp mỗi tháng. Ông ta ước chừng dè dặt là có khoảng 600,000 người muốn ra đi. Phần lớn cho rằng con số ấy có thể lên đến gần một triệu.
Bà có đề nghị tôi thỉnh nguyện chính phủ Đài Loan nhận những người tị nạn trên con tàu “Roach Bank”. Vì quan điểm của chính nước tôi trong vấn đề người tị nạn Việt Nam, tôi không thực sự là người thích hợp để đưa ra yêu cầu đó. Chính sách của Đài Loan không khác gì chính sách của Singapore. Tuy nhiên, tôi sẽ đề nghị họ cân nhắc việc đưa ra một ngoại lệ, ngoại lệ duy nhất, cho những người tị nạn trên tàu “Roach Bank”. Tôi không lạc quan về kết quả, vì tôi biết rằng nếu họ chấp nhận thì cử chỉ đó sẽ kéo theo hàng ngàn người tị nạn khác. Tôi tin rằng những tin tức về vấn đề người tị nạn trên truyền thông và từ các phát ngôn viên của các chính phủ phương Tây chỉ làm lợi cho chính quyền Việt Nam. Chú trọng vào những giải pháp có thể đặt ra, chẳng hạn nước nào sẽ đảm nhận những người tị nạn nào và bao nhiêu, truyền thông đã biến họ thành đối tượng cho sự đổ lỗi lẫn nhau giữa các chính quyền phi cộng sản. Các nước này sẽ bảo đảm được quyền lợi của mình hơn, nếu tập trung năng lượng vào việc vạch trần sự bỉ ổi của chính quyền Việt Nam. Phải nói, phải nhắc đi nhắc lại, cho nhân dân và các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới biết rằng chính quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chính là kẻ tích cực xúc tiến cuộc di tản ồ ạt này, gây thiệt hại nặng nề cho các nước Đông Nam Á. Chúng ta phải đẩy họ vào thế thủ. Các nhà lãnh đạo Việt Nam không phải là những kẻ điên rồ vô lý như kiểu Idi Amin[6].
Họ có đầu óc lạnh lùng tính toán, không hề biết động lòng với chính đồng bào mình, nhưng làm phép tính giữa chi phí và lời lãi thu về thì rất nhanh. Chỉ có nguy cơ bị cộng đồng quốc tế ruồng bỏ mới khiến họ phải phản suy xét lại đường lối hiện tại. Từ giờ đến lúc đó, họ sẽ còn tung ra hàng ngàn người tị nạn mỗi tuần.
Kính thư
Lý Quang Diệu
Với những lời thẳng thừng không một chút màu mè ngoại giao này, vị nguyên thủ Singapore khó có thể hãnh diện về trái tim nhân đạo của mình, song sự tỉnh táo sắc bén của ông quả là xứng đáng với huyền thoại Lý Quang Diệu. Làm thế nào một người hoàn toàn đứng ngoài như ông, ngay ở thời điểm đó, có thể nhận ra thực chất của chính sách kiếm lời trên lưng thuyền nhân của chính quyền Việt Nam, khi phần lớn người Việt chúng ta cho đến giờ phút này vẫn không biết gì, hoặc có biết cũng không thể tin hay không muốn tin vào cái gọi là Phương án II, như đã dẫn ở đầu bài?
Bức thư này, dù chỉ như một ghi chú nhỏ, là một bổ sung vào những trang còn trống của lịch sử thuyền nhân Việt Nam, và, bất chấp sự khó chịu của rất nhiều người Việt, nó còn cho thấy chính Việt Nam những năm tháng ấy cũng đã góp phần không nhỏ để xung đột Việt-Trung biến thành bạo lực, rồi đến lượt nó bạo lực lại nhả độc ngấm sâu trong lòng người Việt như thế nào.
Phạm Thị Hoài
T.Thomas gửi tới
0 comments:
Post a Comment