Cải Tạo hay ở Tù
Mọi người hồ hởi phấn khởi đón mừng Cách Mạng thành công, đường xá xôn xao hớt hãi những người. Nhà phố treo dầy cờ búa liềm và cờ hai màu đỏ xanh có sao vàng ở giữa. Chợ búa uể oải, ngưng đọng. Tôi âm thầm ra chợ mua về 2 ký muối hột, một bụm ớt chín đỏ đem về. Đổ muối vô cái chảo đụn, mà má tôi dùng để nấu cháo heo, rang cho nó nổ rắc rắc, rồi đem ra giã nhuyễn với ớt, thêm vô vài muỗng bột ngọt Vị hương tố. Sau đó, cho vô chảo rang lần nữa cho thiệt khô, đỏ tươi, để nguội, trút vô bọc ny-long, cột lại để đó. Má tôi thấy vậy, mới hỏi: – Con rang muối ớt kiểu gì, để làm gì mà nhiều quá vậy?
Tôi ngần ngừ rồi nói: – Hồi ở Tây Ninh, con có từng ăn muối kiểu này, thấy ngon, bây giờ con bắt chước làm đại, hông biết trúng trật. Má chưa biết đâu…… Thôi má đi nghỉ đi, để con làm.
Tôi muốn giải thích thêm là chưa chắc mình sẽ còn sống, mà không dám. Nhưng trong thâm tâm vẫn hy vọng và đang chuẩn bị cho cuộc sống ở rừng, với chút muối ớt hộ thân. Mấy hôm sau, tôi lại bị ông anh vợ thúc cùng đi cho có anh em. Tôi đành từ giã vợ con, cha mẹ mà ra đi, một chuyến đi không mong và không biết ngày về. Đó là giữa tháng 5 năm 1975. Khám lớn tỉnh có nhiều phòng giam khá rộng, nhưng chính quyền cũ không có dự trù nhốt một số khổng lồ những người phạm tội như vầy. Bây giờ thì tất cả những người nào sanh ra và lớn lên ở đây, rồi học hành ở đây, thì đương nhiên đi làm ở đây, góp công phát triển miền Nam này, bỗng nhiên trở thành tội nhân đối với người ở đâu tới. Cho nên có hàng vạn người vô khám.
Khám tỉnh, khám huyện, khám xã, khám phường. Chưa từng có trong lịch sử. Những con mồi được dỗ ngọt, lùa nhẹ, để không hoảng sợ chạy toán loạn khó bắt, chúng đang hùa nhau vô bẫy, ngoan ngoãn xin đi vô khám, vô rọ. Tôi được đưa vô phòng số 2, dành riêng cho thành phần ác ôn. Còn ông anh vợ bị đưa đi đâu mất. Phòng chật ứ người, ai cũng ở trần, thiếu điều lột bỏ luôn quần. Ở góc phòng là cái cầu tiêu lộ thiên nằm trên bệ cao vài tấc. Kế bên là cái bồn nước nhỏ để xài cho mọi thứ. Anh em nửa ngồi nửa nằm trên nền gạch đỏ. Tối đến luân phiên nhau nằm ngủ theo kiểu con tôm kho tàu. Luân phiên nhau lại gần cửa cái để kê lỗ mũi vô song sắt hít không khí bên ngoài cho đỡ ngộp. Có anh đến dựa sát vô thành cầu tiêu ẩm để tìm chút hơi mát. Tiếng thì thầm trò chuyện nghe ù ù như tổ ong. Từng nhúm họp nhau bàn tán. Có nhiều ý kiến: – Tao mong đi học cho sớm để sớm về. Nữa, tao tính làm vườn, làm ruộng có căn bản. – Tao thích về làng dạy học. Làm thầy giáo vườn cho yên thân. – Chắc tụi mình được làm lại hết, họ cần người, và có hứa bằng giấy trắng mực đen đây nè. – Người Việt mình với nhau, chắc họ không đến nỗi tệ. Hoà bình rồi. Vân vân…
Hầu hết ai cũng thật thà tin ở chánh sách khoan hồng, hoà hợp hoà giải mà chính phủ Cách Mạng của ông Phát, ông Thọ hứa.
Riêng tôi, nhớ vụ chôn tập thể ở Huế hồi Tết Mậu Thân 68, nhớ lại cuốn sách Cách Mạng và Hành Động của cụ Nghiêm Xuân Hồng, tôi đã cảm thấy nhờn nhợn và không dám tin gì hết.
Nhưng ở đây, toàn là sỹ quan và công chức mà vẫn tin dị đoan, thích chuyện Phong Thần. Cũng như dân mình, thích nghe tin đồn, nói láo hơn chuyện thật. Có lúc, tôi phải nói với vài bạn thân: – Bao nhiêu rừng rậm hoang vu đang chờ mình. Chừng nào tất cả biến thành ruộng vườn bao la thì mới được về. Tao hứa với tụi bây nè: Nếu trong vòng một năm mà được thả, tao sẽ bò về. Còn nếu 3 năm mà được thả, tao sẽ đi thụt cà lui về. Tao nói thiệt, sẽ đi thụt lui cho mày coi. Nếu 5 năm thì tao sẽ đi bộ về. Cái giá phải là10, 15 năm cho tới chung thân. Thoát khỏi bị tắm máu là phước rồi. Ngay bây giờ nếu được đi vô rừng là sướng nhứt. Ở đây ngộp quá. – Ê, thôi mầy, Thanh, đừng nói tầm bậy xui lắm mậy. Ông Nhơn, ông Phó chủ tịch Hội Đồng tỉnh phản đối. Để tao còn về phụ vợ kiếm cơm, mậy. Cái quán Hồng Hoa Lệ của vợ tao bán buôn ngon lành lắm.
Khoảng tuần lễ sau, vào lúc nửa đêm, có người đến kêu cả phòng thức dậy chuẩn bị chuyển trại. Một tốp hầu hết là sỹ quan được gọi tên, xách đồ ra ngồi ngoài sân. Tưởng được đi. Không dè lác sau họ lại kêu đám người trong phòng ra ngồi xếp hàng đôi trước cửa, trong đó có tôi. Một cán bộ lớn tuổi đến thông báo: – Mấy anh ở đây chật chội lắm. Trên có lệnh cho đưa mấy anh đi chỗ rộng rãi khoảng khoát hơn.
Để giữ an toàn cho mấy anh, cần làm chút việc để bảo vệ mấy anh, đừng lo sợ. Rồi một đám công an, phần lớn rất nhỏ tuổi, mặc đồng phục vải ny-long xanh, đến bảo vệ bằng cách dùng dây luột trói thúc ké tất cả lại, sau đó cột dính chùm từng cặp.
Rồi, từng cặp, từng cặp được đẩy lên xe bít bùng, đưa đi. Tôi được kết chặt với chú T.V. Hải, Chủ sự phòng Hành Chánh tỉnh.
Đêm khuya phố vắng tanh, mọi người đang yên giấc. Tôi thoáng nghĩ tới vợ con.
Xe chạy một hồi lâu, tới vàm sông cái thì tù nhân được chuyển xuống nhiều ghe chài nhỏ nhỏ, mui thiếc bít bùng ngộp thở. Cũng dồn như mắm. Trải qua gần một đêm và một ngày, không ăn, không ngủ, thiếu thở, toán “nguỵ quyền ác ôn” lên bờ và được đám công an hùng hậu dẫn vô một khu rừng âm u lạnh ngắt.
Đám tù lừ đừ mệt lã, bước đi loạng choạng như bóng ma. Vẫn bán tín bán nghi, tôi dáo dác dò xem có cái hố chôn tập thể đào sẵn không. Tôi đã mất hồn từ lúc bị trói. Nhìn xa xa, thây có năm ba cái chòi lá nhỏ cũ kỷ nằm núp trong bóng cây. Một số người lui tới lăn xăn theo một cung cách rất kỳ lạ. Tôi cảm thấy như bị lạc vô một thế giới huyền ảo, nửa thật nửa mơ. Những con người có dáng dấp kỳ dị, tóc tai bù xù, quần áo tả tơi, xám mốc, ngắn dài đủ kiểu, dường như kết bằng nùi giẻ, loại vải áo cảnh-sát dã-chiến, trông giống y bầy chim cú mắc nước.
Người đội, người vác, người khiêng, lội trong nước sình rào rào lõm bõm. Dưới bóng cây giá thật to, vài người lom khom quạt lửa, đập sắt nghe chan chát điếc tai. Chắc họ đang rèn cuốc xẻng dao mác gì đó. (Sau này mới biết đó là ông Hai Mùi chuyên đập sắt làm còng chân và vá xuổng xúc đất).
Khung cảnh nằm ngay trước mắt mà sao nó chập chờn xa xôi như dưới mấy tầng địa ngục. Có phải mình đang ở đây thật không? Hay là hồn mình đang ở đây. Đây là trần gian hay âm phủ. Và cái anh vác cây kia, có tác giống mình quá, có phải chính là mình đó không? Tôi như đang mê sảng.
Thình lình, ông Hải, người bị trói chung dây thừng, lôi đi. À, mình còn sống!
Quay lại sau lưng, thấy đám công an còn ôm súng đứng đó. Nhéo thử da bụng, thấy đau, còn cảm giác thật.
Còn sống thật! Tất cả đám tù nhân mới tới được dồn vô trại ngay. Mừng quá.
Được vô trại liền là có tương lai. Chắc sẽ được sống. Cám ơn Bác và Đảng.
Tôi và chú Hải vô căn số 3. Đây là khu nhà giam cũ của thời chiến, do công an quản lý, còn tạm lưu lại, dân địa phương kêu là Trại Mười Rùa.
Những căn nhà đều nhỏ hẹp, lụp xụp, tối tăm, lợp bằng lá dừa nước xé nguyên tàu phủ xuôi từ nóc xuống gần tới đất. Bên trên vài cái vẫn còn lưu dấu nguỵ trang bằng mấy tàng cây bần cây đước cột rút cho châu đầu lại thành cái tàng lớn như cái dù khổng lồ, che mắt máy bay quan sát, cho nên trại càng tối om.
Một tù nhân già yếu, ốm nhom, nằm sẵn trên sạp, tên ông Mười, ở từ trước ngày 30 tháng tư, uể oải đưa tay lên, môi không hé, ra hiệu là không được nói chuyện. Bên cạnh còn có sỹ quan cảnh sát, tên D, ngồi ôm chân sưng vù nhăn nhó vì vết thương đạp chong, lủng thấu bàn chơn. Khung cảnh đầy tử khí.
Chòi chật, chỉ ngồi. Tất cả chìm trong im lặng ma quái. Nghe được tiếng thở của người và tiếng vo ve của bầy muỗi. Muỗi dầy như rải trấu. Mọi người được cởi trói. Hai tay được tự do để đập muỗi. Cũng may phước. Bằng không sẽ chết vì muỗi cắn.
Từ ngoài, một người có vẻ mạnh khoẻ vác cần xế cơm còn nóng hổi đi vô. Đói cả ngày, bây giờ được ăn cơm, mà lại cơm nóng. Anh nhà bếp, tên Ba Châu, cán phạm thâm niên, nói chuyện trong hơi thở. Có phải đây là kỷ luật trại từ trước 75, sống lén trong rừng, không được nói chuyện lớn tiếng.
Anh phát cho mỗi người cái tô con rồng xanh và 2 khúc mây dóc tươi, dài cỡ gang tay để làm đũa. Rồi bới cho mỗi người một tô cơm đầy vun, rất trắng. Sau đó, ảnh cầm tô muối hột lạnh tanh, đen thui, bóc cho mỗi người một nhúm. Đó là bữa cơm đầu tiên ở trại. Nhiều tù nhân sững sờ im lặng, liếc nhìn nhau.
Tôi nghĩ cơm nóng này ăn với muối ớt cũng là tiên rồi. Bèn mở bọc ny-long muối ớt ra, nhưng không dám phân phát cho nhiều người. Chỉ lén cho vài anh bạn tù ngồi cạnh. Và bữa đó, nhúm muối ớt kiểu Tây Ninh là kỷ niệm không bao giờ quên.
Mấy tháng kế đó vẫn cơm trắng phủ phê, những người già ăn không hết phải nhờ đám trẻ ăn dùm. Trong những ngày đầu, các kho gạo miền Nam chưa được giải phóng, dân và tù chưa biết đói là gì.
Hồi đó cơm thừa như vậy, gia đình tôi nuôi gà vịt heo bằng gạo, nấu cháo heo bằng chảo đụn.
Còn bây giờ? Mỗi bữa ăn chưa tới nửa tô bo bo. Đầu óc mọi người chỉ hướng về mục tiêu sơ khai thấp hèn của bầy người nguyên thuỷ, là cái ăn, là cơm gạo, vì nó lý tưởng cách mạng. Lấy hết ruộng dân, gạo cơm biến mất.
Đã hơn ba năm.
Đã cảm nhận và hiểu rõ thế nào là Học tập cải tạo, mà trước đây nghe nói tới thì nhiều người phát mê.
Sống dật dờ, vất vưởng. Lao động hụt hơi. Đói, bệnh, là hai bóng ma.
Lá cây rau cỏ chống đói. Xuyên tâm liên trừ bịnh. Có đêm thanh vắng, thằng Huê, bạn đồng cảnh, bịnh đau thận rên la thảm thiết, dẫy dụa đùng đùng, đánh thức gần mấy trăm người các trại lân cận, làm ai nấy sởn tóc gáy và thầm nghĩ tới thân phận mình.
Tôi nghe nỗi buồn thăm thẳm từ hố sâu tiềm thức chuyển mình như núi lửa sắp phun. Tôi muốn khóc rống lên cho trái tim nổ tan như lựu đạn. Hoặc tru lên thật lớn như chó tru tiên tổ giữa đêm. Hay kêu hú vang vọng như tên tội đồ dưới hang đen âm phủ hú vợ con và người thân trên dương thế. Hoặc sẽ rên la thảm thiết như con thú bị trọng thương đau đớn, như kiểu thằng Huê đang làm. Nhưng, càng khổ bao nhiêu, tôi càng yêu đời và ham sống bấy nhiêu. Tôi sợ chết đến quá độ chai lì. Không rên la. Cắn răng, nút lại và nuốt hết từng giọt máu chảy ra từ vết thương. Liếm lại từng giọt nước mắt và nuốt vô ừng ưc. Để bảo tồn sinh lực theo bản năng sinh tồn tự nhiên trời cho.
Giờ tôi đã cải tạo có tiến bộ, đã thành người tù tốt, vững tâm như thiền sư, nhờ thấm nhuần những bài học quí báu của cách mạng, theo từng bước, từng bước một. Bước đầu tiên là kêu án tử. Mới nhập trại, trước hết là học cách xưng hô. Cán bộ phải được kêu bằng Ban hay Đội. Nói chuyện với ban đội phải đứng xa trên 3 thước, tiến lại gần hơn là bị mũi súng chỉa vô người ngay, không được kêu cán bộ con nít bằng “chú em” quen miệng như hồi ở trên khám lớn nữa.
Cách Mạng tỉnh thiếu người nên dùng cả thiếu niên làm công an, có anh mang súng thòng muốn đụng đất. Tù ở chung thì kêu là đồng cảnh, không kể ông bà chú bác. Đồng cảnh chú, đồng cảnh ông nội, tất cả bằng nhau hết, như kiểu “các bạn nghe đài”, bình đẳng chưa từng thấy.
Tiếp theo là học cách tự còng chân mình. Ngay đêm đầu, mỗi người được phát cho một cặp còng. Cái còng đây là khoanh sắt hình chữ U, hai đầu có hai lỗ tròn bằng ngón tay cái. Nằm ngửa ra, để 2 cổ chưn vô chữ U, luồn cọng sắt dài bằng ngón trỏ qua lỗ của còng để khoá 2 chân lại, xâu nhiều người lại thành từng dây trên dưới 10 người một.
Dây sắt này phải xuyên qua mấy cây trụ kiên cố để giữ tù nằm yên một chỗ. Chiều đến, sau cơm nước, mỗi người phải tự vô còng. Xong nằm ngữa ra, yên lặng, để cho anh đội vô kiểm còng và khoá lại ở đầu dây. Sáng, đội lại vô mở ra. Chỉ có một thế nằm ngửa và thẳng tưng suốt đêm. Nửa đêm muốn đại tiên phải la lớn xin phép: -Thưa anh gác, tôi tên Thanh, số 129, xin phép đi tiểu. –Tôi nghe. Có thùng mủ ở gần anh không? – Dạ không, nhờ anh kêu anh sáu Trưởng trại chuyền thùng lại dùm. Ỉa vô tĩn nghe lụp phụp, đái trong thùng nhựa kêu ro ro.
Mỗi đêm cứ phải thức dậy 4 lần để tự đếm số thật lớn cho đội đứng bên ngoài nghe mà kiểm tù, cộng thêm vài đồng cảnh đái đêm kiểu này, thì giấc ngủ thật là gian nan.
Vì vướng dây còng nên lâu ngày chân bị chai cái nhượng sau mắt cá. Nếu ai học tập tốt thì sau một năm, được xả một còng, tự do một chân lúc ngủ. Dĩ nhiên lúc nào cũng có ngoại lệ dành cho chức sắc trại, người già hay bệnh tật. Tiếp tục cải tạo tốt thì tuỳ trường hợp, lần lượt từng người được giã từ cái kiềng cẳng chữ U bất hủ này.
Trễ lắm là ba năm, tất cả mọi chân cẳng sẽ được tự do, mặc sức co duỗi. Quả thật Không gì quí hơn tự do được ở ngoài còng.
Xong rồi đến bài học lý thuyết vỡ lòng: – Cách mạng đưa mấy anh vô đây là để cho mấy anh học tập cải tạo bản thân. Ráng chấp hành nội qui cho tốt, ráng lao động cải tạo cho tốt, thì sẽ được Đảng và nhà nước khoan hồng tha cho về sum hợp với gia đình vợ con. Mấy anh đã đi theo bọn Thiệu Kỳ, chạy theo ngoại bang, liếm gót giày đế quốc Mỹ, chống lại Cách Mạng và dân tộc. Mấy anh đi ngược lại truyền thống cha ông, phản bội tổ quốc, nhân dân. Gây muôn ngàn tội ác mà trời cũng không dung, đất cũng không tha. Tội của mấy anh là tội chết. Đáng lẽ mấy anh phải chết. Nhưng mà theo chính sách khoan hồng, trước sau như một, của Bác và đảng, Cách Mạng và nhà nước tha tội chết cho mấy anh, không giết mấy anh, mà còn hết sức khoan hồng để cho mấy anh sống. Mấy anh phải biết giác ngộ mà lo học tập cải tạo. Cách mạng giữ mấy anh ở đây là để bảo vệ cho mấy anh. Nếu để mấy anh ra ngoài thì nhân dân đang tức giận sẽ giết mấy anh. Sao, mấy anh có thấy nhất trí không…
Với bấy nhiêu đó thì tôi cũng đã cảm thấy như mình đã chết rồi. Tôi không còn là của tôi nữa. Tội của mấy anh là tội chết. Cái tiền đề đó nhằm trấn lột tất cả đức tính, suy tư và nhân cách của con người, đẩy họ xuống hố sâu địa ngục sợ hãi. Đó là lối đánh trùm đầu. Nó được lập đi lập lại như tụng kinh. Tôi phải tự ám vào tâm não mình mặc cảm tội lỗi vô bơ, vô lượng. Rồi phải viết đi viết lại liên tu bất tận bản tự khai, hàng chục, hàng trăm lần, mà trong đó phải tự vẽ cho mình đủ thứ tội lỗi, phải moi óc vu oan bạn bè, phải nói xấu người thân, phải chửi thầy, phải khen bác thì mới được xem là tiến bộ. Bằng không tờ tự khai sẽ bị Ban xé toạc trước mặt, kèm theo vẻ hầm hầm, đôi mắt lồi lườm lườm như muốn nuốt sống. Khi đã thuần rồi thì sẽ cảm thấy bản án tử đó là đương nhiên, do số trời đã định, riu ríu tuân theo mọi sai khiến.
Tôi mơ màng cảm thấy mình đang ngồi trên bàn chông, đội trên đầu cái diệm máu dơ, dưới thập điện của mười hai tầng âm phủ. Phải đội máu hoè như vậy mới tẩy xoá hết ký ức, hết suy tư và tình cảm, thôi nhớ kiếp trần gian, mới không còn mơ đầu thai trở lại kiếp người, yên tâm ở dưới đó đền tội. Bước thứ hai là tái sanh. Còn gì vui mừng hơn khi chết rồi mà được cho sống, thay vì xử tử ráo. Đó mới chính là cái ân huệ lớn lao vô biên. Cách Mạng khoan hồng để cho mấy anh sống. Việc cứu tử này do cách mạng ban cho, và chỉ có Bác và Đảng mới có lòng khoan dung cao cả đó. Phải biết ơn, nhớ ơn trời biển đó. Dường như tội chết là do bạo chúa nào ở đâu đó xa lắm đặt ra. Tôi ngờ ngợ thấy mình được nắn lại từ cục đất sét do một đấng Siêu Thượng Đế đang sanh lại loài người, viết lại lịch sử nhân loại. Nắn xong, đấng Chí Tôn này hà hơi cho chút sự sống và biết cử động chân tay mà thôi. Trụi lủi trần truồng. Chưa cần tim óc. Không cần của cải. Muốn thứ gì thì xếp hàng chờ thiên sứ ban cho, theo tem phiếu. Tâm linh, trí tuệ, nhân quyền, nhân phẩm thật là phù phiếm. Ai nhắc tới mấy thứ đó sẽ bị tội, tội nặng gấp ngàn lần lén ăn trái cấm
Bước thứ ba là ăn học. Sau khi tái sanh, con vật người hoang sơ cần học tập để thành người mới XHCN. Bác Hồ vĩ đại là thiên tài thế giới. Đảng là đỉnh cao trí tuệ loài người. Mỹ đang bị suy thoái kinh tế, thiếu xăng, dân phải cởi xe đạp đi làm. Ông Liên Sô đã đưa người lên cung trăng?!, Ông Trung quốc.. Thằng Mỹ.. Thằng Th. thằng K. Sài gòn phồn vinh giả tạo.
Có những lúc muốn phá lên cười mà không cười được. Phải cố gắng nhai theo và nuốt cho vô. Nào là: Đất nước ta giàu đẹp. Dân tộc ta anh hùng. Đã từng đánh tan thực dân Pháp. Bây giờ đánh bại thằng Mỹ, là đế quốc sừng-sỏ nhứt thế giới. Các anh và đế quốc Mỹ đã dội hàng vạn tấn bôm lên đầu những người dân vô tội, đầu đội bôm, chân đá đạn. Mấy anh đã từng lắp đạn vào nòng pháo, giết hại biết bao trẻ sơ-sinh ngồi trên lưng trâu?
Đó là học tập, là thức ăn tinh thần được dồn vô đầu, hàng ngày, mỗi chiều, sau khi vô còng xong, ngồi dậy kiểm thảo hàng giờ, trước khi ngả lưng ra ngủ. Nghe riết mấy điều đó, tôi lại tưởng mình được ăn thêm cháo lú hay cám sú, cái món chỉ làm cho người ăn nó sẽ thành heo. Những người nhơi nó cũng thành heo.
Không thể kể hết những thành quả của học tập cải tạo mà tôi đã thụ đắt trong hơn 3 năm qua.
Trong lòng hố sâu, dòi bọ loi nhoi lúc nhúc như vui sống. Từ đáy vực thẳm, tôi cũng bò từ từ lên miệng hố, từ từ tìm lấy từng lẽ sống, từng niềm vui, nhỏ nhoi trần trụi, trong từng li từng tấc leo lên. Đang bị nhốt chật, được ra chỗ rộng là vui.
Đang bị còng chân, được xả còng là hạnh phúc. Ăn bo bo nhai khổ, chuyển qua ăn cơm là sướng tê.
Đang đói gần chết, được cho ăn cầm hơi là ân huệ.
Bị nhốt tù túng, cho đi ra ngoài lao động là ban ơn. Vân vân.
Không cần biết nguyên do của khốn khổ, nhục nhằn. Không cần nhớ ai đã gây ra nó.
Tôi, nhờ đã đội máu hoè và ăn cám sú mà quên hết. Rất mau quên, dễ bội phản.
Lú lẫn, đần độn, hèn mạt. Cho nên, khi được hưởng chút cởi mở, có thêm chút cơm gạo, hưởng mót chút của cải hay quyền lợi cá nhân.v.v.. thì tôi hí hửng, hoan hô, và muốn thốt lên ngàn câu cám ơn Bác và đảng.
Cái hạnh phúc của tôi thường trần truồng và bần tiện như vậy.
Còn nhớ, một buổi trưa ngưng lao động để húp chút cháo với muối, tôi thấy 3 người bạn tù trẻ đang ăn cháo với đường.
Họ có đâu đó được một miếng đường thẻ bằng lóng tay. Một thằng cầm chặt cục đường đưa tới miệng hai đứa kia đang nhe răng ra chờ, để được liếm hay cạp rất nhẹ thôi, đứa nào mà dùng 2 cây răng cửa cạp mạnh là bị la liền.
Cạp xong, chép chép miệng, vừa cười tủm tỉm vừa húp cháo, cả ba ra vẻ sung sướng lắm. Nhứt là thằng Ngà cười đưa răng sún hách dịch, trông thật khó ưa. Rồi lại liếm, rồi lại tủm tỉm cười.
Tụi nó vô tâm đến nỗi làm như không hay biết có tôi đang nhìn chăm chăm, thèm đến quặn ruột và trào nước dãi.
Thấy ghét tới muốn sanh thù. Nhưng, bù lại, hôm nay tới phiên mình. Tôi sắp hưởng cái sướng ít ai có, mà lại không có ai thấy để sanh lòng ganh ghét. Tôi sẽ ăn cơm một mình! Ăn giữa thanh thiên bạch nhựt chớ không phải ăn lén nửa đêm trong mùng.
Sự ganh tỵ ở nơi này đã đạt tới mức hạ tiện và tinh vi nhứt trần gian, nó hơn xa cái anh hàng xóm đi báo cáo với chánh quyền nhà bên cạnh dám làm thịt con gà để ăn. Lén ăn múi sầu riêng giữa khuya như ông T.B.Trang cũng đã bị đồng cảnh đánh mùi được, ghét thù thậm tệ.
Tôi đang tạm thời ở ngoài vòng cương toả đó. Nấu cơm xong, dọn lên sạp, tôi leo lên ngồi trịnh trọng như tự cúng giỗ cho chính mình. Hú ba hồn chín vía về đây, về đây.
Thượng hưởng. Hai tay hơi run, tôi dùng muỗng múc miếng cơm đầu tiên đưa vô miệng. Lưỡi vừa đụng cơm, nước miếng đã tươm ra thành ngụm. Ngậm lại, để y nguyên đó. Một cảm giác kỳ diệu chạy từ miệng lên tới óc và xuống khắp tay chưn. Thường ngày nhai bo bo, thấy nó cứng khô lạt lẽo. Nay đụng tới cơm, nghe nó dịu ngọt làm sao.
Hột cơm. Hạt ngọc của trời. Mềm như nhung, mịn như mè, mướt trơn như thoa mỡ. Hột bo bo có nhai kỹ cách mấy cũng còn to xồ, lợn cợn, khó nuốt.
Còn cơm! Không cần nhai mà nó đã nhuyển nhừ. Cái lưỡi không nằm yên, mà cứ uốn éo, cuống quít, quằn quại, như đang làm cuộc giao hoan với cơm, như hai nhân tình lâu lắm mới gặp lại nhau. Đầm đìa, trơn ướt, ngọt ngào.
Nôn nao cả mình mẩy ruột gan. Cứ bắt muốn nuốt liền. Muốn theo tiếng gọi thiêng liêng của dạ dày đang tiết tâm linh chờ đón. Nhưng tôi cố kềm giữ lại, nuốt từ từ, rất chậm rãi, để kéo dài cái giây phút thần thánh này. Thức ăn trở nên thừa. Tôi nuốt trọng hết tô.
Trong chốc lát tôi cảm thấy sức lực mình sung lên bừng bừng như say rượu. Hạt cơm trắng mình ên nó đủ đem lại cho tôi sức mạnh lạ thường. Tôi chợt chứng ngộ được một điều: cơm là cái gì thiêng liêng nhất, thiêng liêng hơn cả trời đất, thánh thần.
Và nó cũng là nguồn hạnh phúc cao cả nhất của một sinh vật thắp hèn nhất. Như tôi.
Nhưng, rồi ngày mai sẽ ra sao? Cách mạng tha chết và cho học tập vô hạn định, nhưng cũng hứa cứ 3 năm một lần, ai cải tạo tốt sẽ được khoan hồng xét cho về.
Ba năm gọi là cái móc. Nhưng cái móc 3 năm đầu đã huớt. Không thấy về. Chỉ thấy số người tăng thêm.
Vậy là tôi không phải đi bộ thụt cà lui, bước ngược về nhà như đã hứa với ông Nhơn và các bạn.
Ông Hội đồng tỉnh này và một số đã được đưa ra học gần lăng Bác.
Vài viên chức và sỹ quan được đặc cách thăng cấp ngoài trường bắn. Có người về chầu trời vì bịnh. Những người thương gia giàu, được gọi là tư sản, sau khi mất nhà mất của, cũng vô đây. Cha, Thầy, Mục sư, vượt biên, hình sự… cũng có mặt. Các trại xã, huyện cũng tập trung lại đây. Nhà tường bắt đầu được xây. Một số đã cảm thấy bẽ bàng thất vọng, trốn trại, bị rượt bắn chết, lôi xác về triển lãm giữa sân.
Bắt sống thì bị đánh đá cho tới hộc máu chết ngất trước mắt đồng cảnh để làm gương. Bộ tứ quái Phước-Đức-Hiền-Lành cùng trốn một lượt, được bắt sống đem về làm vật tế kiểu đó.
Tôi dửng dưng, đứng bên cạnh Hùng, cán-sự y tế, cùng nhìn đồng cảnh bị đánh đập giữa sân trưa nắng. Trong khi Hùng, người đã quen màu máu, thấy cảnh ấy thì mặt tái mét, muốn xỉu, còn tôi vẫn tỉnh bơ, nhìn chăm chăm, vì tê điếng hay vì tôi đã thành thú vật hồi nào, không rõ.
Nhưng, đôi lúc tôi cũng yếu đuối, bần tiện, và hèn mạt hơn ai hết. Thấy ban, đội, hay thấy ai mặc đồng phục công an màu vàng da bò tiến lại gần là tôi như bị thôi miên, hồn vía phát tán, tay chân quíu lại. Riu ríu chờ lệnh như máy chờ bấm nút.
Chưa thể thành người khôn để có mưu toan trốn trại, rồi chết sớm như vậy.
Càng khó thành người liêm sỉ để biết cảm thấy xấu hổ với bạn bè. Hoạ chăng, tôi có cái tự hào của con vật khôn vặt đủ để biết luồn lách và thấy mình hạnh phúc khi được thoả mãn những nhu cầu hạ tiện, những tự ái thắp hèn. Hôm nay tôi đã ăn bữa cơm, như ăn lén, thật là ngon.
Tôi bỗng gặp lại một chút con người thật của tôi. Đồng thời, cũng nhớ rằng sự dằn vặt lương tâm của một con người sẽ dần dần tự giết mình. Cái tính người dễ xui khiến mình làm những việc nguy hại đến tánh mạng.
Nhưng vẫn cảm thấy buồn buồn, và đâm lo lắng mông lung. Mới được ở không một ngày, thoải mái một ngày mà muốn bịnh, muốn điên. Nhàn cư vi bất… lợi quá.
Bỗng lại nhớ tới vợ con. Ngoài kia, ai cũng đang bị vây bủa và nhốt chặt trong muôn ngàn nhà tù của buồn tủi, âu lo, cực nhọc, phiếu vải, phiếu gạo, bệnh hoạn, thuốc men… vân… vân… Còn thêm dân công, thuỷ lợi, họp hành dân phố liên tu.
Hoá ra, mình bị nhốt cái xác, và nhốt luôn cái đầu, trong trại tù chật hẹp này mà lại sướng.
Sướng hơn ngàn lần những người đang tự do bên ngoài.
Và, được ở tù lại là may mắn, học tập cải tạo là nguồn hạnh phúc lớn lắm thay?!
Chỉ tội cho kiếp con người ngoài kia. Tôi bèn quyết định ngày mai xin đi ra rừng lao động tiếp./.
L’histoire est vraie, mais la vérité est partielle: Nous pouvons savoir des choses sur le passé humain, nous ne pouvons savoir le tout de ce passé”
H. Marrou, sử gia.
---
0 comments:
Post a Comment