Dòng Máu Việt Nam Cộng Hòa

Wednesday 25 March 2015

40 năm nhìn lại:VIỆT QUỐC CHỐNG CỘNG VÌ TỰ DO DÂN CHỦ CHO ĐẤT NƯỚC :THÀNH QUẢ VÀ TRIỂN VỌNG ? (I)

       Trong khuôn khổ một bài nhận định tổng quát, chúng tôi chỉ xin đưa ra nhận định đại cươngvề 40 năm Việt quốc chống cộng vì tự do dân chủ cho đất nước, với thành quả ra sao, triển vọng tương lai thế nào. Chúng tôi sẽ trình bầy chi tiết hơn trong tập tài liệu nghiên cứu lý luận “Cuộc Nội Chiến Ý Thức Hệ Quốc- Cộng tại Việt Nam”, trong đó chúng tôi đã chia cuộc nội chiến này thành ba giai đoạn:
1.- Tiền Chiến Tranh Quốc - Cộng (1930-1954)
2.- Cuộc Chiến Tranh Quốc - Cộng (1954-1975)
3.- Hậu Chiến Tranh Quốc - Cộng   (1975- kết thúc)

     Như vậy là chúng ta, những người Việt quốc gia hay là người Việt Nam không cộng sản đang ở vào giai đoạn thứ ba và cũng là giai đoạn cuối cùng của cuộc “Nội Chiến Ý Thức Hệ Quốc-Cộng Tại Việt Nam”. Giai đoạn này khởi sự từ sau ngày 30-4-1975, khi cuộc Chiến Tranh Quốc – Cộng kết thúc với sự thua cuộc của phe Việt Quốc (bao gồm các chính quyền, các chính đảng quốc gia và quần chúng nhân dân có ý thức và hành động chống cộng)  và sự thắng cuộc của phe Việt Cộng (bao gồm đảng Cộng Sản Việt Nam, các chính quyền và quần chúng nhân dân có ý thức và hành động ủng hộ cộng sản).
         Tuy nhiên Việt Quốc vẫn không chấp nhận sự thua cuộc này và  vẫn không thừa nhận sự thắng cuộc của đối phương Việt Cộng.
         Không chấp nhận sự thua cuộc vì:
-        Trái với  luận lý thông thường, phe chính nghĩa Việt quốc (Chính nghĩa Quốc gia: Việt Nam Cộng Hòa chính thống, chính đáng, chính danh, dân chủ, …) đúng ra phải tất thắng phe ngụy nghĩa Việt cộng (Ngụy nghĩa Cộng sản, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngụy danh, không chính thống, không chính đáng ,phản dân tộc, độc tài đảng trị, phản dân chủ…).
-        Thực tế so sánh tương quan lưc lượng quân sự, kinh tế Việt Quốc ở Miền Nam mạnh hơn nhiều so với Việt Cộng ở Miền Bắc,lại là phe chính nghĩa, nên không thể thua cuộc và  phải là phe thắng cuộc mới đúng.
         Không thừa nhận sự  thắng cuộc của đối phương:
-        Vì Việt quốc chỉ coi chiến thắng của đối phương Việt cộng là “Chiến thắng giả tạo”(Chiến thắng biểu kiến)  do các thế lực khuynh đảo quốc tế sắp đặt và sự thua cuộc của mình chỉ là vì bị đồng minh phản bội, cấu kết với đối phương, gài thế cờ bí cưỡng tử chính quyền chính thống quốc gia Việt Nam Cộng Hòa.
-        Vì các nhà lãnh đạo chính trị cũng như quân sự của chính quyền Việt quốc đã hạn chế về năng lực lãnh đạo, chỉ huy, quá lệ thuộc sách lược chống cộng của Hoa Kỳ(đúng ra là không tạo ra được sách lược chống cộng riêng), nên mất chủ quyền, không chủ động và sự yếu kém trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược chống cộng toàn diện để thắng Việt cộng.Và vì tính nhân đạo hữu thần, Việt quốc không thể và không dám thực hiện những chủ trương, chính sách, biện pháp tiêu diệt đối phương triệt để, tàn bạo, vô nhân đạo như Việt cộng đã làm.
         Và vì vậy, Việt quốc vẫn không bỏ cuộc,tiếp tục chống cộng giai đoạn ba, mặc dầu trong điều kiện đấu tranh không cân sức so với đối phương Việt cộng, không thuận lợi và gặp nhiều khó khăn chủ quan cũng như khách quan, song vẫn chống cộng vì tin tưởng vào sự tất thắng của chính nghĩa quốc gia, theo luận lý thông thường “chân lý tất thắng phi lý”, “Chính nghĩa tất thắng ngụy nghĩa”.
         Như vậy, sự lựa chọn của Việt quốc tiếp tục chống cộng sau chiến tranh, với niềm tin tất thắng của chính nghĩa quốc có chủ quan,duy ý chí, phiêu lưu, thiếu thực tế không?
         Việt quốc có thể trả lời ngắn gọn một cách khẳng định, rằng sự lựa chọn tiếp tục chống cộng, với niềm tin tất thắng của chính nghĩa quốc gia là không chủ quan, không duy ý chí,  không phiêu lưu, là có căn cứ thực tiễn, phù hợp với chiều hướng của thế chiến lược quốc tế mới, đáp ứng đúng ý nguyện của toàn thể Quốc dân Việt Nam trong cũng như ngoài nước, nên đã và đang được thực tế ngày một khẳng định chân lý thuộc về ai, quốc dân và quốc tế ủng hộ ai, chống ai, để cuối cùng “Chính Quốc” tất phải thắng “Tà Cộng”. Đây không phải chỉ là lý luận của niềm tin mà còn là một thực tế chắc chắn sớm muộn phải được thể hiện. Vấn để chỉ còn là: Việt quốc sẽ phải thắng Việt cộng như thế nào và bằng cách nào? Và sau đó Việt quốc phải làm gì tốt hơn Việt cộng.
         Nội dung bài viết này lần lượt trình bầy:
I/- Lý do chống cộng, động lực chống cộng và  mục tiêu tối hậu phải thành đạt là gì?
II/-Việt quốc đã chống cộng thế nào trong 40 năm qua và hiệu quả ra sao?
III/- Thành quả và Triển vọng tương lai.
* KẾT LUẬN.
I/- LÝ DO CHỐNG CỘNG, ĐỘNG LỰC CHỐNG CỘNG, VÀ MỤC TIÊU TỐI HẬU PHẢI THÀNH ĐẠT LÀ GÌ?
    1.- Lý do Việt quốc chống cộng?      
         Trước khi trả lời câu hỏi “Vì sao Việt quốc chống cộng”, cần xác định “Việt quốc” là ai, để để phân định rõ lằn ranh trong trận tuyến chống cộng vì tự do, dân chủ cho Đất nước.
        Việt quốc bao gồm các chính quyền, các chính đảng quốc gia và quần chúng nhân dân có ý thức và hành động chống cộng. Nói cách khác Việt Quốc là những người Việt Nam không cộng sản, theo “ý thức hệ quốc gia”, tôn thờ Tổ Quốc Việt Nam, coi quyền lợi dân tộc Việt Nam là tối thượng, kế thừa sự nghiệp dựng nước và giữ nước của lịch sử Việt Nam, khởi đi từ Thời Hồng Bàng với các Vua Hùng dựng nước Văn Lang (tên cổ xưa của Việt Nam), qua các triều đại độc lập tự chủ do các vua chúa Việt Nam cai trị đất nước(Đinh, Lê, Lý, Trần. . .) hay những thời kỳ dài ngắn bị ngọai bang xâm chiếm đô hộ ( 1000 năm Bắc thuộc, gần 100 năm Pháp thuộc), với các anh hùng hào kiệt đã lãnh đạo nhân dân chống ngọai xâm, giành và giữ độc lập, tự chủ cho dân tộc, viết nên những trang sử oai hùng và vẻ vang cho dân tộc Việt (Như Ngô Quyền, Hai Bà Trưng,Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt , Quang Trung, Phan đình Phùng, Cao Thắng, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Cao Thắng, Nguyễn Thái Học. . . .)
         Việt cộng bao gồm đảng Cộng Sản Việt Nam CSVN), các chính quyền và quần chúng nhân dân có ý thức và hành động ủng hộ cộng sản Nói cách khác, Việt cộng là những người Việt Nam, theo Ý thức hệ cộng sản, tôn thờ “Tổ quốc Xã Hội Chủ Nghĩa” (Liên Xô), coi lợi ích quốc tế cộng sản (vô sản) là tối thượng, kế thừa thành quả đấu tranh giai cấp và tiếp tục thực hiện “Chiến tranh cách mạng vô sản” để mở mang bờ cõi cho các tân đế quốc đỏ Nga-Tầu, cộng sản hóa Việt Nam cũng như toàn cầu, tách khỏi và chống lại dòng chính lịch sử dân tộc, xóa bỏ ranh giới quốc gia để hội nhập vào một “Thế giới đại đồng” (cộng sản chủ nghĩa)….
        Sau  khi xác định “Việt quốc” “Việt cộng” như thế, chúng ta có thể minh bạch trả lời cho câu hỏi: Vì sao Việt quốc chống cộng?   
        Việt quốc chống cộng, vì:
   1.-  Trên bình diện lý luận, chủ nghĩa cộng sản dù có là một lý tưởng cao đẹp có tính mê hoặc lòng người, nhất là những người trẻ tuổi vốn say mê lý tưởng vào đời, nhưng không tưởng theo nghĩa một lý tưởng không thể thực hiện được. Vì vậy, những cá nhân (đảng viên cộng sản) hay tập đoàn (đảng cộng sản) ở bất cứ quốc gia nào, khi vận dụng chủ nghĩa cộng sản vào thực tiễn đã chỉ là tai họa thảm khốc, phá hủy mọi nền tảng đạo đức, văn hóa dân tộc, mất độc lập tự chủ, đưa nhân dân dân vào cảnh mất tự do, đói khổ, lầm than, di hại nghiêm trọng, toàn diện và lâu dài cho nhiều thế hệ nhân dân,phân hóa dân tộc của quốc gia ấy.
         Rốt cuộc, cái gọi là “cuộc cách mạng vô sản” để xây dựng “một xã hội không người bóc lột người” (Từ xã hội: xã hội chủ nghĩa,còn giai cấp, đến xã hội cộng sản chủ nghĩa, không còn giai cấp, không còn nhà nước…) chỉ là chiêu bài lừa mị của một tập đoàn thống trị độc quyền, độc tôn, độc tài (đảng cộng sản) để xây dựng một xã hội người (với thiểu số cán bộ đảng viên CS) độc quyền áp bức bóc lột người (tuyệt đại đa số nhân dân)” chưa từng có trong lịch sử hình thành  các xã hội loài người có giai cấp (xã hội cộng sản nguyên thủy, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản…theo duy vật sử quan Marxism)
   2.-Trên bình diện thực tiễn, những người cộng sản Việt Nam (Việt cộng) nói riêng, cộng sản quốc tế nói chung,  đã tin theo và vận dụng chủ nghĩa cộng sản vào thực tế nước ta, (cũng như  một số nước khác trên thế giới),đã gây tác hại nghiêm trọng, tòan diện, lâu dài trên con người, dân tộc và đất nước Việt Nam trong nhiều thập niên qua và di hại lâu dài cho Dân tộc và Đất nước Việt Nam qua nhiều thế hệ sau này.
         Vì tin và hành động theo “ý thức hệ cộng sản”  Việt cộng đã đánh mất bản sắc dân tộc, tách rời khỏi lịch sử chính thống quốc gia Việt Nam và dùng “Tính giai cấp” và  lăng kính “đấu tranh giai cấp” để phê phán chủ quan, không trung thực về các triều đại và  các anh hùng hào kiệt của lịch sử Việt Nam, xuyên tạc lịch sử và chối bỏ Tổ Quốc Việt Nam, để chọn và tôn thờ cái gọi là “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” là tổ quốc của mình. Và vì vậy cộng sản Việt Nam sẵn sàng hy sinh quyền lợi của Tổ Quốc và dân tộc việt nam cho quyền lợi của đảng Cộng sản Việt Nam và quốc tế cộng sản.
        Vì chủ trương hận thù và đấu tranh giai cấp Việt cộng đã phá đổ mọi quan hệ xã hội giữa người với người, đã không ngần ngại thủ tiêu, bắn giết và làm mọi điều tàn ác với với những người anh em cùng mầu da sắc máu, chung nguồn gốc Việt tộc với họ,theo phương châm “cứu cánh biện minh cho hành động”.(như đã làm trong giai đoạn Chiến Tranh Quốc Cộng 1954-1975 điển hình là đã tàn sát, chôn sống hàng ngàn quân dân, cán chính Việt Nam Cộng Hòa trong biến cố Tết Mậu Thân 1968 ở Huế và các nơi khác trong suốt cuộc chiến tranh Quốc- Cộng)
        Vì chủ trương vô thần, chết là hết, nên Việt cộng không sợ hậu quả, đã thẳng tay đàn áp những người dân hữu thần, dùng mọi thủ đoạn, phương cách dù bất nhân, tàn bạo nhằm tiêu diệt mọi tín ngưỡng, mọi tôn giáo, vốn là nhu cầu quan yếu trong đời sống tâm linh của con người, và là một thực thể xã hội góp phần vào nền đạo đức xã hội nhân bản qua mọi thời đại.
        Thực tế là, sau khi nắm được quyền thống trị toàn đất nước 40 năm qua và trước đó trên một nửa nước Miền Bắc, đảng Cộng sản Việt Nam đã áp đặt một chế độ độc tài toàn trị, với một đảng duy nhất nắm quyền thống trị (đảng CSVN) với một nhà nước “Chuyên chính vô sản” (tức độc tài cộng sản) bác đọat quyền tự do, dân chủ và các nhân quyền cơ bản của nhân dân, thông qua “ một chính quyền của đảng, do đảng và vì đảng cộng sản Việt Nam”, một công cụ trấn áp nhân dân, duy trì và bảo vệ quyền cai trị độc tài, độc tôn, độc quyền với những ưu quyền đặc lợi của một giai cấp thống trị mới, giai cấp cán bộ đảng viên cộng sản,chia nhau nắm quyền chia lợi ở các cấp, các ngành trong bộ máy đảng và bộ máy nhà nước. Nghĩa là một giai cấp thiểu số (khoảng 3 triệu đảng viên CS) thống trị trên tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam (trên 90 triệu dân)từ thượng tầng quốc gia đến hạ tầng cơ sở.
        Đó là những lý do khái quát, căn bản trên bình diện lý luận và thực tiễn, khiếnViệt quốc, những người Việt Nam theo ý thức hệ quốc gia, hay là những người Việt Nam không cộng sản từ quá khứ đến hiện tại, từ trong nước ra hải ngoại, đã và vẫn đang tiếp tục con đường chống cộng trường kỳ cho đến ngày toàn thắng.
2.- Việt quốc chống cộng tự bao giờ và nhằm thành đạt mục đích gì?
         Có thể nói,  kể từ khi “ý thức hệ cộng sản” du nhập vào Việt Nam trong những thập niên đầu Thế Kỷ 20, nhưng rõ rệt là kể từ khi đảng Cộng sản Việt Nam xuất hiện chính thức trên chính trường Việt Nam,sau khi ông Hồ Chí Minh được huấn luyện và đào tạo từ lò cộng sản Moscow, nhận chỉ thị của Đệ tam Quốc tế Cộng sản Nga  trở về Honkong họp Đại Hội thống nhất ba đảng Marxist thành lập trước đó (Đông Dương Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn và An Nam Cộng sản đảng) thành đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) vào ngày 3 tháng 2 năm 1930. Và  có thể coi công cuộc chống cộng từ ý thức đến hành động, cũng  khởi đi từ đó, nhằm thành đạt các mục đích chống cộng của từng giai đọan, tiến tới thành đạt mục tiêu chống cộng tối hậu là đánh bại chủ nghĩa cộng sản trên cả hai bình diện lý luận và thực tiễn, để xây dựng một chế độ tự do dân chủ đích thực theo đúng ý nguyện và vì lợi ích của toàn thể quốc dân Việt Nam. 
         Như vậy, cộng cuộc chống cộng  có thể chia làm ba giai đọan, trong phạm vi một bài nhận định tổng quát chúng tôi  chỉ có thể trình bầy vắn tắt như sau:
   1.- Giai đọan 1:(1930 – 1954)
         Đây là giai đọan chống cộng đầu tiên, diễn ra trong thời kỳ kháng chiến chống ách thống trị của thực dân  Pháp giành độc lập, thế hệ cha, ông chúng ta đã chống cộng nhằm ngăn chặn một hiểm họa hậu Pháp thuộc: Hiểm họa cộng sản.
         Bởi vì trong giai đọan này, lực lượng được coi là lãnh đạo chống cộng, bao gồm các chính đảng quốc gia (Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Độc Lập, Việt Nam Cách Mạng Đảng tức Phục Việt, Đại Việt Quốc Xã, Đại Việt Quốc Dân Đảng, Việt Nam Ái Quốc đảng, Nhân xã đảng. . .) và một số nhà trí thức, thân hào nhân sĩ yêu nước tiên tiến tiêu biểu như Hùynh Thúc Kháng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. . .Họ đã thấy  được ý đồ của  ông Hồ và Cộng đảng của ông ta chỉ là  lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân, thông qua cuộc kháng chiến chống Pháp như một phương tiện, không phải để giành độc lập cho dân tộc Việt Nam, mà làm nhiệm vụ của cộng sản quốc tế, giành thuộc địa kiểu mới cho các tân đế quốc đỏ Nga – Tầu, nhuộm đỏ đất nước và  nô dịch hóa nhân dân  Việt Nam.
         Vì thế, mục tiêu chống cộng  giai đoan này là  làm sao cho quần chúng Việt Nam thấy được hiểm họa cộng sản, không tin, không theo, không để cho  ông Hồ và Cộng đảng Việt Nam lợi dụng của cải, xương máu và lòng yêu nước chống ngọai xâm của mọi tầng lớp nhân, để dùng  kháng chiến như phương tiện, không phải để giành độc lập cho dân tộc, mà giành “Thuộc địa kiểu mới” cho “Tân Đế Quốc Đỏ Nga –Tầu” thực hiện “Chủ nghĩa thực dân kiểu mới” của cộng sản quốc tế.
          Cuộc phân tranh Quốc Cộng lúc này  diễn ra âm thầm nhưng không kém phần quyết liệt, giữa một bên là các chính đảng Quốc gia và các thân hào nhân sĩ yêu nước, bên kia là đảng Cộng sản Việt Nam. Đôi bên Quốc- Cộng phân tranh nhằm tiêu diệt nhau và thu phục, lôi kéo nhân dân theo và nhận chịu sự lãnh đạo của mình. Cuộc phân tranh Quốc – Cộng giai đọan này, lúc đầu chủ yếu diễn ra trên mặt trận tư tưởng, tuyên truyền chính trị, nhằm lôi kéo quần chúng  Việt Nam tin theo và tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp dưới sự lãnh đạo của mình.
         Tuy nhiên, vào thời khỏang cuối cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954), sau khi Nhật bại trận trong Thế Chiến Thứ II, phải trao trả độc lập cho Việt Nam. Lúc đó, Cộng Đảng Việt Nam đứng đầu là Hồ Chí Minh, dù  thế yếu so với các chính đảng quốc gia, song nhờ thủ đọan khôn khéo và tính tổ chức, tinh thần kỷ luật và tính cách mạng cao của một đảng Marxist-Leninnist, nên đã cướp thời cơ, giành được chính quyền nhiều nơi trên cả nước. Nhưng vì thực lực và tình hình thực tế quốc nội cũng như quốc tế lúc đó, chưa cho phép Cộng Đảng lộ rõ nguyên hình và độc chiếm chính quyền, nên Ông Hồ đã phải thành lập một chính phủ liên hiệp Quốc-Cộng, sọan thảo và ban hành một bản Hiến Pháp năm 1946 thiết lập chế độ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” (giả hiệu) mang tính “Dân chủ tư sản”, chứ chưa giám thiết lập “Chế độ chuyên chính vô sản” tức “độc tài tòan trị cộng sản , ngay cả  đảng Cộng sản lúc đó cũng phải tuyên bố tự giải tán. Mãi sau này, khi nắm được quyền thống trị nửa nước Miền Bắc, cũng vẫn phải gọi tên đảng CSVN trá hình là “Đảng Lao Động Việt Nam” chứ chưa dám xưng danh “Đảng Cộng sản Việt Nam”. Đồng thời cũng vẫn phải giữ bảng hiệu chế độ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”  cho đến khi đã thôn tính được Miền Nam vào 30-4-1975, thống trị cả nước, sau đó mới dám trương bảng hiệu chế độ “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.(giả danh giả nghĩa).
        Sở dĩ Việt cộng phải trá hình như thế, là vì thời khỏang những năm đầu sau Thế Chiến II, cộng sản đang bị thế giới coi là một hiểm họa toàn cầu và tại Việt Nam  quần chúng chưa biết gì nhiều về cộng sản, những người biết thì rất sợ chủ nghĩa tam vô (vô tổ quốc, vô gia đình,vô tôn giáo), nên ông Hồ và Cộng đảng Việt Nam đã phải che đậy bằng mọi cách và khai thác triệt để lòng yêu nước chống ngọai xâm của tòan dân và lòng căm thù giai cấp trong một số bộ phận nhân dân (Công nhân với chủ tư bản, Nông dân căm thù địa chủ, cường hào ác bá ở nông thôn. . .).
       Trên thực tế,đôi lúc đã có những cuộc xung đột võ trang giữa các đảng phái Quốc Gia và Cộng đảng Việt Nam, gây tổn thất nhân mạng cho cả đôi bên. Riêng Cộng đảng Việt Nam, ngòai các họat động tuyên truyền, thủ đọan lừa mị tinh vi để lôi kéo quần chúng, họ còn xử dụng các hình thức khủng bố, thủ tiêu những ai không theo hay chống lại họ. Một số nhà ái quốc Việt Nam đã bị CSVN thủ tiêu trong giai đọan này như lãnh tụ Đại Việt Quốc Dân Đảng Trương Tử Anh, hay các nhân sĩ ái quốc như Khái Hưng, Hòang Đạo, Ngô Đình Khôi và nhiều nhà ái quốc khác theo ý thức hệ quốc gia…
         Kết quả của cuộc phân tranh Quốc - Cộng giai đọan này: Quốc thua, Cộng thắng. Là  vì  mục tiêu chống cộng giai đọan này đã không đạt được: không những  phe Quốc gia đã không ngăn chặn được hiểm họa CS trong ý thức quần chúng, và thực tế đã  không  lọai được vai trò lãnh đạo kháng chiến của CS, để cho cộng sản lôi kéo được quần chúng theo họ, thu hút được nhiều thành phần dân chúng vào một tổ chức kháng chiến do họ dựng lên (Mặt trận Việt Minh) và  nắm quyền chủ đạo kháng chiến trong thời kỳ chót của cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954). Vì sao Quốc thua Cộng? (Chúng tôi sẽ trình bầy chi tiết trong tài liệu nghiên cứu lý luận “Cuộc Nội Chiến Ý Thức Hệ Quốc- Cộng Tại Việt Nam)
         2.- Giai đọan 2:(1954 – 1975)
              Vì giai đọan 1, phe Quốc gia đã thất bại trong mục tiêu chống cộng để ngăn chặn hiểm họa Cộng sản  từ xa, khi Cộng đảng VN chưa giành được lãnh thổ để thiết lập một chính quyền “Chuyên Chính Vô Sản” (Tức độc tài tòan trị cộng sản), thực hiện chủ nghĩa Cộng sản.
         Vì thế cho nên cuộc trường chinh chống cộng phải tiếp tục chặng đường chống cộng giai đoạn hai (1954 – 1975) trong khung cảnh một thế chiến lược quốc tế mới hình thành sau Thế Chiến II (Chiến tranh ý thức hệ Cộng sản chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa)và trong thực trạng một đất nước chia hai, theo sự áp đặt của các cường quốc cực, thông qua Hiệp Định Genève 1954: Miền Bắc Cộng Sản, Miền Nam Quốc Gia. (Chiến tranh ý thức hệ: Cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa mang tính toàn cầu hình thành sau Thế Chiến II, diễn ra dưới hai hình thái Chiến Tranh Lạnh giữa các mước giầu, và chiến tranh nóng nơi một số nước nghèo có số phận không may như Việt Nam, với Việt quốc ở Miền Nam được tư bản chọn là “Tiền đồn Thế Giới tự dovà Việt cộng ở Miền Bắc được cộng sản quốc tế chọn là tên lính xung kích thức hiện “Chiến tranh cách mạng”để nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam và các quốc gia trong vùng . Đất nước Việt Nam trở thành bãi chiến trường, nhân dân hai miền như bia đở đạn cho các thế lực khuynh đảo quốc tế tiêu thụ hết lượng vũ khí đạn dược tồn đọng sau thế chiến II và thử nghiệm thêm các loại vũ khí mới… ),
         Tại Miền Bắc, ông Hồ và Cộng đảng Việt Nam, sau khi chiếm được một nửa đất nước, đã xây dựng và củng cố một chế độ độc tài tòan trị cộng sản, theo mẫu mực của đế quốc Đỏ hàng đầu Liên Sô thời bấy giờ.Tuy nhiên, để che đây thực chất này, Hồ Chí Minh và Cộng đảng Việt Nam đã dùng lại danh xưng chế độ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” của bản Hiến pháp 1946, ban hành sau khi Nhật bại trận trong Thế Chiến II (1939-1945), buộc phải trao trả độc lập cho Việt Nam. Lúc đó ông Hồ và Cộng đảng Việt Nam nhờ thủ đọan khôn khéo, kỷ thuật vận động quần chúng hữu hiệu, nên đã nhanh tay chủ động cướp chính quyền bằng sức mạnh của quần chúng, tiến tới thành lập chính phủ liên hiệp Quốc - Cộng do Hồ Chí Minh đứng đầu và sau đó hòan tòan bị Cộng đảng Việt Nam khuynh lóat. Và để tiếp tục làm nhiệm vụ quốc tế, Cộng sản Bắc Việt đã làm nhiệm vụ tên lính xung kích cùa cộng sản quốc tế (Nga-Tầu), phát động cuộc chiến  “Nồi da xáo thịt” nhằm thôn tính nhuộm đỏ Miền Nam, vùng đất tự do, với chính quyền Quốc Gia trong tư thế chính thống, chính danh, có chính nghĩa, kế tục quyền lực quốc gia, tiếp nhận độc lập chủ quyền từ tay thực dân Pháp trên một nửa đất nước ở Miền Nam, kiến tạo một chế độ dân chủ pháp trị (Việt nam Cộng hòa) đáp ứng đúng ý nguyện của nhân dân Việt Nam.
         Trong giai đọan này, cả hai phe Quốc Cộng đều có tư thế quốc gia, có lãnh thổ, chính quyền quân đội và nhân dân, hành xử quyền cai trị đối nội cũng như đối ngọai, với sự trợ giúp của ngọai bang thuộc hai phe đối đầu: cộng sảntư bản. Cộng sản Bắc Việt (CSBV), sau năm năm củng cố, xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn, đã thành lập “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam”(12-1960) rồi sau đó đẻ ra “Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” (1967)  làm công cụ chính trị phát động và tiến hành chiến tranh xâm lăng Miền Nam, với sự trợ giúp của Nga –Tầu và các nước trong phe “Xã Hội Chủ Nghĩa” Đông Âu.
          Trong khi đó, tại Miền Nam Việt Nam, chính quyền quốc gia Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), với sự trợ giúp của Hoa Kỳ và các cường quốc tư bản,  theo đuổi một cuộc chiến tranh tự vệ, với mục đích ngăn chặn, đẩy lùi và đập tan ý đồ xâm lăng của CSBV, xây dựng và củng cố chế độ dân chủ, phát triển kinh tế  ngày càng vững mạnh, tiến tới thống nhất đất nước bằng con đường hòa bình, với sự ưu thắng của một Miền Nam dân chủ, giầu mạnh trên chế độ độc tài tòan trị cộng sản, lạc hậu và nghèo nàn ở Miền Bắc (Như thực tế đã xẩy ra  ở nước Đức qua phân và sẽ xẩy ra ở  Triều tiên  trong tương lai không xa).
         Cuộc chiến tranh Quốc Cộng kéo dài 21 năm (1954-1975), với kết cuộc phe Quốc Gia một lần nữa  bị thua cuộc, CSBV đã thôn tính được Miền Nam, thống trị tòan đất nước bằng một chế độ độc tài tòan trị CS.
         Hệ quả là, chế độ dân chủ VNCH cáo chung, chính quyền VNCH sụp đổ, Quân lực VNCH tan rã, hầu hết sĩ quan và lãnh đạo chính quyền các cấp VNCH bị  CS đầy ải, hành hạ, xỉ nhục  trong các trại tù “Tập trung cải tạo”. Một thiếu số quan chức chính quyền, quân đội và nhân dân Miền Nam  kịp di tản ra hải ngọai trước ngày 30-4-1975, và vượt biên nhiều năm sau đó, qui tụ thành những Tổ Chức Cộng Đồng, các đảng phái chính trị và tổ chức đấu tranh,đoàn thể xã hội, tôn giáo tiếp tục công cuộc chống cộng giai đọan 3 vì tự do dân chủ cho Đất nước.
   3/- Giai đọan 3  ( Từ 1975. . . đến ngày kết thúc)
      (Xin trình bầy chi tiết ở phần II)
3.- Động lực chống cộng và mục tiêu sau cùng phải thành đạt là gì?
       Trong cả ba giai đọạn chống cộng nêu trên, chúng ta, các thế hệ những người Việt Nam không cộng sản đều có chung động lực là lòng yêu nước, tình yêu thương dân tộc và trách nhiệm đối với đất nước, tiền đồ Tổ Quốc Việt Nam.
        Như vậy, trước sau gì công cuộc chống cộng của chúng ta đều xuất phát từ lòng yêu nước, chứ không phải vì lòng căm thù, dù qua các giai đọan chống cộng, Việt cộng đã  gây ra quá nhiều thù hận. Nhưng lòng thù hận chỉ là cảm tính, động lực cá nhân, là hậu quả do cách hành xử của Việt cộng đối với Việt quốc gây ra, chỉ sau khi khởi sự và trong quá trình phân tranh Quốc- Cộng. Trong khi, mọi người tham gia công cuộc chống cộng khởi đi từ động lực nguyên thủy là lòng yêu nước, ngay từ khi Việt cộng chưa gây ra thù hận.
         Sự thể này chứng tỏ chúng ta chống cộng do động lực là lòng yêu nước chứ không phải vì thù hận, chống cộng không phải để trả thù, mà chống cộng vì mục đích cao cả, để thành đạt mục tiêu tối hậu: Tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản,dân chủ hóa đất nước”, tạo tiền đề xây dựng và phát triển toàn diện Đất nước đến phú cường và văn minh tiến bộ theo kịp đà tiến hóa chung của nhân loại, của cộng đồng các quốc gia trên thế giới; để mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam  được sống ấm no, tự do, hạnh phúc, với các nhân quyền,dân quyền được tôn trọng, bảo vệ và hành xử; để mọi người dân Việt không biệt giai tầng xã hội, sắc tộc, tín ngưỡng có được một đời sống tự do, ấm no, hạnh phúc, xứng đáng với nhân phẩm và cương vị của con người.
         Vì vậy, mục tiêu tối hậu củaViệt quốc, không phải là tiêu diệt đến người cộng sản Việt Nam cuối cùng, mà chỉ làm “phản tỉnh” và lọai trừ  cơ hội cho người cộng sản không thể độc chiếm quyền lực, thực hiện một chế độ độc tài tòan trị cộng sản trên đất nước Việt Nam ta. Để sau đó, thay thế bằng một chế độ dân chủ đích thực, chứ không phải là chế độ độc tài không cộng sản hay bất cứ một chế độ dân chủ giả hiệu nào.
         Nghĩa là Việt Quốc sẽ tiếp tục chống chống cho đến khi nào thành đạt mục tiêu tối hậu này: Tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản,dân chủ hóa Đất nước, thì cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc - Cộng tại Việt Nam mới coi như chấm dứt.
     Xin coi tiếp phần “II.- Việt Quốc đã chống cộng thế nào trong 40 năm qua và hiệu quả ra sao?”
Thiện Ý
--------------
 Đọc tiếp:
http://www.ukdautranh.com/2015/03/40-nam-nhin-lai-ket-thuc-mot-qua-trinh.html (2)

------------
 

0 comments:

Post a Comment

Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!

Một biến thể phụ COVID-19 mới xuất hiện, mang tên Arcturus.

 Biến thể phụ Arcturus mới, lần đầu tiên được xác định “có mặt” và lây lan mạnh ở Ấn Độ hồi Tháng Ba. Tại Hoa Kỳ, Arcturus hiện chiếm khoảng 6% trong số ca nhiễm COVID-19.