1* Mở bài
Tranh chấp Biển Đông căng thẳng cao độ khi Trung Cộng đưa giàn khoan vào vùng biển của Việt Nam.
Các quốc gia liên hệ lên tiếng phản đối hành động trái phép và ngang ngược đó.

Để biện minh, Trung Cộng đưa ra LHQ những
bằng chứng họ có chủ quyền, đồng thời yêu cầu Tổng Thư Ký Ban Ki-moon
phổ biến những bằng chứng đó đến 193 thành viên của LHQ.
Bằng chứng được đưa ra là công hàm bán
nước của Hồ Chí Minh-Phạm Văn Đồng cùng với những lời tuyên bố của các
quan chức CSVN, xác nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về
Trung Cộng. Bản đồ và sách giáo khoa của VN cũng xác nhận hai quần đảo
đó thuộc về Trung Cộng.
Những bằng chứng mà Trung Cộng đưa ra là
đúng sự thật, nhưng không biết nó có giá trị pháp lý quốc tế hay không,
tuy nhiên đối với CSVN thì chính Hồ Chí Minh và cả đảng CSVN công nhận
như thế.
Về phía Mỹ, Thượng Viện ra một nghị quyết
lên án hành động trái phép của Tàu khựa trong khi đó quốc hội VN hèn
nhát, không dám nói lên một tiếng nào cả.
Tổ chức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) cũng muốn góp phần giải quyết tranh chấp bằng đàm phán với Trung
Cộng thông qua việc thực hiện một bộ quy tắc ứng xử về Biển Đông (COC)
Và mới đây ba trí thức trong và ngoài
nước Việt Nam nêu lên một kế hoạch giải quyết tranh chấp bằng tạo ra một
vùng hòa bình, an ninh và trật tự ở Biển Đông, bằng cách Việt Nam nên
từ bỏ chủ quyền trên các đảo, như thế sẽ không còn tranh chấp, và sự hợp
tác với Trung Cộng để khai thác chung cùng có lợi cho các bên liên hệ.
Mỹ có đường hàng hải an toàn, Việt-Trung có lợi ích về tài nguyên.
Ba trí thức đó là TS Vũ Quang Việt, GS Ngô Vĩnh Long và GS Trần Hữu Dũng phổ biến quan điểm trên trang BBC ngày 8-8-2014.
Từ bỏ chủ quyền thật sự là một việc đầu hàng trước kẻ cướp.
2* Trung Cộng nêu những bằng chứng về chủ quyền của họ
Những bằng chứng bao gồm bản công hàm
ngày 14-9-1958 của chính quyền Hồ Chính, những lời tuyên bố của cán bộ
lãnh đạo Đảng, cũng như bản đồ và những tài liệu trong sách giáo khoa do
nhà nước ấn hành.
2.1. Công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng
“Thủ Tướng Phủ
Nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hoà
Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958.
(Ấn ký)
2.2. Những bằng chứng bán nước khác
Ngoài Phạm Văn Đồng ra, còn có những bằng chứng đảng CSVN công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Cộng, cụ thể như sau:
“Thứ trưởng ngoại giao Ung văn Khiêm nói
rằng “theo những dữ kiện của Việt Nam, hai quần đảo Hoàng sa và Trường
sa là một bộ phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc”.
- Ông Lê Lộc, quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc Bộ Ngoại giao VN:
… “xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã hoàn toàn thuộc về Trung quốc từ thời nhà Tống”
3). Hoàng Tùng, Trưởng Ban Tư tưởng TW đảng CSVN đã tuyên bố:
“Thà giao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc, cùng phe xã hội chủ nghĩa anh em còn hơn để tụi Ngụy Sài Gòn quản lý”!
4). Năm 1960 và năm 1972 Hà Nội cho ấn hành hai cuốn Atlas.
Cuốn thứ nhất do Bộ Tổng Tham mưu Quân đội biên soạn.
Cuốn thứ hai do Phòng họa đồ của Phủ Thủ tướng biên soạn.
Trong cả hai cuốn này đều ghi Trường Sa và Hoàng Sa là của Trung Quốc.
5). Báo Nhân Dân của Việt Nam số xuất bản ngày 16/9/1958:
“Ngày 14/9 Thủ tướng Phạm Văn Ðồng, trong
bản công hàm gởi cho Thủ tướng Chu An Lai, đã thành khẩn tuyên bố rằng
Việt Nam “nhìn nhận và ủng hộ Bản Tuyên Bố của Nhà nước Cộng Hoà Nhân
Dân Trung Hoa trong vấn đề lãnh hải”.
6). Sách Địa lý năm 1974
“Các quần đảo từ Trường Sa và Hoàng Sa
đến đảo Hải Nam và Ðài Loan của Trung Quốc, hình thành một bức tường
phòng thủ vĩ đại cho lục địa Trung Hoa.”
7) Tháng 2 năm 1972, Cục Đo đạc và Bản
đồ, trực thuộc Phủ Thủ tướng phát hành “Tập Bản đồ Thế giới”, trong đó
Hoàng Sa và Trường Sa bị đổi tên là Tây Sa và Nam Sa.
8). Tháng 5 năm 1976, tờ Sài Gòn Giải
Phóng loan tin “Trung Quốc vĩ đại, đối với chúng ta không những là đồng
chí mà còn là người thầy tin cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để
chúng ta có ngày hôm nay. Vì vậy, chủ quyền Hoàng Sa thuộc về VN hay
thuộc về TQ thì cũng vậy thôi!”. (Hết trích)
Như trên cho thấy, không phải chỉ một
Phạm Văn Đồng công nhận HS/TS là của Trung Cộng, mà cả đảng và Nhà nước
CSVN đã có cùng một chủ trương bán nước cho Tàu Cộng.
Sự thật rành rành không thể chối cãi được.
3* Ai bóp méo sự thật?
Việt Cộng lớn tiếng tố cáo Trung Cộng đã bóp méo sự thật. Những điều nêu ra ở trên là sự thật. Vậy ai bóp méo sự thật?
Những bằng chứng mà bọn Tàu khựa nêu trên
hoàn toàn là sự thật. Trung Cộng là một cường quốc, chúng không ngu dại
gì phổ biến đến 193 thành viên của LHQ những điều trái với sự thật.
- 1. Trung Cộng lý luận
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
(HS/TS) là của tụi tao. Không cần biết nó xuất xứ từ đâu nhưng hiện tại
là tụi tao đang làm chủ. Có thể tụi tao đã ăn cắp, ăn cướp, mua lại hoặc
nhận cống lễ dâng nạp…Điều quan trọng là những đứa con hoang đàng của
tụi bây phải cộng nhận tờ giấy bán trao tay đề ngày 14-9-1958 mà Hồ Chí
Minh và Phạm Văn Đồng đã chấp thuận và ký tên.
Chữ ký trên công văn chính phủ là có giá
trị, bởi vì Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đâu có phải là mấy tên cha căn
chú kiết, cà lơ phất phơ, khố rách áo ôm, đầu đường xó chợ đâu mà chữ ký
không có giá trị?
Lũ con hoang đàng tụi bây hãy hồi tâm
chuyển ý, ăn năn hối cải, thực hiện những điều cam kết dựa trên 16 chữ
vàng và 4 tốt để trở về cùng đại gia đình các dân tộc Trung Hoa theo ước
nguyện của đảng CSVN ngày 4-9-1990 tại Thành Đô.
- 2. Nói về việc mua bán, dâng nạp đất đai
1). Năm 1803, Napoléon Bonaparte của Pháp đã bán phần đất Louisiana cho Mỹ với tổng số tiền là 23,213,568 USD.
2). Năm 1867, Đế quốc Nga đã bán phần đất Alaska cho Mỹ giới giá 7.2 triệu USD.
3). Năm 1306, Chế Mân dâng cho vua Trần Anh Tông hai châu Ô và Rí làm của hồi môn để cưới Huyền Trân Công Chúa.
Cha mẹ, tổ tiên bán nước cắt đất dâng
biển thì thử hỏi, con cháu có đòi lại được không? Chế Linh có đòi hai
châu Ô và Rí được không?
4* “Hoàng Sa-Trường Sa: Hợp tác để chia sẻ”
Hôm thứ sáu, ngày 8-8-2014 trên trang
mạng BBC có bài viết mang tựa đề như trên, nêu lên quan điểm của tiến sĩ
Vũ Quang Việt và hai vị giáo sư đại học là Ngô Vĩnh Long và Trần Hữu
Dũng.
Quan điểm của ba vị trí thức nầy ăn khớp
nhịp nhàn với nhau tạo thành một giải pháp để giải quyết tranh chấp ở
Biển Đông. Có thể tóm tắt như sau:
Việt Nam nên từ bỏ chủ quyền trên các đảo để:
- Để có hoà bình
- Để có an ninh khu vực
Đó là những điều kiện để hợp tác với nhau
cùng chia xẻ quyền lợi cho nhau, chủ yếu là quyền lợi của Việt Nam,
Trung Cộng và Hoa Kỳ, về tài nguyên và tuyến đường hàng hải trên Biển
Đông.
Điểm then chốt được nhắc đi nhắc lại
nhiều lần là Việt Nam nên từ bỏ chủ quyền trên các đảo của mình để tránh
xung đột, mới có hòa bình và an ninh, ổn định.
- 1. Phân tích quan điểm của từng người
1). Quan điểm của TS Vũ Quang Việt
“Hà Nội nên theo đuổi chính sách liên
minh để quyền lợi mọi người được tôn trọng, không phải chỉ là chủ quyền
của mấy cái đảo nhỏ, mà là sự đi lại. Muốn có hòa bình thì phải hợp tác chia sẻ chớ không phải mỗi người tự bảo của mình được.
Nếu Việt Nam nhìn vấn đề Biển Đông qua vấn đề chủ quyền của Hoàng Sa và
Trường Sa thì không thuyết phục được Mỹ và các nước khác ủng hộ Việt
Nam” (Vũ Quang Việt)
Nhận xét về ý kiến trên.
Ông Việt không nói hợp tác với ai để có
hòa bình và chia xẻ quyền lợi. Tuy nhiên, Mỹ không có yêu cầu VN phải từ
bỏ chủ quyền biển đảo, mà chỉ có Trung Cộng muốn chiếm các đảo của VN
mà thôi.
Tóm lại, cái ông nầy chủ trương VN nên từ
bỏ chủ quyền biển đảo, tức là cắt đất dâng biển của tổ tiên, của dân
tộc cho bọn quan thầy Tàu khựa.
2). Quan điểm của GS Trần Hữu Dũng
“Tôi nghĩ rằng Việt Nam hơi sai khi đặt
nặng vấn đề chủ quyền hơn là an ninh khu vực và tự do khu vực”, ông Dũng
phát biểu như thế.
Cái sai to lớn của ông nầy là “bỏ chủ
quyền để có an ninh và tự do”. Nói rõ ra là nếu giao biển đảo cho Trung
Cộng thì sẽ có an ninh và tự do vì không còn tranh chấp. Ông không biết
rằng khi biển đảo rơi vào tay Trung Cộng thì VN còn tự do nữa không?
Chừng đó, Trung Cộng xây đảo nhân tạo, lập vùng nhận diện phòng không ,
xây nhà máy hóa lỏng cho khí đốt, và cấm ngư dân Việt Nam đánh cá trên
vùng biển của tổ tiên mình.
Không thực tế! Thiếu kiến thức.
3). Quan điểm của GS Ngô Vĩnh Long
Ông Long nầy nói: “Nếu Việt Nam nhìn
vấn đề Biển Đông qua chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa thì không có
thể thuyết phục Mỹ hay các nước khác ủng hộ Việt Nam. Nhưng nếu VN thấy
rằng an ninh hàng hải trong khu vực thật là quan trọng, và đẩy Mỹ và các
nước khác chú ý thêm, thì VN lúc đó mới được người ta chú ý” (Ngô Vĩnh Long)
Nói cho gọn lại là, nếu VN từ bỏ chủ
quyền trên HS&TS thì được Mỹ và các nước khác “chú ý”. Bỏ chủ quyền
sẽ tạo ra ổn định, mà ổn định làm an toàn tuyến hàng hải ở Biển Đông. Đó
là quan điểm ngược ngạo của ông Long.
Ông giáo sư nầy lý luận ngược ngạo. Các quốc gia khác giúp đỡ Việt Nam là để VN bảo vệ được chủ quyền trên biển.
Nói thêm về GS Ngô Vĩnh Long.
Trích nguyên văn trong tự điển mở Wikipedia.
“Ông Ngô Vĩnh Long là một trong những học
giả Việt kiều nổi tiếng ở Mỹ. Hiện là GS dạy khoa Lịch sử ở Đại học
Maine, HK. Sinh năm 1934 tại Vĩnh Long. Là lứa đầu tiên tham gia phong
trào Sinh viên yêu nước ở Sài Gòn. Đã từng biểu tình chống Nguyễn Khánh.
Ngày 10-2-1972, đã tham gia chiếm tòa Lãnh sự VNCH ở New York trong
lúc nhân viên ăn trưa. Mục đích tuyên bố với thế giới về chủ trương
gọi là “đòi hỏi của nhân dân VN”.
Cũng như các trí thức Việt kiều khác, ông thường về VN tham gia các
tọa đàm với học giả trong nước. (Theo Wikipedia)
- 2. Cái não trạng nô tài
Một vị đại tá cựu Cục trưởng Cục Đông Bắc Á, thuộc Bộ Công an, đã phát biểu: “Trong
trường hợp nhất định nào đó, mình vẫn có thể giữ nguyên giàn khoan
Trung Quốc, như một đơn vị đầu tư nước ngoài, nhưng phải có nguyên tắc,
và lợi ích của ta phải được đảm bảo”.
Cha nội đại tá nầy còn mang cái não trạng tôi tớ của Tàu và còn dốt nát nữa. Xin phân tích như sau:
- Cái não trạng u mê, tôi tớ của Tàu khi công nhận hành động tấn công,
tiến chiếm vùng biển chủ quyền VN bằng vũ lực. Đã đâm bể hông 25 tàu
chấp pháp VN, bắn chìm tàu và bắt giữ ngư dân, như thế mà còn xem như
“một đơn vị đầu tư của nước ngoài”.
- Cái dốt của đại tá dỏm nầy là không biết được ý đồ của Tàu khựa là,
ngoài việc chiếm tài nguyên, họ còn chiếm vùng biển hình lưỡi bò để bảo
vệ con đường hàng hải huyết mạch của họ ở Biển Đông và kiểm soát cả vùng
biển nầy.
- Có nước nào thực hiện đầu tư bằng vũ lực với đối tác kinh doanh như kiểu nầy hay không?
- Về việc “phải có nguyên tắc và lợi ích được đảm bảo”. Hành động bất
hợp pháp trong việc dùng vũ lực xâm phạm chủ quyền biển thì làm sao mà
có nguyên tắc được? Và nước chủ nhà hèn nhát thì ai sẽ bảo đảm lợi ích
của VN? Hành động ăn cướp thì làm sao mà bảo đảm lợi ích của chủ nhà?
Dốt!
Không phải chỉ có một vị nô tài như thế,
mà trong khi bọn khựa đâm bể hông tàu của mình, ngư dân bị bắt, bọn khựa
chửi bới nặng nề, dùng lời lẻ trịch thượng, thế mà một vị trong Bộ
Chính trị tuyên bố là quan hệ hai nước vẫn tốt đẹp và những vụ đâm tàu,
bắt ngư dân, giết ngư dân, tịch thu ngư cụ và tài sản… chỉ là việc nội
bộ trong gia đình. Độc đáo thật.
4* Phương án “Xoá bài làm lại”
“Phương án xoá bài làm lại” của Trúc
Giang là cả hai bên thực hiện những bước để giữ được thể diện của cả hai
bên, mà cuối cùng hai bên cũng đạt được mục đích. Đó là Trung Cộng
chiếm tài nguyên của VN một cách công khai và hợp pháp. Và Việt Cộng
cũng dâng tài nguyên của dân tộc cho quan thầy Trung Cộng, cũng công
khai và hợp pháp.
Bước 1. Trung Cộng rút giàn khoan ra khỏi vùng biển của VN.( Đã làm)
Việc nầy vừa hé lộ khi Trung Công tuyên bố hoàn thành giai đoạn một và đã lùi giàn khoan 114m về phía đảo Tri Tôn (Hoàng Sa).
Bước 2. Việt Nam có thể đâm đơn kiện Trung Cộng ra tòa án quốc tế.
Bước 3. Việt Nam rao mời gọi thầu và công
ty Xi Nóc (CNOOC) lại nạp đơn và đương nhiên trúng thầu, thế là giàn
khoan được lôi về vị trí cũ trong vùng biển đặc quyền kinh tế của VN.
Lợi nhuận mà Trung Cộng giao nạp cho Việt
Nam, sẽ được đưa vào chương mục mua sắm vũ khí quốc phòng, cho nên
tuyệt mật. Đố ai biết được là bao nhiêu, lãnh đạo Đảng chia chác nhau là
bao nhiêu?.
5* Đảng Cộng Sản Việt Nam phản bội dân tộc
Trước kia đảng Cộng Sản Việt Nam dùng chủ
nghĩa dân tộc để chiếm lấy quyền lực, nhưng nay vì bảo vệ quyền lực nên
đã phản bội dân tộc.
Ủy viên quốc vụ Dương Khiết Trì cho biết,
chuyến đi sang Việt Nam của ông là để kéo đứa con hoang đàng trở về với
Trung Quốc. Nói như thế có nghĩa là trước kia đứa con VN nầy ngoan
ngoản, vâng lời nhưng nay thì trở nên hư hỏng, hoang đàng, không con
nghe lời cha mẹ nên họ Dương đó phải sang để kéo con về.
Họ Dương nầy tuyên bố những câu trịch
thượng quá tầm mức của ngôn ngữ ngoại giao, đã được truyền thông quốc tế
loan đi khắp nơi thế mà không thấy đảng CSVN nói lên một tiếng nào về
câu nói đó cả. Im lặng có nghĩa là bằng lòng hoặc hèn nhát.
Hình ảnh Trương Tấn Sang khom lưng cúi đầu khi đến Trung Cộng ngày 19-6-2013 chứng minh được sự hèn nhát đó.
Nhớ lại ngày 2-9-1945 Hồ Chí Minh tuyên
bố độc lập, thì ngày 2-9-1990 Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh lên đường đi
bán nước tại hội nghị Thành Đô. Đảng CSVN đã xin cho được làm một khu tự
trị trong đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.
- 1. Sự phân công tuyên bố để xoa dịu lòng dân. Dám nói mà không dám làm.
Tiến sĩ Vũ Tường, Đại học Oregon, Hoa Kỳ,
cho rằng những lời tuyên bố là do Đảng đã phân công, cụ thể là Nguyễn
Tấn Dũng đã đưa ra những lời lẻ mạnh mẽ hơn những người khác trong Đảng,
tuy nhiên, nói để mà nói, nói để xoa dịu lòng dân. Dám nói mà không dám
làm.
- 2. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã phản bội dân tộc
Tiến sĩ Hà Sỹ Phu, một trí thức bất đồng
chính kiến trong nước phát biểu: “Tôi nghĩ là ở cấp cao, những người có
vai trò quyết định vận mạng của đất nước, thì họ không ngu tí nào cả.
Tất cả những việc họ đã làm chỉ để bảo vệ quyền lợi của họ mà thôi”.
Các nhà quan sát cho rằng các lãnh đạo
Đảng đang ở thế tiến thoái lưỡng nan, giữa quyền lợi dân tộc và quyền
lợi của Đảng. Câu nói bình dân là “Theo Mỹ thì mất Đảng, theo Tàu thì
mất nước”. Họ chọn con đường mất nước. Vì cựu chủ tịch nước Nguyễn Minh
Triết đã cảnh cáo công an và bộ độ là “Bò điều 4 Hiến pháp là tự sát”.
Thực tế cho thấy không có cán bộ đảng viên nào ôm tiền tham nhũng mà tự
sát cả.
GS Nguyễn Huệ Chi phát biểu, trước kia
đảng CSVN dùng chủ nghĩa dân tộc để chiếm quyền lực, nhưng trong tình
hình hiện nay, khi Trung Cộng dùng bạo lực và lời lẻ trịch thượng chửi
bới thì đảng CSVN đã vì quyền lực mà bỏ đi quyền lợi quốc gia.
Hiện đang có những người dân trong nước đã lên tiếng tố cáo hành động bán nước của Đảng CSVN.
6* Cần gì phải đánh?
Sau đây là nội dung một bài viết rất độc đáo của tác giả Vũ Đông Hà trên trang mạng dân làm báo.
1). Tại sao phải đánh chúng khi 700km2
vùng biên giới phía nam của ta được chúng dâng cho ta. Một nửa Thác Bản
Giốc đã cắm cờ 5 sao. Ải Nam Quan biến thành Hữu Nghị quan mà chúng cực
kỳ coi trọng là đại cuộc hợp nhất của hai dân tộc?
2). Súng đạn nào bằng phong bì đầy tiền
tống vào miệng chúng để Đại Hán chúng ta ngồi ngay trên nóc nhà Cao
Nguyên của chúng? Đào mổ xới mả trên đất mẹ của chúng?
3). Xe tăng đại pháo nào bằng hàng trăm,
hàng ngàn công trình xây dựng để những sư đoàn Trung Hoa trong bộ áo
công nhân chiếm giữ toàn bộ trên đất nước của chúng từ mũi Cà Mau đến
Hữu Nghị quan?
4). Phi cơ chiến hạm nào bằng 90% gói
thầu chúng ta khống chế nền kinh tế của chúng? Hàng hóa thặng dư made in
China đang ở trên cơ thể của chúng, bàn ăn, bao tử, nhà cầu của chúng.
5). Tại sao phải đánh chúng khi chỉ cần
đóng cửa biên giới thì người dân của chúng không đủ tiền mua quần áo,
hàng hoá tiêu dùng? Và chỉ cần một cú nổ thì cả Tây Nguyên của chúng
chôn vùi dưới bùn đỏ.
6). Cần gì phải đánh khi ngư dân của chúng đi đánh cá trên vùng biển tổ tiên của chúng mà lấm lét như đi ăn trộm?
7). Cần gì phải đánh khi hải quân của
chúng không dám lai vãng đến gần giàn khoan mà chúng ta đặt vào vùng
biển của tổ tiên chúng?
8). Cần gì phải đánh khi chúng ta chiếm đoạt một cách hòa bình và hợp pháp bằng những văn kiện do chúng tự nguyện ký tên vào?
9). Cần gì phải đánh khi chúng thay thế ta ngăn chặn, trấn áp, bắt giam, bỏ tù những người dân phản đối Đại Hán của ta?
10). Chưa bao giờ trong lịch sử bành
trướng của chúng ta, có được một đám thái thú địa phương làm tay sai đắc
lực và hiệu quả như thế! Không cần phải đánh! Cờ Đại Hán 5 sao biến
thành 6 sao phất phới trên toàn lãnh thổ của chúng.
Văn kiện sau cùng là văn kiện chúng ta
viết sẵn để chúng xin được ký tên vào hầu thỏa mãn ước mơ đại cuộc, hãnh
diện được gia nhập chính thức vào gia đình các dân tộc Trung Quốc vĩ
đại của chúng ta.
7* Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á cần xây dựng bộ quy tắc ứng xử để giải quyết tranh chấp.
- 1. Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á
Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á
(ASEAN=Association of Southeast Asian Nations) là một liên minh chính
trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông nam
Á, được thành lập ngày 8-8-1967.
ASEAN có 10 quốc gia thành viên:
Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Brunei, Việt Nam,
Lào, Miến Điện và Campuchia.
- 2. Bộ máy hoạt động của ASEAN
1). Hội nghị Thượng đỉnh (ASEAN Summit)
Là cơ quan quyền lực cao nhất của hiệp hội. Họp mỗi năm một lần.
2) Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (ASEAN Ministeral Meeting-AMM)
Là hội nghị hàng năm của các Bộ trưởng Ngoại giao trong hiệp hội.
Ngoài ra còn Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế và Bộ trưởng các ngành khác.
8* Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN sẽ đề cập tới tranh chấp ở Biển Đông
- 1. Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN ở Miến Điện
Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á có 3 cấp
hội nghị: đó là hội nghị thượng đỉnh (ASEAN Summit), hội nghị cấp ngoại
trưởng (ASEAN Ministeral Meeting) và hội nghị các bộ trưởng kinh tế và
các bộ trưởng khác.
Ngày 22-7-2014, các nguồn tin ngoại giao
cho biết Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 47 sẽ được tổ chức vào
tháng 8 năm 2014 tại thủ đô Naypyitaw, Miến Điện, vì nước nầy làm chủ
tịch luân phiên của hiệp hội.
- 2. Dự thảo bản tuyên bố chung của hội nghị
Dự thảo bản tuyên bố chung nêu rõ: “Chúng
tôi bày tỏ quan ngại về diễn biến hiện nay ở Biển Đông và tái khẳng
định tầm quan trọng của hợp tác khu vực trong việc duy trì hòa bình, ổn
định và an ninh hang hải trong khu vực. Chúng tôi kêu gọi các bên giải
quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình thong qua tham vấn và đối
thoại hữu nghị, phù hợp với nguyên tắc luật pháp quốc tế, đã được công
nhận rộng rãi trong Công Ước Quốc Tế về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.
9* ASEAN chủ trương thực hiện bộ Quy tắc ứng xử (COC)
Khối ASEAN chủ trương dựa vào Bản Tuyên
Bố DOC để tiến tới Bộ Quy Tắc ứng xử COC mục đích giải quyết tranh chấp
một cách hòa bình theo luật quốc tế ở Biển Đông.
- 1. Bản Tuyên bố về cách ứng xử trên Biển Đông (DOC)
Khối ASEAN và Trung Quốc, sau 3 năm làm
việc với nhau mà không đạt được một Bộ quy tắc ứng xử về Biển Đông
(COC), cho nên phải hạ xuống một cấp, là đưa ra Bản Tuyên bố chung về
cách ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC. (Declaration on the Conduct of
Parties in the South China Sea-DOC).
Bản Tuyên bố chỉ là một thông cáo phổ
biến công khai sau những cuộc thảo luận, không phải là một văn bản có
tính ràng buộc các bên phải thi hành theo cam kết.
Nội dung của DOC ngày 4-11-2002:
Không mở rộng vùng chiếm đóng mới * Không
làm phức tạp thêm tình hình * Hợp tác với nhau trong những lãnh vực ít
nhạy cảm như nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường, chống hải tặc…
- 2. Cần xây dựng một Bộ quy tắc ứng xử (COC)
Để đạt được mục đích: Xây dựng những
chuẩn mực ngăn ngừa xung đột. Giải quyết xung đột. Xây dựng hòa bình sau
xung đột tại Biển Đông, tại phiên họp thượng đỉnh của ASEAN ở
Indonesia, hội nghị đã đồng ý là cần thiết phải xây dựng một Bộ Quy tắc
ứng xử (Code of Conduct-COC) ở Biển Đông, và cố gắng hoàn tất vào năm
2022.
Bộ Quy tắc ứng xử là một bộ liệt kê những
nguyên tắc, những điều khoản phải làm, xem như một nội quy có tính pháp
lý, buộc các bên phải tuân hành về những thỏa thuận và cam kết trong
việc giải quyết những tranh chấp với nhau.
COC được áp dụng rộng rãi trong nhiều
lãnh vực và ngành nghề có nhiều thành phần tham gia, COC quy định những
biện pháp ứng xử mà họ đã cam kết để giải quyết những bất đồng trong tổ
chức. Về kinh tế, bộ quy tắc ứng xử (COC) thường áp dụng chung cho các
công ty liên doanh và tổ chức đa thành phần.
- 3. “Đàm phán với Trung Cộng để thực hiện bộ quy tắc ứng xử là ưu tiên sai”
Tại cuộc hội thảo quốc tế về Biển Đông
được tổ chức ở Sài Gòn vào 2 ngày 25 và 26 tháng 7 năm 2014, dưới chủ đề
“Tranh chấp Biển Đông dưới góc nhìn dân sự”, với sự tham gia của hơn 50
học giả và nhà nguyên cứu đến từ nhiều quốc gia.
Trong phần thảo luận, GS Carl. Thayer nhấn mạnh: “Việc ASEAN cứ chúi mũi vào việc đàm phán với Trung Quốc để đạt được một bộ quy tắc ứng xử COC là một ưu tiên sai”.
Ông giải thích, đàm phán như thế sẽ gây chia rẽ trong nội bộ ASEAN. Đó
là nhóm có tranh chấp với Trung Cộng như Việt Nam, Philippines,
Malaysia, Indonesia, Brunei, Singapore. Nhóm không có tranh chấp trên
Biển Đông như Thái Lan, Lào, Miến Điện, Campuchia.
Sự chia rẽ nầy khó đạt được một lập
trường chung của ASEAN đối với Trung Cộng, và Trung Cộng sẽ lợi dụng bàn
hội nghị để câu giờ theo kiểu “vừa đánh vừa đàm” giống như Hội nghị
Paris về Việt Nam, đã kéo dài trên 5 năm, từ 1968 đến ngày 27-1-1973.
Câu giờ để có thời gian đánh chiếm thêm
các đảo và vùng biển mà họ tuyên bố có chủ quyền, đặt “mọi việc đã rồi”,
và ngay khi đó họ nhanh chóng chấp nhận một bộ quy tắc ứng xử tác dụng
ngược lại, trước kia ngăn chặn họ chiếm biển đảo, bấy giờ ngăn chặn
ASEAN đòi chủ quyền trên vùng biển hình lưỡi bó. Xem như gậy ông đập
lưng ông.
10* Sự chia rẽ trong nội bộ ASEAN
- 1. Campuchia chống quốc tế hóa tại thượng đỉnh ASEAN năm 2012
Ngày 19-11-2012 tình trạng chia rẽ trong
nội bộ của tổ chức nầy nổi lên khi nước chủ nhà Campuchia tuyên bố: “Vấn
đề tranh chấp ở Biển Đông sẽ không được nêu lên tại Hội nghi Thượng
đỉnh ngày 20-11-2012 với lý do là không muốn quốc tế hóa vấn đề Biển
Đông. Điều nầy là một thắng lợi củaTrung Cộng vì họ chủ trương giải
quyết tranh chấp bằng đàm phán song phương.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ tư, ngày
20-11-2012, khi tổng thống Obama và các lãnh đạo khác đến Campuchia
tham dự hội nghị, thì chỉ có một người duy nhất được chào đón bằng những
biểu ngữ dọc theo cổng chào dẫn đến địa điểm nhóm họp.
Các biểu ngữ viết “Chào mừng thủ tướng Ôn Gia Bảo”, “Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa muôn năm”.
Một nhà ngoại giao phát biểu: “Một số nước dễ dàng bị tiền bạc lung lạc. Họ thấy tiền là sẵn sàng vất bỏ các nguyên tắc”.
Campuchia nợ Trung Quốc 4.7 tỷ USD, bằng
1/3 tổng sản lượng quốc gia. Hun Sen đã lội dụng quyền chủ tịch để loại
bỏ việc thảo luận về Biển Đông, tránh cho Trung Cộng bị các quốc gia
trong hiệp hội và quốc tế chỉ trích.
- 2. Lần đầu tiên ASEAN không đưa ra bản tuyên bố sau khi họp
Để phản đối, ngoại trưởng Phi Albert del
Rosario đã gởi một kháng thư đến các thành viên của hiệp hội, nhấn mạnh
việc Campuchia nêu lên đã không đạt được sự đồng thuận của các thành
viên.
Đó là lần đầu trong lịch sử 40 năm thành lập, ASEAN đã không đưa ra được một bản thông cáo chung sau phiên họp.
11* Kết luận
Tóm lại, khối ASEAN không đạt được mục
đích trong việc đàm phán với Trung Cộng để lập ra bộ quy tắc ứng xử
(COC), bởi vì Trung Cộng ở thế mạnh, ASEAN ở thế yếu vì nội bộ chia rẽ
và cũng không có đủ sức mạnh về kinh tế và quân sự vượt trội hơn, để áp
lực, buộc Trung Cộng phải chấp nhận những yêu sách của ASEAN.
Một giải pháp của ba trí thức Việt Nam
vừa hé lộ là Việt Nam nên từ bỏ chủ quyền biển đảo để tránh được tranh
chấp gây bất ổn, làm mất an toàn, và như thế khu vực sẽ được hòa bình để
các bên hợp tác khai thác chung, phân chia quyền lợi.
Chủ trương từ bỏ chủ quyền nầy quá ngây
ngô, đơn giản và khờ khạo, vì không biết được bản chất của Trung Cộng,
đó là khi Trung Cộng làm chủ Biển Đông thì Việt Nam mất tất cả. Đường
hàng hải do Trung Cộng kiểm soát thì Hoa Kỳ mất quyền lợi cốt lỏi quốc
gia của họ.
Có một thế lực nào của một quốc gia hay
của quốc tế đứng ra điều hành những nguyên tắc hợp tác, phân chia quyền
lợi khi mà Việt Cộng kiên trì nhất quán đàm phán song phương để giải
quyết tranh chấp trên căn bản 16 chữ vàng và 4 tốt?
Theo tôi nghĩ thì đây là một phát pháo
thăm dò dư luận để mở đường cho kế hoạch và chủ trương của Trung Cộng là
tạm gác vấn đề chủ quyền qua một bên, hai bên hợp tác khai thác chung
theo “phương án C: Xóa bài làm lại” để giữ mặt mũi và danh tiếng của
Việt, Trung mà vẫn đạt được mục đích của hai bên. Đó là Trung Cộng chiếm
tài nguyên vùng biển Việt Nam một cách công khai và hợp pháp. Việt Cộng
cũng giữ được danh tiếng là không bán nước, mà vẫn đạt được mục đích là
cắt đất dâng biển tổ tiên một cách công khai và hợp pháp bằng những hợp
đồng đấu thầu theo luật định.
Trúc Giang
Minnesota ngày 13-8-2014
0 comments:
Post a Comment