Tình
hình tại Đông Nam Á vẫn khẩn trương dưới áp lực mỗi lúc mỗi táo bạo của
CSTQ, trong khi CSVN vẫn lỳ lợm, ngoan cố, thêm lạm quyền, tham nhũng
bất trị, tiếp tục hèn với giặc, ác với dân.

Chúng ta đã thấy rõ nạn ngoại xâm bởi Đế quốc Hán Cộng là một thực trạng lịch sử,
gần đây thêm sôi động bởi những hành vi hống hách của bá quyền Bắc Kinh
nhằm thôn tính Biển Đông và toàn bộ Khu Đông Nam Á, trong đó có chư hầu
ý thức hệ là CSVN. Nạn ngoại
xâm bởi Đế Quốc Hán Cộng chỉ là hậu quả thanh toán nợ nần quân bị chiến
lược giữa những chế độ chuyên trị cướp đất, cướp dân, giữa những tên
đầu nậu quốc tế buôn bán súng đạn, ranh giới, đảo rừng, và quyền thế
đảng phiệt;
Nạn Đế quốc Hán Cộng, dù trầm trọng tới mấy, vẫn chỉ là “hiện tượng” hay
phản xạ tàn phá ngoài da cơ thể Tổ Quốc Việt Nam. Căn bệnh thật tại nội
tạng là CSVN, một thứ ung thư mà Dân Tộc chúng ta cần phải loại trừ
bằng đủ mọi cách, vừa điều trị vừa đề phòng.
Nhà cầm quyền Hà Nội vốn không có chính danh vì nhiều lần cướp đoạt
chính quyền bằng bạo lực, lừa lọc, phản bội minh ước đã cam kết và nhất
là không hề có chính nghĩa vì luôn luôn chủ mưu bán nước, hại dân bằng
mọi thủ đoạn tiêu diệt, tù đày, cướp bóc tàn ác, nên không có tư cách,
khả năng và uy tín cần thiết để bảo vệ nền độc lập căn bản cũa dân tộc
và sự vẹn toàn lãnh thổ của tổ quốc;
Vậy chỉ còn cách duy nhất là toàn dân Việt Nam, trong và ngoài nước, kết
trí kết lực đảm nhận trách nhiệm lịch sử Tổng Khởi Nghĩa giải thể chế
độ CSVN, lỗi thời, bất tài tham nhũng, bán nước hại dân; và
lập tức khai sáng, tạo dựng lại Chính Nghĩa Dân Tộc trên nền tảng Dân
chủ Tự do Tiến Bộ thực sự của dân, bởi dân, vì dân, trên căn bản [a]
pháp trị hiến định đa nguyên, cân bằng; [b] quản trị quốc gia kết sinh
thế lực chính đáng và trách nhiệm công minh; [c] song song với một hệ
thống Xã Hội Dân Sự và Đảng Phái chân chính; [d] xuất phát từ một dân
tộc có nguồn gốc văn hoá đạo đức, có giáo dục nhân bản, có thực lực,
quyền lợi và trách nhiệm trong một xã hội cầu tiến, công bình, ôn hoà.
Vậy,
muốn chống Ngoại xâm Hán Cộng trước hết hãy giải thể CSVN và lập tức
thay thế bằng một thể chế dân chủ tự do, nhân bản để phục hồi chính
nghĩa và quyền lực dân tộc.
I. Do đó, càng sớm càng tốt, Việt Nam cần thiết lập ngay một Thể Chế Pháp trị, Hiến định, Đa nguyên, Công Minh, Công bằng:
1. Hiến pháp mà Việt Nam cần lựa chọn phải xác định rõ thế lực kết sinh của ba thành tố: chính quyền, xã hội, và người dân.
[a]
Trong khu vực chính quyền, hiến pháp bao gồm những nguyên tắc căn bản
thiết lập kiến trúc, thủ tục, quyền hành và trách nhiệm của một chính
quyền đa nguyên, đa nhiệm, có trọng trách bảo vệ an ninh xứ sở, phát
triển đất nước thịnh vượng, đồng thời bảo trọng quyền lợi, an sinh, phẩm
giá của mọi người dân v.v.
[b]
Trong khu vực xã hội, hiến pháp bao gồm những “nguyên tắc tổ chức” cộng
đồng, hiệp hội, đảng phái; định hướng kinh tế tư hữu; giáo dục phổ
thông, cấp tiến, nhân bản; tín ngưỡng độc lập v.v.
[c]
Trong khu vực cá nhân của người dân, hiến pháp phải hạn chế mọi áp lực
của chính quyền và xã hội để “bảo đảm và thực thi” những quyền bẩm sinh [1]
bất khả xâm phạm, bất khả khước từ của người dân, mà quan trọng nhất,
gồm có quyền sinh sống [xứng đáng nhân bản, an ninh, hạnh phúc], quyền
tự do [tư tưởng, sáng tạo, ngôn luận, hội họp, tín ngưỡng, thờ phụng,
khước từ] quyền tư hữu [vật chất và tinh thần].
Như vậy, với tư cách một khế ước xã hội,[2] Hiến
pháp xác định liên hệ thích hợp, thích đáng giữa cá nhân, xã hội và
chính quyền. Cá nhân hội nhập xã hội dân sự và xã hội chính trị trên
căn bản thuận nhận song phương [3] trong tinh thần hỗ tương, bảo vệ lẫn nhau, với những quyền hành và trách nhiệm tương xứng.
Luật
lệ và trật tự chính trị không có tính cách tự nhiên, bất dịch, và chỉ
có tính cách khả chấp, khi có chính nghĩa, khi thuận hoà với ước vọng
chung [4]
của toàn dân có chủ quyền tối hậu – gây áp lực công dân, thuận hay
chống, trong việc thi hành, bổ túc, điều chính, thay đổi, bãi bỏ một khế
ước xã hội, một thể chế chính trị.
2. Nguyên tắc cai trị mà theo đó mọi người dân, mọi tổ
chức pháp thể, tư cũng như công, kể cả Chính quyền, Nhà Nước đều phải
tôn trọng, thi hành một cách công minh, công bằng là nguyên tắc pháp trị
[5], hay thượng tôn luật pháp [không ai đứng trên pháp luật]
v.v. phải được suy diễn từ những quy định gốc sẵn có trong hiến pháp.
Mọi đạo luật, thủ tục ứng dụng luật pháp, hay cả điều khoản trong hiến
pháp nếu soạn thảo “ngoài phạm vi”[6] hay ngược lại một trong ba khu vực quyền hành và trách nhiệm quy định trong hiến pháp đều coi là vi hiến và vô hiệu.
3. Trong trường hợp đặc biệt cần bổ túc, cập nhật, điều chỉnh, sửa sai,
hiến pháp có thể được tu chính, hoặc thay đổi toàn diện, bằng những thủ
tục trọng thể, kỹ lưỡng. Hiến Pháp mới cần đem trưng cầu dân ý hay được
soạn thảo bởi một quốc hội lập hiến, do dân cử.
II. Quản trị quốc gia trên bình diện kết sinh thế lực chính đáng và trách nhiệm công minh
1. Quyền hành quản trị đất nước không
nên tập trung trong tay một cá nhân hay kiêm nhiệm bởi một đảng phiệt
chuyên chính, mà cần phân công, phân nhiệm tới thành phần dân cử, công
chức, chuyên viên, cán sự đa nguyên, đa dạng.
2. Dù là đại nghị hay tổng thống chế, căn bản vẫn là nhà cầm quyền phải được dân bầu từ gốc. Riêng,
với thể chế tổng thống, chính phủ trung ương, ở cấp lãnh đạo hay chuyên
ngành, phải được dân lựa chọn theo quyền đầu phiếu mở rộng và thủ tục
bầu cử minh bạch. Chính quyền trung ương thường được phân nhiệm thành ba
ngành chuyên biệt: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong tương lai, tại
Việt Nam, có nên thêm ngành giám sát/công tố để phanh phui và truy tố
cấp thời mọi vi phạm, lạm quyền, sai quấy, tham nhũng trong chính quyền
và các khu vực giáo dục, quản trị, doanh nghiệp, vụ lợi hay bất vụ lợi?
Trên
căn bản phân ngành độc lập, với quyền hạn và trách nhiệm đặc định,
chuyên biệt, tuy liên kết phục vụ quyền lợi chung của đất nước, dân tộc,
nhưng vẫn ở thế liên kiểm, nên chính phủ có cơ đồ duy trì mức độ cai
trị quân bình, không lạm quyền, không độc đoán, không suy thoái tập thể.
3. Thành phần công chức [7] hay công vụ [8], muốn hội nhập công minh guồng máy quản trị đất nước, phải được tuyển chọn và tiến cử trên căn bản chuyên cần, tài đức [9] — hơn là do bè phái hay màu cờ sắc áo đảng phiệt [10] — để một mặt tăng trưởng hiệu lực công vụ, mặt khác, giảm thiểu nạn độc tải, lạm quyền, tham nhũng.
4. Thành phần công chức, đang thi hành công vụ,
không được “làm chính trị”, để giữ thái độ trung kiên phục vụ người
dân, mà không bị áp lực đảng phái chi phối. Muốn ứng cử, tham gia phụ
giúp bầu cử, người công chức phải tạm ngưng công vụ trong chính quyền
hay nhiệm sở, để tránh tình trạng xung đột quyền lợi công vụ và chính
trị.[11]
5. Công chức, giáo chức, chuyên viên, cán sự,
thuộc thành phần chuyên cần, trọng yếu trong guồng máy hành chính, giáo
dục, quản trị, công cũng như tư, cần phải được đối đãi, tiến thưởng
xứng đáng với nghiệp vụ giao phó. Như thế sẽ giảm thiểu quốc nạn tham
nhũng, làm ăn bất hợp pháp, chạy chọt, phí phạm tài sản và nhân lực.
III. Tổ chức Xã Hội Dân Sự: Nẩy Mầm Dân Chủ từ Hạ tầng Cơ sở
Trong
hệ thống dân chủ chân chính nhằm bảo vệ và phát huy quyền lợi chung của
toàn dân, Việt Nam cần thực thi nhiệm vụ xã hội dân sự đặt trọng tâm
trên quan hệ hỗ tương, hỗ trợ để thực hiện lợi ích chung, hữu hiệu, mở
rộng.
Thế nào là Xã Hội Dân Sự [XHDS]?
Xã Hội Dân Sự [XHDS][12] tự nguyện đoàn ngũ hoá dưới hình thức các tổ chức bất vụ lợi,[13] độc lập, hoặc tổ chức phi chính phủ,[14]
để hoạt động trong các lĩnh vực xã hội, kinh tế, từ thiện, giáo dục,
tôn giáo, nghề nghiệp, điều nghiên, văn học, nghệ thuật, các phong trào
dân vận bảo trọng nhân quyền v.v.
XHDS
phải được minh thị tôn trọng như một nhu cầu chính đáng của dân, do
dân, vì dân. Mọi hình thức tổ chức XHDS khác, “phản dân sự”, đều có
tính cách trá hình, lươn lẹo, vừa phản động ngược chiều, vừa vô hiệu,
phí phạm nhân lực, tài lực, vì không gây được hào khí chí nguyện độc
lập, tự kiểm, tự duy.
1. Khu vực XHDS khác với khu vực cá nhân,
gia đình, nhóm phiệt khi những thành phần này hành động vì quyền lợi,
mục tiêu riêng rẽ của cá nhân, gia đình, bè nhóm, nhằm bảo vệ lợi ích
thu hẹp của họ. Trái lại, các tổ chức thuộc lĩnh vực XHDS hoạt động
theo tiêu chuẩn “tập thể mở rộng” như thành lập hội văn học, hiệp hội từ
thiện, cơ sở bảo vệ nhân quyền.
Kể từ những năm 1990, với sự hình thành của các Phong Trào Tân Xã Hội, [15] sinh hoạt XHDS đã đột phát mạnh để trở thành khối thế lực quản trị thứ ba [16], giữa chính phủ và doanh nghiệp tư bản [kinh tế thị trường].
Tại
các quốc gia mà mực độ tự do công dân còn quá thấp, với cơ cấu công
quyền chuyên chế còn lấn át quá mạnh, thì khía cạnh chính trị khó có thể
tách ra khỏi mục tiêu sinh hoạt của các tổ chức XHDS: [a] vừa giúp đỡ
xây dựng xã hội thiếu thốn về mặt vật chất, kinh tế, giáo dục, [b] vừa
bênh vực xã hội lâm nạn, bị ngược đãi tinh thần, mất tự do, mất phẩm giá
con người, bị truất quyền công dân, truất quyền sở hữu.
2. Khu vực XHDS khác với khu vực vụ tư lợi kinh tế thị trường.[17]
Trong khi các doanh nhân, các pháp nhân sĩ nghiệp, công ty thương mại
đều sinh hoạt mong lấy lời vì đầu tư sáng kiến, vốn liếng, máy móc, tổng
hợp thành “vốn tư bản”,[18] thì
các hiệp hội từ thiện, hiệp đoàn, các tổ chức khuyến học, bảo tồn văn
hoá, bảo vệ nhân quyền v.v. lại là những pháp nhân thiện nguyện, bất vụ
lợi, sinh hoạt với mục đích cung cấp ích lợi chung theo nhu cầu hơn là
theo khả năng. Vốn liếng của XHDS là “vốn xã hội”, [19] hay “vốn công dân thiện chí” là những đóng góp tự nguyện về nhân lực và kiến thức của người dân .
Mọi
sinh hoạt bất vụ lợi cũng cần phương tiện cụ thể, tiền bạc, cơ sở sinh
hoạt. Nhưng chỉ khác là những hạ tầng cơ sở tài lực và điều hành đó
không làm lợi cho thành viên các tổ chức hiệp hội, mà phải được phân
minh, để riêng thành các chương mục phục vụ tập thể cần cung phụng, theo
tiêu chuẩn của nội quy của hiệp hội và đường hướng chung của XHDS.
Có
ngân quỹ mới có dịch vụ cộng đồng, bảo vệ nhân phẩm, giúp đỡ từ thiện,
cải tiến môi sinh, nghiên cứu y tế công cộng, sáng tạo văn nghệ, phát
huy giáo dục v.v. Nhưng mọi thủ tục tài chính, thu và chi phải được
thực hiện theo đúng thủ tục minh bạch, đúng tiêu chuẩn, không lạm quyền
tư lợi, không a tòng tham nhũng.
3. Khu vực XHDS khác với khu vực công quyền [chính quyền, chính phủ, nhà nước],[20]
vì XHDS tự nguyện xây dựng căn bản công dân quyền trên các trụ lực hiến
định như tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp,
tự do sáng tạo, tự do phê phán công quyền v.v. Rõ rệt, XHDS giữ thế
đứng hiến định của cộng đồng, xã hội, trong việc xây dựng & bảo trì
nền tảng dân chủ.
Ngày
hôm nay, những ai có lương tri và lương tâm đều công nhận rằng XHDS,
với “Vốn Xã Hội” và đặc tính văn hoá tân xã hội, đã [a] một mặt tạo dựng
sức mạnh liên đới phát huy và bảo trọng nền dân chủ chân chính, [b] mặt
khác tiếp tục tìm phương thức giảm thiểu xung đột, va chạm, và các mâu
thuẫn, đối kháng trong xã hội.
Cái
ưu điểm của XHDS là sự nẩy mầm dân chủ từ hạ tầng cơ sở, từ ý dân, sáng
kiến, yêu sách, đòi hỏi, khuyến cáo của dân lên tới thượng tầng cơ sở
của hệ thống chính quyền có trách nhiệm đối với dân, đối với đất nước.
4. Khu vực XHDS chân chính cũng khác với hiện
tượng quái dị của các “tập đoàn dân sự” [sic] lấy tên là “Mặt Trận Tổ
Quốc Việt Nam” [MTTQVN] từ cấp thành phố, tỉnh, tới cấp huyện, và các
“Câu Lạc Bộ” đủ thứ [CLB, liên minh, liên kết với MTTQVN], đều được
thành lập bởi đảng viên cộng sản hoặc chuẩn-đảng-viên-khăn-quàng-đỏ.
Những cơ sở này tại Việt Nam ngày nay chỉ nên gọi một thuật ngữ mới là “Xã Hội Đảng Sự” [XHĐS], có thể dịch ra tiếng Anh-Mỹ là “Nomenklatura Society” [NS], với những quyền lợi riêng rẽ, ưu đãi, bất hợp pháp không khác mấy các “Xã Hội Đen” hoặc “Xã Hội Mafia-Đỏ”.
IV. Tiêu Chuẩn Tổ Chức Đảng Phái Chính trị trong Thể Chế Dân Chủ Tự Do
Tuy hiện tượng đảng phái chính trị đã có từ lâu, nhưng hệ thống pháp chế của đảng phái mới được xác định gần đây.[21]
Tiêu
chuẩn tổ chức đảng phái chính trị đề cập ở đây chỉ có tính cách điển
hình, căn cứ vào các nguyên tắc khả chấp của các thể chế dân chủ tự do
trên thế giới.
Vậy
đảng phái chính trị trong hệ thống dân chủ tự do có thể định nghĩa là
[a] sự hội họp tự do của các công dân [b] nhằm tham dự vào guồng máy
chính quyền [c] bằng cách đề cử ứng cử viên và [d] tham dự các cuộc
tranh cử tự do liên hệ.
Một
cách rộng rãi hơn, đảng phái chính trị là địa bàn tập thể [a] thực hiện
những quyền hạn căn bản, hiến định, bất khả khước từ của người dân, [b]
là nhịp cầu liên kết thế lực giữa các ngành và các tổ chức trong chính
quyền, và [c] khả năng chính đáng gây áp lực chính quyền với tư cách
đảng đối lập trong một nền dân chủ đa nguyên, đa đảng.
Như vậy đảng phái chính trị được thành lập với những nguyên tắc và quyền hạn sau đây:
1.
Quyền cá nhân kết hợp, hội họp một cách tự do, thuận hành, không bị
cưỡng ép. Đảng phái chính trị cũng phải được tự do thành lập, không bị
trở ngại, quấy rầy, không bị cấm đoán.
Quyền
hội họp còn có liên hệ phụ thuộc với quyền tự do ngôn luận, với tư cách
cá nhân hay tập thể. Khi đảng phái chính trị được bảo vệ, thì tiếng nói
của đảng, của thành viên đảng cũng phải được bảo vệ, không bị cấm đoán,
hay hạn chế.
Vì
mục đích của đảng phái chính trị là chuẩn bị cho thành viên tranh cử,
nên quyền ứng cử và bầu cử của thành viên đảng cũng phải được bảo vệ
tương xứng, không bị cấm đoán, hay hạn chế.
2.
Chính quyền có bổn phận ban hành luật pháp và các thủ tục pháp định bảo
vệ người dân thi hành quyền tự do hội họp, lập đảng và những quyền liên
hệ phụ thuộc của họ, bằng cách cấm đoán, giải trừ mọi trở ngại can
thiệp, sách nhiễu của lực lượng công quyền hay các đảng phái đối nghịch,
trên căn bản bảo toàn mọi sinh hoạt hợp pháp của người dân.
3.
Về mặt pháp lý, mọi hình thức hạn chế quyền hội họp và những quyền liên
hệ phụ thuộc của người dân đòi hội nhập hay thành lập đảng phái chính
trị phải được minh định rõ ràng trong hiến pháp hay bằng luật pháp hiện
hành, với lý do chính đáng, không thiên vị, căn cứ vào nhu cầu bảo vệ
nền dân chủ tự do.
4. Mọi sự hạn chế quyền hội họp phải hội đủ tính cách cân xứng với sự phương hại đích thực cho nền dân chủ tự do.
5.
Chính quyền không được cấm đoán cá nhân hay đảng phái hội họp trên căn
bản kỳ thị sắc tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, khuynh hướng
chính trị, tư tưởng, giai cấp xã hội, tư bản, khuynh hướng luyến ái v.v.
6.
Cá nhân hay tập thể phải được quyền gia nhập hay thành lập đảng phái
chính trị một cách công bình trước pháp luật, không bị kỳ thị, không
được biệt đãi. Những trường hợp tạm thời nâng đỡ các thành phần thiểu
số bị thiệt thòi trong quá khứ phải được coi là cần thiết, nên không có
tính cách biệt đãi bất công.
7.
Tính cách Chính trị Đa nguyên phải được coi là cần thiết cho môi trường
sinh hoạt dân chủ tự do chân chính. Chính trị đa nguyên là phương thức
cung cấp cho người dân nhiều cơ hội so sánh để lựa chọn đúng đảng và
đúng người chấp chính theo ý muốn của họ.
8.
Đảng phái chính trị khi tham chính, dù trong ngành lập pháp, hành pháp
hay tư pháp, đều phải xác định lập trường trung trực, không thiên vị,
thượng tôn luật pháp, bảo trọng công lý, quyền lợi chung của dân tộc,
của đất nước, đặt trên quyền lợi và cương lĩnh của đảng phái.
9.
Đảng phái chính trị trong chế độ dân chủ tự do [a] không được sử dụng
bạo lực như phương tiện chính trị, [b] không được xúi giục bạo động,
cũng như [c] không được phá quấy, cản trở quyền tự do hội họp, tự do
ngôn luận, phát biểu chính trị của đảng phái đối lập.
Quyền
biểu tình chống đối không lấn quá mức đến độ cản trở, triệt hại quyền
hội họp, phát biểu của đối phương. Sử dụng quyền chính trị phải có tính
cách song phương, tương xứng, chứ không thể độc đoán, một chiều.
Đảng
phái chính trị ôn hoà cũng phải được đối xử tương xứng và được chính
quyền bảo vệ khi có trường hợp vi phạm, sai quấy bởi đối phương.
10.
Đảng phái chính trị khi vi phạm luật pháp hay lạm quyền đảng vụ phải
được dành quyền bào chữa, sửa sai, đền bù theo đúng thủ tục luật pháp
quy định.
11.
Đảng phái chính trị cũng phải kê khai tình trạng tài chính liên quan
tới sinh hoạt đảng vụ, tuyên huấn, tranh cử, trong quyền hạn và trách
nhiệm pháp định.
V. Thế Lực Từ Nguồn Gốc Dân Tộc
Tất
cả những “thế lực” trên chỉ vẹn toàn sứ mạng hay thực thi đầy đủ quyền
hành và trách nhiệm nếu bắt nguồn từ một mội trường vững chắc, bắt nguồn
từ một Dân Tộc tự tạo, tự duy trên ba trọng lực: [1] văn hoá đạo đức
nhân bản, [2] giáo dục cấp tiến chân chính, [3] ý thức công dân và trách
nhiệm nhân loại.
1. Về mặt văn hoá và đạo đức nhân bản
Văn
hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra trong quá trình lịch sử. Đó là cũng là những mẫu mực mà con
người mong muốn, hay thừa nhận trong môi trường sinh sống.
Trong
khi người dân dưới trướng xã hội chủ nghĩa có khuynh hướng chạy theo
những mẫu mực giả tạo, thần thánh hoá, những bả vinh quang bịp bợm,
những giá trị vật chất, lợi lộc tức thời, ngắn hạn, phù phiềm, thì đã
tới lúc cả dân tộc phải tỉnh táo nhớ rằng văn hoá và truyền thống của
người xưa để lại trong gia đình, làng ấp chúng ta còn gồm những chân lý
hay tri thức về cái thật và cái đúng trong cách cư xử bao dung cuả con
người Việt Nam tử tế, tốt, biết điều.
Đã
tới lúc chúng ta về lại với bản thể xã hội nhân bản, với cơ cấu gia
đình và con người có tâm thức, có đạo đức như chúng ta có trước đây. Đã
tới lúc chúng ta cần nghe ngóng kinh nghiệm máu mủ của các thế hệ
trưởng thượng, những tri thức thiết thực, những nhắn nhủ giáo huấn xuất
phát từ mẫu mực và tình thương gia đình. Nhân từ, nhân ái bắt nguồn từ
những chân lý sâu sắc, ôn hoà.
Trong
khi văn hoá duy vật theo xã hội chủ nghĩa và lý thuyết cộng sản đặt
trọng tâm vào các mô hình mâu thuẫn xã hội, cốt để duy trì sự thống trị
của nhóm người này đối với nhóm người khác, qua những đợt thù hằn đấu
tranh giai cấp, thì đã tới lúc chúng ta xoá bỏ những chia rẽ văn hóa,
những bất công nhóm phiệt, những giá trị tạm bợ, màu cờ sắc áo, để tiến
tới một mô hình văn hóa hợp nhất cho mọi công dân trong nước, căn cứ vào
những mẫu số chung, những quyền lợi và trách nhiệm đối xứng, trong cách
chia sẻ, đối đãi công bình, ôn hoà, lương thiện, không mánh mung, tham
lam, không lừa lọc, vị kỷ.
Xã
hội Việt Nam của 90 triệu dân không thể mãi mãi là một xã hội vô sản,
bị tước đoạt mọi quyền sở hữu, bị lợi dụng, lường gát một cách tập thể
và trường kỳ. Và chắc cũng không ai muốn sống trong một xã hội tài
phiệt giả tạo gồm một thiểu số đại gia bá đạo, sống trong lâu đài, vàng
bạc phung phí trong khi toàn dân sống cảnh điêu tàn, cực khổ. Cái xã
hội mà 90 triệu dân muốn có là một xã hội dân chủ tự do, công bằng, bình
sản, đạo đức, thượng tôn luật pháp, mà con người có phẩm giá của con
người.
2. Về mặt giáo dục cấp tiến chân chính
Giáo
dục là đầu tư nhân sự, mà xã hội Việt Nam trước đây đã khơi mào góp tay
từ truyền thống giáo huấn gia đình, từ những căn dặn chất phát, căn
bản: “tiên học lễ , hậu học văn” — trước hết là học phép tắc, lễ nghĩa,
học làm người tử tế, sau đó mới học chữ, trau dồi kiến thức.
Đó
là khởi đầu của nền giáo dục chân chính, với một chương trình học vân
có căn bản: học thật, giáo huấn tử tế, văn bằng thật, kiến thức thật.
Giáo dục cấp tiến còn là cách hội nhập cái tinh thông, tân tiến, tinh tế
hầu cập nhật với tiến bộ loài người, trên căn bản kỹ thuật tinh vi và
kiến thức mở rộng, toàn diện, toàn năng.
Nhưng
thông thái không có nghĩa là mưu mô xảo quyệt, biết đủ mọi cách để lừa
lọc, phát minh tai hoạ. Và cầu tiến không có nghĩa là phải ăn trên ngồi
trốc, vượt bỏ thiên hạ, là tự cao tự đắc.
Ngược
lại tri thức và tiến bộ đích thực phải biết đo lường và vượt thắng ngay
chính bản thân, để lúc nào cũng có thể học hỏi thêm, cập nhật và hài
hoà với mình, với tha nhân, và môi trường sinh sống.
Giáo
dục chân chính giúp chúng ta đi hết con đường của đạo làm người trung
hậu, tự duy, tự kiểm. Nó cũng là mẫu mực thực thi quyền hành và trách
nhiệm làm một công dân tốt, đầy đủ tư cách.
3. Về ý thức công dân và trách nhiệm nhân loại
Khi
dân tộc Việt Nam chúng ta đã tái nhập một nền văn hoá có đạo đức của
con người lương thiện, công bằng, hài hoà; khi đa số con em chúng ta đã
hấp thụ một nền giáo dục cấp tiến chân chính nhân bản, thì tất cả chúng
ta chỉ cần thêm một bước nữa để có cái “vốn xã hội” vững vàng giữa những
thế lực hiến định đôi khi chống đối nhau, trong những khó khăn giai
đoạn.
Ý
thức công dân ngày hôm nay cũng có lúc biết vượt ra khỏi ranh giới của
đất nước mình để chăm sóc, hỗ trợ, tranh đấu quyền lợi cho những dân tộc
khác, cho cả nhân loại không kỳ thị nguồn gốc, sắc tộc, tôn giáo, văn
hoá, văn minh.
Vậy,
tới giờ phút này, nếu dân tộc chúng ta chưa đứng dậy tự vệ, đòi lại
quyền sống và phẩm giá cao quý của chính mình thì còn quy trách ai bây
giờ?
Mẹ Việt Nam vẫn bỏ bê lũ con của Mẹ,
vẫn để một lũ phản tặc gây tội ác mà không hề áy náy, bực tức. Mẹ Việt
Nam hằng ngày thấy gần 90 triệu con mình đang bị đày đoạ, cướp bóc, hủy
hoại từ thể xác tới tinh thần, mà vẫn vô cảm, không biết đứng dậy
chống đỡ, bảo vệ hay sao?
Giờ quy trách không còn nữa. Phải sòng phẳng, phân minh với chính mình.
Tất
cả chúng ta, nhất là giới trẻ, hãy cam kết muốn làm người Việt Nam tử
tế như trước khi bị CSVN xâm chiếm, đày đoạ. Tất cả chúng ta không ai
muốn sống chung với những kẻ tội phạm, bán nước, hại dân.
Nhưng
chúng ta sẵn sàng đón tiếp những ai thật lòng quay về với Chính Nghĩa
Dân Tộc. Trong số 3 triệu đảng viên CSVN chắc chắn quá bán còn trong
sạch; không bị quyền lợi bất chính cám dỗ; vẫn còn thành khẩn xót xa, lo
lắng cho tiền đồ dân tộc.
Như
vậy, sau khi dẹp xong tai ương CSVN trong nước, toàn Dân mới có đủ
quyền tự quyết; sẽ vững mạnh, tự tin; sẽ đoàn kết ra tay đánh đuổi kẻ
thù ngoại xâm và triệt tiêu mọi âm mưu bá chủ của Hán cộng trên lãnh thổ
và lãnh hải Việt Nam.
TS-LS LƯU NGUYỄN ĐẠT
www.vietthuc.org
GHI CHÚ
[1] natural/innate rights
[2] Social Contract/Contrat social,
[3] mutual consent
[4] general will/volonté générale: La « volonté générale » [Jean-Jacques Rousseau, Du contrat social,
livre II, Chapitre III] ou volonté du peuple, fonde la légitimité du
pouvoir politique.Les forces de l’État peuvent seulement être dirigées
par la volonté générale (l’accord des intérêts particuliers) pour tendre
vers le bien commun. La souveraineté populaire peut être déléguée, en
s’accordant provisoirement avec la volonté d’un homme, mais ne saurait
se soumettre dans la durée à la volonté d’un seul homme. Il est à noter
que la volonté générale ne correspond pas à la volonté de la majorité :
elle est, d’après Rousseau, “la somme des différences de la volonté de
tous”, à laquelle on a donc ôté les plus et les moins qui
s’entredétruisent.
[5] due process
[6] Ultra Vires
[7] fonction publique
[8] civil service,
[9] meritocracy
[10] The combination of both “plutocracy” [tài phiệt] and “oligarchy” [nhóm phiệt]” is called “plutarchy”
[11] conflict of interests.
[13] NPO [Non-Profit-Organizations]
[14] NGO [Non-governmental organizations]
[15] New Social Movements
[16] Third sector–
Voluntary or non-profit sector of an economy; EX.: ”intermediary space
between business and government where private energy can be deployed for
public good.” Also called tertiary sector
[19] Social capital is a sociological concept, which refers to connections within and between social networks.
The concept of social capital highlights the value of social relations
and the role of cooperation and confidence to get collective or economic
results. In general terms, it could be said that social capital is the
fruit of social relations, and consists of the expectative benefits
derived from the preferential treatment and cooperation between
individuals and groups.
Robert
Putnam has used the concept in a positive light: though he was at first
careful to argue that social capital was a neutral term, stating
“whether or not [the] shared are praiseworthy is, of course, entirely
another matter”,his work on American society tends to frame social
capital as a producer of “civic engagement” and also a broad societal
measure of communal health. He also transforms social capital from a
resource possessed by individuals to an attribute of collectives,
focusing on norms and trust as producers of social capital to the
exclusion of networks.
Mahyar
Arefi identifies consensus building as a direct positive indicator of
social capital. Consensus implies “shared interest” and agreement among
various actors and stakeholders to induce collective action. Collective
action is thus an indicator of increased social capital.
[21] Tổ Chức An Ninh & Hợp Tác Châu Âu [Organization for Security and Co-operation in Europe/OSCE], cùng Văn
Phòng Tổ Chức Dân Chủ và Nhân Quyên [Office for Democratic Institutions
and Human Rights/ODIHR] và Ủy Ban Châu Âu Dân Chủ Bằng Luật Pháp
[European Commission For Democracy Through Law/Venice Commission] trong
buổi hội họp tại Venice, Ý Đại Lợi, ngày 15 và 16 tháng 10 năm 2010, đã
xác định các Tiêu Chuẩn Tổ Chức Đảng Phái trong Thể Chế Dân Chủ Tự Do.
0 comments:
Post a Comment