Nhu Cầu Chống Ngoại Xâm
Nạn
ngoại xâm bởi Đế quốc Hán Cộng là một thực trạng lịch sử, gần đây thêm
sôi động bởi những hành vi hống hách của bá quyền Bắc Kinh nhằm thôn
tính Biển Đông và toàn bộ Khu Đông Nam Á, trong đó có chư hầu ý thức hệ
là CSVN;
Nạn
ngoại xâm bởi Đế Quốc Hán Cộng chỉ là hậu quả thanh toán nợ nần quân bị
chiến lược giữa những chế độ chuyên trị cướp đất, cướp dân, giữa những
tên đầu nậu quốc tế buôn bán súng đạn, ranh giới, đảo rừng, và quyền thế
đảng phiệt;
Nạn
Đế quốc Hán Cộng, dù trầm trọng tới mấy, vẫn chỉ là “hiện tượng nổi”
hay phản xạ tàn phá ngoài da cơ thể Tổ Quốc Việt Nam. Căn bệnh thật tại
nội tạng là CSVN, một thứ ung thư mà Dân Tộc chúng ta cần phải loại trừ
bằng đủ mọi cách, vừa điều trị vừa đề phòng.
Nhu Cầu Giải Trừ CSVN
Nhà
cầm quyền Hà Nội vốn không có chính danh vì nhiều lần cướp đoạt chính
quyền bằng bạo lực, lừa lọc, phản bội minh ước đã cam kết và nhất là
không hề có chính nghĩa vì luôn luôn chủ mưu bán nước, hại dân bằng mọi
thủ đoạn tiêu diệt, tù đày, cướp bóc tàn ác, nên không có tư cách, khả
năng và uy tín cần thiết để bảo vệ nền độc lập căn bản cũa dân tộc và sự
vẹn toàn lãnh thổ của tổ quốc;
Nhu Cầu Chính Nghĩa Dân Tộc
Vậy
muốn chống ngoại xâm Hán Cộng, cần dẹp tai ương CSVN, vừa bất nhân bất
nghĩa, vừa bất lực, bất tài. Nhưng chúng ta chỉ có thể giải trừ những
quốc nạn trên khi
-
trước hết, chúng ta ý thức nhu cầu ”vượt cộng”;
- đồng thời mong muốn xây dựng lại chính nghĩa dân tộc;
- và
tin rằng chỉ bằng hiệu lực dân chủ chân chính, toàn dân mới có nghị lực
chống nội xâm CSVN và uy lực tự vệ chống ngoại xâm Hán Cộng.
Do đó, chính Nghĩa Dân Tộc cần được xây dựng trên nền tảng Dân chủ tự do, tiến bộ thực sự của dân, bởi dân, vì dân, trên căn bản
-
pháp trị hiến định;
-
quản trị quốc gia kết sinh thế lực và trách nhiệm;
- song song với một hệ thống Xã Hội Dân Sự và Đảng Phái chân chính;
- xuất phát từ một dân tộc có nguồn gốc văn hoá, đạo đức, giáo dục.
I. Nền Pháp trị Hiến định Đa nguyên, Cân bằng
Hiến pháp mà Việt Nam
cần lựa chọn phải là một hệ thống quy ước thành văn, dưới hình thức
luật căn bản của lãnh thổ, xác định rõ thế lực kết sinh của ba thành tố:
chính quyền, xã hội, và người dân.
Như
vậy, với tư cách một khế ước xã hội,Hiến pháp xác định liên hệ thích
hợp, thích đáng giữa cá nhân, xã hội và chính quyền. Cá nhân hội nhập
xã hội dân sự và xã hội chính trị trên căn bản thuận nhận song phương
trong tinh thần hỗ tương, bảo vệ lẫn nhau, với những quyền hành và trách
nhiện tương xứng.
Nguyên tắc cai trị mà theo đó mọi người dân,
tổ chức, pháp thể, tư cũng như công, kể cả chính quyền, nhà nước đều
phải tôn trọng, thi hành một cách công minh, công bằng là nguyên tắc
pháp trị, hay thượng tôn luật pháp [không ai đứng trên pháp luật] v.v. phải được suy diễn từ những quy định gốc sẵn có trong hiến pháp.
II. Quản Trị Quốc Gia Trên Bình Diện Kết Sinh Thế Lực Chính Đáng Và Trách Nhiệm Công Minh
Quyền hành quản trị đất nước
-
không
thể tập trung trong tay một cá nhân hay kiêm nhiệm bởi một đảng phiệt
chuyên chính, mà cần phân công phân nhiệm tới các thành phần dân cử,
công chức, chuyên viên, cán sự đa nguyên, đa dạng.
- Trên
căn bản tam quyền phân lập: lập pháp, hành pháp, tư pháp, với quyền hạn
và trách nhiệm đặc định, chuyên biệt, trong thế liên kiểm. Ngoài ra
còn được tăng trưởng bởi “đệ tứ quyền” của cơ sở truyền thông báo chí
dân sự, tự trị.
Thành phần công chức hay công vụ phải thực thi đúng nguyên tắc và thủ tục quản trị
-
tuyển chọn theo nhu cầu công vụ và khả năng chuyên nghiệp, tài đức của từng đối tượng;
- tiến cử trên căn bản chuyên cần, tài đức; tiến thưởng xứng đáng với nghiệp vụ giao phó;
- tránh tệ đoan bè phái, màu cờ sắc áo đảng phiệt.
- thưởng phạt minh bạch sẽ giảm thiểu tham nhũng, phí phạm tài sản và nhân lực.
III. Tổ chức Xã Hội Dân Sự: Nẩy Mầm Dân Chủ từ Hạ tầng Cơ sở
Thế nào là Xã Hội Dân Sự [XHDS]?
Xã
Hội Dân Sự [XHDS] tự nguyện đoàn ngũ hoá dưới hình thức các tổ chức bất
vụ lợi, độc lập, hoặc tổ chức phi chính phủ, để hoạt động trong các
lĩnh vực xã hội, kinh tế, từ thiện, giáo dục, tôn giáo, nghề nghiệp,
điều nghiên, văn học, nghệ thuật, các phong trào dân vận bảo trọng nhân
quyền v.v.
Sinh
hoạt hợp pháp của tổ chức XHDS cũng cho phép lượng giá hệ thống pháp
trị hiện hữu là dân chủ cởi mở nếu tôn trọng hoạt động chính thống và
hợp hiến của XHDS; còn không sẽ phải coi là chuyên chế, phản dân chủ,
bất hợp hiến, khi cấm đoán, kiềm chế các tổ chức tập thể này.
XHDS
phải được minh thị tôn trọng như một nhu cầu chính đáng của dân, do
dân, vì dân. Mọi hình thức tổ chức XHDS khác, “phản dân sự”, đều có
tính cách trá hình, lươn lẹo, vừa phản động ngược chiều, vừa vô hiệu,
phí phạm nhân lực, tài lực, vì không gây được hào khí chí nguyện độc
lập, tự kiểm, tự duy.
1. Khu vực XHDS khác với khu vực cá nhân,
vì các tổ chức thuộc lĩnh vực XHDS hoạt động theo tiêu chuẩn “tập thể
mở rộng” như thành lập hội văn học, hiệp hội từ thiện, cơ sở bảo vệ nhân
quyền.
2. Khu vực XHDS khác với khu vực vụ tư lợi.
Căn bản trao đổi của XHDS không tùy thuộc vào yếu tố cung cầu trên thị
trường mà căn cứ vào thực trạng ưu tiên, mức độ khẩn cấp của nạn nhân,
của kẻ thất thế, cũng như căn cứ vào nhu cầu tinh thần của lý tưởng và
phẩm giá con người, của giá trị tư tưởng. Vốn liếng của XHDS là “vốn xã
hội”, hay “vốn công dân thiện chí” là những đóng góp tự nguyện về nhân
lực và kiến thức của người dân.
3. Khu vực XHDS khác với khu vực công quyền
vì XHDS tự nguyện xây dựng căn bản công dân quyền trên các trụ lực hiến
định như tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp,
tự do sáng tạo, tự do phê phán công quyền v.v. Rõ rệt, XHDS giữ thế
đứng hiến định của cộng đồng, xã hội, trong việc xây dựng & bảo trì
nền tảng dân chủ.
IV. Tiêu Chuẩn Tổ Chức Đảng Phái Chính trị trong Thể Chế Dân Chủ Tự Do
Định nghĩa một cách rộng rãi, đảng phái chính trị là địa bàn tập thể
-
thực hiện những quyền hạn căn bản, hiến định, bất khả khước từ của người dân,
- là nhịp cầu liên kết thế lực giữa các ngành và các tổ chức trong chính quyền,
- và là khả năng chính đáng gây áp lực chính quyền với tư cách đảng đối lập trong một nền dân chủ đa nguyên nguyên, đa đảng.
Như vậy đảng phái chính trị được thành lập với những nguyên tắc và quyền hạn sau đây:
Quyền
cá nhân kết hợp, hội họp một cách tự do, thuận hành, không bị cưỡng ép.
Đảng phái chính trị cũng phải được tự do thành lập, không bị trở ngại,
quấy rầy, không bị cấm đoán. Quyền hội họp còn có liên hệ phụ thuộc với quyền tự do ngôn luận, với tư cách cá nhân hay tập thể. Quyền ứng cử và bầu cử của thành viên đảng cũng phải được bảo vệ tương xứng, không bị cấm đoán, hay hạn chế.
Chính
quyền có bổn phận ban hành luật pháp và các thủ tục pháp định bảo vệ
người dân thi hành quyền tự do hội họp, lập đảng và những quyền liên hệ
phụ thuộc của họ.
Chính
quyền không được cấm đoán cá nhân hay đảng phái hội họp trên căn bản kỳ
thị sắc tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, khuynh hướng chính
trị, tư tưởng, giai cấp xã hội, tư bản, v.v.
Tính
cách chính thể đa nguyên phải được coi là cần thiết cho môi trường sinh
hoạt dân chủ tự do chân chính. Chính trị đa nguyên là phương thức cung
cấp cho người dân nhiều cơ hội so sánh để lựa chọn đúng đảng và đúng
người chấp chính theo ý muốn của họ.
Đảng phái chính trị trong chế độ dân chủ tự do
-
không được sử dụng bạo lực như phương tiện chính trị;
- không được xúi giục bạo động,
- cũng như không được phá quấy, cản trở quyền tự do hội họp, tự do ngôn luận, phát biểu chính trị của đảng phái đối lập.
V. TẠM KẾT: Nguồn Gốc Dân Tộc
Tất
cả những “thế lực” trên chỉ vẹn toàn sứ mạng hay thực thị đầy đủ quyền
hành và trách nhiệm nếu bắt nguồn từ một mội trường dân tộc vững chắc.
1. Về mặt văn hoá và đạo đức nhân bản
Đã
tới lúc cả dân tộc phải tỉnh táo nhớ rằng văn hoá và truyền thống của
người xưa để lại trong gia đình, làng ấp chúng ta còn gồm những chân lý
hay tri thức về cái thật và cái đúng trong cách cư xử bao dung cuả con
người Việt Nam tử tế.
Đã
tới lúc chúng ta về lại với bản thể xã hội nhân bản, với cơ cấu gia
đình và con người có tâm thức, có đạo đức như chúng ta có trước đây. Đã
tới lúc chúng ta cần nghe ngóng kinh nghiệm máu mủ của các thế hệ trưởng
thượng, những tri thức thiết thực, những nhắn nhủ giáo huấn xuất phát
từ mẫu mực và tình thương gia đình. Nhân từ, nhân ái bắt nguồn từ đó.
Từ những chân lý sâu sắc, ôn hoà.
Đã
tới lúc chúng ta xoá bỏ những chia rẽ văn hóa, những bất công nhóm
phiệt, những giá trị tạm bợ, màu cờ sắc áo, để tiến tới một mô hình văn
hóa hợp nhất cho mọi công dân trong nước, căn cứ vào những mẫu số chung,
những quyền lời và trách nhiệm đối xứng, trong cách chia sẻ, đối đãi
công bình, ôn hoà, lương thiện, không mánh mung, không tham lam, không
lừa lọc vị kỷ.
Cái
xã hội mà 90 triệu dân muốn có là một xã hội dân chủ tự do, công bằng,
bình sản, đạo đức, thượng tôn luật pháp, mà con người có phẩm giá của
con người.
2. Về mặt giáo dục cấp tiến chân chính
Giáo
dục là đầu tư nhân sự, mà xã hội Việt Nam trước đây đã khơi mào góp tay
từ truyền thống giáo huấn gia đình, từ những căn dặn chất phát, căn
bản: “tiên học lễ , hậu học văn” — trước hết là học phép tắc, lễ nghĩa,
học làm người tử tế, sau đó mới học chữ, trau dồi kiến thức.
Đó
là khởi đầu của nền giáo dục chân chính, với một chương trình học vân
có căn bản: học thật, giáo huấn tử tế, văn bằng thật, kiền thức thật.
Giáo dục cấp tiến còn là cách hội nhập cái tinh thông, tân tiến, tinh tế
hầu cập nhật với tiến bộ loài người, trên căn bản kỹ thuật tinh vi và
kiến thức mở rộng, toàn diện, toàn năng.
Nhưng
thông thái không có nghĩa là mưu mô xảo quyệt, biết đủ mọi cách để lừa
lọc, phát minh tai hoạ. Và cầu tiến không có nghĩa là phải ăn trên ngồi
trốc, vượt bỏ thiên hạ, là tự cao tự đắc.
Ngược
lại tri thức và tiến bộ đích thực phải biết đo lường và vượt thắng ngay
chính bản thân, để lúc nào cũng có thể học hỏi thêm, cập nhật và hài
hoà với mình, với tha nhân, với môi trường sinh sống.
Giáo
dục chân chính giúp chúng ta đi hết con đường của đạo làm người tử tế,
trung hậu, tự duy, tự kiểm. Nó cũng là mẫu mực thực thi quyền hành và
trách nhiệm làm một công dân tốt, đầy đủ tư cách.
3. Về ý thức công dân và trách nhiệm nhân loại
Khi
dân tộc Việt Nam chúng ta đã tái nhập một nền văn hoá có đạo đức của
con người tử tế, công bằng, hài hoà; khi đa số con em chúng ta đã hấp
thụ một nền giáo dục cấp tiến chân chính nhân bản thì chỉ cần thêm một
bước nữa, chúng ta đã trở thành những công dân tự giác, tự tạo, kết sinh
tạo dựng cái vốn xã hội làm trung gian vững vàng giữa những thế lực
hiến định đôi khi chống đối nhau, trong những khó khăn giai đoạn.
Ý
thức công dân ngày hôm nay cũng có lúc biết vượt ra khỏi ranh giới của
đất nước mình đệ chăm sóc, hỗ trợ, tranh đấu quyền lợi cho những dân tộc
khác, cho cả nhân loại không kỳ thị nguồn gốc, sắc tộc, tôn giáo, văn
hoá, văn minh.
Vậy,
tới giờ phút này, nếu dân tộc chúng ta chưa đứng dậy tự vệ, đòi lại
quyền sống và phẩm giá cao quý của chính mình thì còn quy trách ai bây
giờ?
Mẹ Việt Nam vẫn bỏ bê lấy chính mình,
vẫn để một lũ con gây tội ác mà không hề áy náy, bực tức. Mẹ Việt Nam
hằng ngày cùng gần 90 triệu con mình đang bị đày đoạ, cướp bóc, hủy hoại
từ thân thể tới tinh thần, mà vẫn vô cảm, không biết đứng dậy chống
đỡ, bảo vệ hay sao?
Giờ
quy trách không còn nữa. Phải sòng phẳng, phân minh với chính mình.
Tất cả chúng ta hãy nhận trách nhiệm làm người Việt Nam tử tế như trước
khi bị CSVN xâm chiếm, không sống chung với kẻ bất nhân, phạm tội, nhưng
sẵn sàng đón tiếp họ, nếu họ tự thú, tự giải, thật lòng quay về với
Chính Nghĩa Dân Tộc.
Vậy,
khi dẹp xong tai ương CSVN trong nước, khi có đủ quyền tự quyết, tự
duy, Toàn Dân mới vững mạnh, mới đủ tự tin và tâm thức đại đoàn kết để
ra tay đánh đuổi kẻ thù Hán Cộng ngoại xâm.
Trân trọng,
TS-LS. LƯU NGUYỄN ĐẠT
0 comments:
Post a Comment